HOÀNG HƯNG chuyển ngữ bản gốc tiếng Anh
Dịch giả gửi Văn Việt
MỘNG LAN
Mộng Lan sinh ở Sài Gòn, sang Mỹ sau 1975 khi cô 5 tuổi. Đỗ bằng Master về Thơ tại Đại học Quốc gia Arizona ở Tucson. Được nhiều giải thưởng và học bổng, trong đó có học bổng Fulbright nghiên cứu tại Việt Nam 2002-2003. Có thơ in trên nhiều tạp chí văn chương Mỹ. Tập thơ Bài hát ve sầu (Song of Cicadas) xuất bản năm 2001 (University of Massachusetts Press)
Cát, ruồi & cá
1
Tôi lấy một cốc mặt trời hấp hối, nhâm nhi. cụt lủn núi non Cam Bốt bên phải, Vịnh Thái Lan trước mặt. cảnh sát biên phòng đồng phục nhàu nhĩ im lìm như hình người trên phông vẽ. nắng nóng bết tóc những dòng mồ hôi quánh. một chú hải âu mổ trên cát đen. cát đen đến nỗi bạn tưởng mình kề địa ngục. tôi đợi mặt trời xuống sát mặt biển. buồn nôn vì đợi. chiều chiều tin tức quốc gia Việt Nam om xòm trên loa. những chuyển động chậm chạp của thế giới. mù mịt lửa. máu bầu trời chảy trên đại dương không xương.
2
tôi có miêu tả cho bạn từng chi tiết thì cái toàn thể vẫn vuột mất. làm sao bạn có thể thấy mép bờ nam của lục địa – điều ấy có nghĩa quái gì? hay cát đen nhạt dần chuyển sang màu lam của biển, hay núi non Cam Bốt đầy cảnh giác. có nghĩa gì cơ nếu tôi bảo bạn những con tàu vào bến ngay trước cửa sổ buồng tôi. rằng lúc không ở trong buồng, tôi lang thang qua các làng mạc ăn đất, bất cứ gì tôi xin được. chuyện xảy ra cho một người đàn bà. những chuyện ấy đã xảy ra. những sự cố ấy. tôi ngắm bụng mình phồng lên vì hạt giống của một người đàn ông, người ấy là một cái bóng. tôi đào đống muối lập loè trong ánh chiều, ăn trộm bất cứ thứ gì có thể đem ra chợ bán. phổi của đất rất khoẻ. nó lấp đầy hai tai đứa con bé bỏng của tôi với giọng nam cao của nó.
3
mép bờ này của thế giới là một con dao. những tay honda ôm còng lưng đợi, những chiếc đồng hồ trên bến tàu, cái nhìn thẫn thờ kiếm khách. mọi cái cái này ảo ảnh cái khác.
4
những đồng muối lấp lánh trong ánh sáng đại dương. ở đây quá nhiều ánh sáng khiến tôi có thể chết được. những ngôi nhà tre lênh khênh trên cát đen. những ngôi nhà gần nhau quá nên chung bóng in trên mặt nước. những ruộng tiêu giống như trứng đen khô dưới mặt trời. ở đây tôi mang thai và sinh đứa con đầu. ngón tay nó tập lia nhanh khi chạm vào cát. nó để cá bơi ra bơi vào hai lá phổi và dòng máu của nó. với nó đại dương và bầu trời là một môi trường, nó bước đi trong cả hai. rồi một ngày tôi để nó đi quá xa, và những con sóng đen ập xuống đem nó đi.
5
những ngư phủ mải mê trong một thế gíơi khác. vụ thu hoạch của họ khô trên những tấm lưới lớn bằng kim loại phơi nghiêng – bụi bám trên những tay mực xoè rộng. ngồi chồm hổm, hút thuốc, để ý từng tiếng xôn xao trên đường lộ. da họ nổi gân, nhão như đất sét. nằm trên võng, ruồi muỗi kết vòng trên đầu. họ biết tên thật của bạn chẳng cần hỏi.
6
tóc bà ta như ổ chuột. bà bóc nó ra trên mặt. lũ trẻ nắm tay thụi bà. bà xua gậy sang phải sang trái, la lên câu gì đó. lũ trẻ cười. mắt bà điên loạn. bước đi nhảy nhót, bà đập tiền lên quày quán cà phê mua đồ ăn. chúng cười. rùng mình, bà ném đồ ăn vào đám đông. chúng lại cười nữa. quần áo bà tơi tả, áo cánh rách toạc đường khâu, váy bà đầy bụi, hai bàn chân dày chai. thêm nhiều quả đấm vào bà. gậy bà chọc chọc. một người đàn ông xúc lũ trẻ đi. bà trút lửa hai màu cam trắng. những con mắt xuyên lưng bà. trong đà say bà vượt cầu phao không mua vé. lưu huỳnh sủi bọt xuống cằm, mớ tóc ổ chuột bốc lửa tới trời cao.
7
họ quan sát mặt đất, quan sát không trung. thu gom rác. những dải khăn tang trắng buộc ngang trán. những người tóc muối tiêu cúi đầu trò chuyện. trai gái mắt tròn đầy hoa quả, cơm, vòng hương, những tấm ảnh đen trắng ngả vàng chụp ông bà cụ kỵ. họ trưng diện cho nó, cho cái giống như nó. thoa phấn, tô son, chải tóc. sống thế nào, chết còn hơn thế. thằng bé của tôi chết lặng lẽ. chỉ trừ lũ chim, chẳng có con nào chứng kiến.
8
đại dương uốn mình quanh đất liền giống như con cá mắc lưỡi câu, thì thầm gì với chính mình. những thân xác ngâm nga, những ngôi nhà tre trơ trụi. những người đàn bà đập tôm vào đất sau khi những con tôm được phơi trên sân gạch hồng vuông vắn. lòng ruột moi ra, tháo vào Vịnh Thái Lan.
9
những con heo đến bến tàu mỗi sáng eng éc đòi mạng sống. những dãy mực phơi trên lưới giống như các hồn ma. cả ngôi làng được bảo quản tốt bốc mùi cá và mực khô. các cậu bé Việt Nam xem tivi Cam Bốt. cát đen ẩm ướt dưới chân tôi cũng nói bằng thứ tiếng khác, răng cà vào răng phương ngữ chọi phương ngữ, lưỡi oằn bắc và nam bờ biển và đất. xứ nào đây nhỉ? xưa đây là quê tôi, nơi con tôi ra đời, nơi nó chết. có lẽ đây là điều tốt nhất: tất cả những gì nó đã thấy là vầng mặt trời này.
LÊ THỊ DIỄM THÚY
Sinh tại Nam Việt Nam, lớn lên ở Nam California. Làm thơ và viết truyện. Có bài được đưa vào tuyển “Tiểu luận hay nhất của nước Mỹ năm 1997”
Không đề
Chẳng có gì ngoài tấm phim âm bản
của chị tôi liệm bằng vải hồng
trong cỗ hòm dựng nghiêng
để chụp hình mà
tôi chỉ còn giữ tấm phim này
Vì thế gương mặt chị kích thích
lạ lùng
sáng bừng như vầng trăng quyến rũ
giữa mái tóc
màu xanh đen bao phủ
khó phân biệt với màu tối của cỗ hòm
Như tôi nói,
gương mặt chị
kích thích
và thân mình chị là một bó
vải
hồng
tôi không nhìn thấy tay chân
(tôi là loại người đi tìm
những móng tay vặn vẹo
và
những ngón chân cong queo
phối hợp những cái kỳ quặc)
nhưng chẳng có gì kỳ quặc hơn
cái cách chị vẫn cứ trôi bồng bềnh
như thể chính cái chết vừa bắt gặp
trên đường
chị đang đi tới chốn nào đó
Chính tấm phim âm bản
sự ghi nhận tồi tàn về một địa điểm
chị đã
từng
ở
Mất rồi
Còn lại là
những dấu tay tôi
in trên tấm phim
Không đề
bên mép giường
anh ta nhìn thấy biển
mỗi sáng mai tiếng chim bay
trên mặt nước
đánh thức anh
và chúng tôi tự hỏi vì sao
người ta bỏ nhà đi mãi mãi lôi theo xoong chảo
lên đường
một dòng dài
đi bộ
mang
bát đĩa
đồ dùng gia đình
lương thực
món nữ trang rẻ tiền nhỏ nhất
để mở khoá
những ký ức nào
trên radio
một người đàn ông ở Sarajevo nói
tôi dắt chó đi dạo ngày hai lần
bất chấp mọi
phát súng bắn tỉa
mọi đợt tấn công
hay phòng thủ
kịch liệt
mọi hiểm nguy
khủng khiếp
cho cuộc sống
dân thường
mà radio cảnh báo
hàng ngày
chúng ta trở thành thi sĩ tất cả
phù hợp với sự điên rồ
tăng từng cấp độ
trông thấy lửa
giữa không trung
và tiếp tục như chẳng có gì
chẳng có gì
cản lối
sau khi chúng ta mất
tất cả mọi thứ
luôn luôn đa mưu túc kế
chúng ta tỉnh thức khi nhìn thấy biển
mùi vị và âm thanh của biển
ngay đằng kia
ở phía bên kia
của tấm bìa được đẩy tới
sát chân
giường
tất cả những con chim nhào xuống phía trên đầu
đường bay của chúng
một văn tự bí mật
chúng ta bỏ hết
quãng đời còn lại
để giải mã
CHRISTIAN LANGWORTHY
Christian Langworthy sinh tại VN năm 1967, tên khai sinh là Nguyễn Văn Phương. Qua Mỹ năm 1975. Có bằng Master về thơ ở Đại học Columbia vào năm 1997. Đoạt nhiều giải thưởng thơ, trong đó có giải của Viện Hàn lâm Thơ Mỹ, và từng được vào danh sách đề cử giải Pulitzer.
Sao băng
Ngay đến bây giờ tôi vẫn nghĩ là mặt trời đập vỡ
Các cao ốc thành mảnh vụn –
Tôi chẳng thể làm gì ngoài dựng một nơi trú ẩn
Cho người yêu tôi bắt được trong một buồng nhỏ bằng cát.
Tôi biết di chuyển một cái hạt
Trước khi nó mất tích lần nữa khi lăn xuống đồi
Có nghĩa là thế nào.
Hãy để ngôi sao băng ấy ném đi
Lịch sử của nó – Tôi sẽ giữ lịch sử của mình chôn chặt
ở nơi ánh sáng không thể lọt vào.
Hoá thạch
Thế là tôi bị đào lên, và họ
Tìm thấy chút xíu vết lông trên xương tôi.
Tôi ước mình có thể nói với họ rằng tôi đã không bay
Mà tôi treo lơ lửng để đợi
Cái sức nặng không tránh khỏi của không khí
LINH ĐINH
Linh Đinh sinh ở Sài Gòn năm 1963, sang Mỹ năm 1975. Viết thơ và truyện bằng tiếng Anh, bắt đầu làm thơ tiếng Việt từ những năm 1990 sau chuyến về nước đầu tiên. Đã xuất bản ba tập thơ: Drunkard Boxing (Võ Say) 1998, A Small Triumph Over Lassitude (Một Chiến Thắng Nhỏ đối với sự uể oải) 2001, A Glass of Water (Một Ly Nước) 2001, một tập truyện: Fake House (Nhà giả) 2000. Dịch và giới thiệu ở Mỹ nhiều ca dao, thơ, truyện Việt Nam, có hai tập sách đã xuất bản: Night Again: Contemporary Fiction from Vietnam (Lại đêm: Truyện Đương đại Việt Nam) 1996 và Three Vietnamese Poets (Ba nhà thơ Việt Nam) 2001.
Có thơ in trong Tuyển Thơ Mỹ Hay Nhất năm 2000 (bài “The Most Beautiful Word”), được Giải thưởng Rockefeller đài thọ một năm lưu trú tại ý (2002-2003)
Từ đẹp nhất
Tôi nghĩ “vesicle” là từ tiếng Anh đẹp nhất. Anh nằm xấp mặt, áo cháy hết, lưng bốc hơi. Chính tôi chảy máu. Lưng anh một mùa mụn giộp. Thân thể anh khóc. “Yaw” có thể là từ xấu nhất. Đừng nói: “Viên đạn lạng lách trong thân thể”. Hãy nói: “Viên đạn nhào về trước và ngoắt lên trên”. Ánh sáng xiên xuống.Từng cơ nhỏ trên mặt tôi co rúm. Tôi nhẹ nhàng lật anh bạn lên, như người tình nôn nóng. Cẩn thận không làm gãy đốt sống cổ. Những quân bài lách cách dưới lớp da dòn: Lách cách! Khuôn mặt xẹp trừng trừng. Một tia hồng phụt trong không khí, một thoáng cầu vồng. Chỉ xanh khâu hàm dưới vào linh hồn. Tôi nhổ một chiếc răng từ lưỡi. Anh đã nuốt phần còn lại.
Âm học
Tôi muốn khoan một cái lỗ trong băng, sưởi ấm một con giun trong nách, thế mà lắm đêm tôi không ngủ được. Kém mắt. Đái giắt. Đi trên phố tôi thường nghĩ có ai đó vẫy mình. Một thằng bạn mất hút từ lâu? Mẹ quá cố thân yêu? (Người còn sống). Tôi mỉm nụ cười tươi nhất. Thình lình tôi ngã ngửa, những người lạ vây quanh. Mặt khác tai tôi đâu nghễnh ngãng. Tiếng thì thầm nhẹ nhất ngoài dặm xa, cả ngàn dặm xa, tùy gió tùy độ ẩm, tùy lượng bụi trong không khí, cũng đầy ắp những xoắn tai ngoài và nghiền tan những lóng xương nhỏ nhất trong cơ thể tôi.
Người chết
Trái cầu cao su chín tuổi
Nảy tung lên từ mũi chiếc xe tải
Giờ tưng trên trán trái banh da.
Bà lão ăn xin thịt hộp
Của những người ngoại quốc nằm trong hố đạn cối
Giờ bán nữ trang vàng ở Santa Barbara .
Người chết không chết mà vẫy chào những kẻ xa lạ xinh đẹp
Từ trên chiếc xe tải nhỏ Đại lộ Bolsa.
Họ ngồi ở các bàn formica hút thốc lá giảm giá.
Một số đã nhuộm tóc, đổi tên thành Bill.
Nhưng người sống, một số người sống, muốn đào người chết lên,
Khoác quốc phục lên mình họ, bắn họ lần nữa,
Ngắm nhìn thân thể họ trỗi dậy từ từ.