Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 4)

Biên tập: Sergio BitarAbraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Chương 2

Công cuộc chuyển hóa thành công của Chile:

Từ tình trạng phân cực gay gắt sang dân chủ ổn định

Genaro Arriagada

Năm 1970, Chile có khoảng chín triệu dân và đứng thứ ba về thu nhập bình quân đầu người ở Mỹ Latin. Đó là xã hội tiên tiến về chính trị và có hệ thống đảng phái khá phát triển, chia thành ba nhóm gần bằng nhau, thể hiện ảnh hưởng mạnh mẽ của châu Âu. Cánh tả có hai đảng theo đường lối Marxist-Lininist; đảng lớn hơn thân với Đảng Cộng sản Liên Xô, là đảng Cộng sản lớn thứ ba trong thế giới phương Tây, chỉ sau hai đảng ở Italy và Pháp. Lực lượng chiếm ưu thế trong phái trung dung là đảng Dân chủ Cơ đốc, ngả sang cánh tả hơn là những đối tác của họ ở châu Âu và có tầm quan trọng ngang với Đảng Dân chủ Cơ đốc ở Italy và Đức. Cánh hữu có truyền thống dân chủ, các đảng cánh hữu được tổ chức tốt hơn so với cánh hữu trong các nước Mỹ Latin khác. Từ lâu, các lực lượng vũ trang đã nằm dưới quyền kiểm soát của các quan chức dân sự.

Đây là bối cảnh của chiến thắng của Salvador Allende thuộc phong trào Đoàn kết Nhân dân (Unidad Popular) trong cuộc bầu cử 1970. Allende giành được chức tổng thống với 36% phiếu bầu, nhưng đảng của ông lại chiếm thiểu số trong cả hai viện Quốc hội. Các nhà quan sát vẫn không thống nhất được với nhau về bản chất thực sự của dự án của Allende. Những người gièm pha coi nó là nỗ lực nhằm thiết lập thêm một nước “xã hội chủ nghĩa” nữa. Còn đối với nhiều người đồng đảng với ông, thì đây là dự án chưa từng có, dự án này tìm cách xây dựng mô hình thay thế và đa nguyên để chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Đối với những người khác, cuộc thí nghiệm của Chile không thể thoát khỏi “những qui luật của chủ nghĩa xã hội khoa học”, trong đó có sự tất yếu của thời kì “chuyên chính vô sản”. Dù mục đích của chính phủ Allende có là gì thì Chile cũng bắt đầu trượt dần theo hướng bất dung; xung đột (và bạo lực) chính trị và xã hội – cả trên lời nói lẫn trên đường phố – ngày càng trầm trọng thêm.

Vụ đổ vỡ năm 1973

Cuộc can thiệp quân sự của tướng Augusto Pinochet, kết thúc bằng vụ lật đổ và cái chết của Allende ngày 11 tháng 9 năm 1973, là vụ bạo động quá tàn ác. Mặc dù không có kháng cự bằng vũ lực, nhưng đã có khoảng 3.000 người bị giết trong những ngày đầu tiên, phần lớn là bị hành hình. Nhà tù chật ních chính trị phạm, một số trại tập trung được thiết lập. Không dưới 100.000 người đã bị buộc phải lưu vong ra nước ngoài. Hàng chục ngàn người làm việc trong các công sở, các trường đại học, trường học, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân bị đuổi việc. Tra tấn đã trở thành công cụ quan trọng nhất của chế độ.

Chính phủ ra lệnh giải tán cơ quan lập pháp, công đoàn và các đảng phái chính trị. Chính phủ còn đốt bỏ danh sách cử tri và can thiệp vào các trường đại học, bổ nhiệm các sĩ quan tại ngũ làm hiệu trưởng các trường đại học. Chính phủ đóng cửa những tờ báo bị nghi ngại sẽ không ủng hộ chính phủ một cách vô điều kiện, và lập ra cơ quan kiểm duyệt báo chí và sách vở. Chính phủ yêu cầu tất cả tờ báo ra hàng ngày và tạp chí phải được bộ nội vụ chuẩn y. Chính phủ thi hành lệnh giới nghiêm trong hơn một thập kỉ.

Cuộc đảo chính với mức độ tàn bạo như thế đáng lẽ đã bị người dân của một nước với thành tích dân chủ như ở Chile bác bỏ. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Trước đó, xã hội phân cực quá mạnh, lòng hận thù về chính trị và xã hội đã thấm vào toàn bộ cơ cấu xã hội. Rối loạn trên đường phố xảy ra hằng ngày, đấy là do tất cả các phía thường xuyên tổ chức những cuộc biểu tình lớn. Các xí nghiệp, trường đại học, và những vùng đất bị các nhóm muốn nhà nước quản lý hay những nhóm muốn cứu chúng khỏi sự can thiệp của nhà nước, chiếm giữ.

Phần đông dân chúng coi đảo chính quân sự là giải pháp – trở về trật tự – và ủng hộ nó vô giới hạn và bằng một con mắt (tức là, một mắt nhìn thấy trật tự và sự thịnh vượng nào đó về kinh tế, trong khi mắt kia không nhận ra những vụ vi phạm nhân quyền đang lan tràn khắp nơi). Tầng lớp doanh nhân ủng hộ đảo chính, họ tỏ ra hân hoan trước hết là vì đã lấy lại được các doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát hay bị những người biểu tình chiếm giữ và sau đó là việc nhà nước áp dụng chính sách kinh tế tân tự do chính thống. Nhưng sẽ không chính xác nếu nói rằng sự ủng hộ của xã hội đối với chế độ kết thúc ở đây; sự ủng hộ lan rộng sang tất cả các tầng lớp xã hội, với mức độ khác nhau.

Con đường đầy chông gai của phe đối lập

Sự tàn bạo của cuộc đảo chính đã phá vỡ liên minh giữa quân đội và đảng Dân chủ Cơ đốc, tức là liên minh đối lập với Allende. Những vụ vi phạm nhân quyền tràn lan và sự hận thù mà chế độ độc tài dành cho các đảng phái chính trị đã dẫn đến sự kiện là cuối năm 1973 đảng Dân chủ Cơ đốc trở thành lực lượng đối lập với chế độ. Pinochet phản ứng lại bằng cách tuyên bố rằng đây là đảng bất hợp pháp và tịch thu tài sản cũng như văn phòng của đảng này. Nhưng hành động này đã không chấm dứt được mâu thuẫn giữa đảng Dân chủ Cơ đốc với liên minh những người Xã hội và những người Cộng sản; đúng hơn, cả hai bên vẫn tiếp tục cuộc bút chiến đầy hận thù về việc ai là người phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của chế độ dân chủ. Và do đó, phe đối lập bị chia rẽ là đặc điểm của chế độ quân sự trong những năm đầu tiên: Đảng Dân chủ Cơ đốc là đảng mạnh nhất ở trong nước, trong khi Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản lại là lực lượng giữ thế thượng phong trong kiều dân Chile ở nước ngoài.

Tuy nhiên, tình trạng đối đầu được nhiều người quan tâm giữa chính quyền quân sự và phe đối lập đã xuất hiện. Bộ máy tình báo quân sự – hoạt động mà không chịu bất kì sự giám sát nào về mặt đạo đức hay pháp luật – rất mạnh, nhưng ngày càng có nhiều tổ chức nhân quyền bắt đầu báo cáo về tội ác của họ. Chính phủ kiểm soát hoàn toàn các trường đại học, nhưng những cơ sở nghiên cứu (think tank) đối lập gia tăng nhanh chóng đã đưa phần lớn những người trong cộng đồng trí thức liên kết lại với nhau. Sau khi giải tán các công đoàn, chính phủ đứng ra thành lập “phong trào công đoàn vàng”, nhưng không thể loại bỏ được ảnh hướng của các nhà lãnh đạo của công nhân liên kết với phái tả và đảng Dân chủ Cơ đốc, những người được hoạt động hợp pháp ở Chile cũng như ở ngoài nước. Các đảng, mặc dù bị đàn áp bầm dập, vẫn duy trì một phần cơ cấu của họ. Giáo hội Công Giáo, được sự đồng ý của các giám mục và cha xứ tiếp tục bảo vệ các luật sư nhân quyền và những tổ chức khác nhau của xã hội dân sự.

Sau năm 1980, có một số yếu tố giúp phe đối lập tổ chức tốt hơn. Cuộc tranh luận về việc nhóm nào phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ chế dân chủ được thay thế bằng việc các đảng phái công nhận lỗi lầm của chính mình; các nhà trí thức từ các nhóm khác nhau đã có nhiều đóng góp cho xu hướng này. Quan trọng nhất là, trong các tổ chức đấu tranh chống lại chế độ quân sự, những người từng là kẻ thù chính trị của nhau trong những thập niên 1960 và 1970 đã bắt đầu kết hợp với nhau. Những khác biệt về chính trị trong giai đoạn đầu, mặc dù vẫn tồn tại, đã phải nhường chỗ cho nhu cầu tiến hành những công việc cụ thể để bảo toàn mạng sống, để tố cáo những vụ vi phạm, để tổ chức những cuộc biểu tình chống chế độ, cung cấp tiền cho các bếp ăn công cộng dành cho những gia đình thất nghiệp.

Năm 1980, chế độ tổ chức trưng cầu dân ý – mà không dỡ bỏ tình trạng phong tỏa, không có danh sách cử tri, không tổ chức các diễn đàn, không tranh luận hay quảng bá – nhằm thông qua bản hiến pháp mới. Phe đối lập tố cáo toàn bộ quá trình là gian lận, nhưng sáng kiến ​​của chính phủ đã cung cấp cơ hội thực sự cho Đảng Xã hội và Dân chủ Cơ đốc làm việc cùng nhau. Trong thời gian này, đã diễn ra một cuộc sắp xếp lại, cả ở Chile lẫn ở ngoài nước, làm thay đổi bản chất của phe đối lập. Phe đa số trong Đảng Xã hội đoạn tuyệt với phong trào “xã hội chủ nghĩa” quốc tế do Liên Xô dẫn dắt và phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với các đảng Dân chủ Xã hội của châu Âu. Đồng thời, Đảng Cộng sản Chile cũng chuyển hướng, họ đề nghị xây dựng chủ nghĩa xã hội với hình thức tiên tiến, bằng các phương tiện chính trị cũng như các hoạt động bán quân sự và quân sự, trong đó có cả những hành động khủng bố. Trong phe đối lập, giữa các lực lượng đã xuất hiện tương quan mới. Một bên là Đảng Cộng sản; bên kia nền tảng chung ngày càng mở rộng giữa đảng Dân chủ Cơ đốc và Đảng Xã hội, những người khẳng định rằng phải đánh bại chế độ thông qua quá trình vận động xã hội một cách hòa bình và tổ chức tốt hơn của các đảng phái và xã hội dân sự để buộc chế độ phải thực hiện quá trình chuyển tiếp bằng đàm phán để tiến tới chế độ dân chủ.

Trong những điều kiện mới, phe ôn hòa trong lực lượng đối lập gia tăng gấp đôi hoạt động của mình, họ lập ra Liên minh dân chủ (Alianza Democratica) và Hội đồng xã hội dân sự (Asamblea de la Civilidad). Alianza là hiệp ước giữa một số đảng phái chính trị tập hợp xung quanh Đảng Xã hội và Dân chủ Cơ đốc. Asamblea là thỏa thuận về mặt xã hội giữa các hội nghề nghiệp, công đoàn, hiệp hội sinh viên và những nhóm các lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ. Mấy năm sau, năm 1985, Giáo hội nhóm họp hội nghị Hòa hợp Dân tộc (National Accord), có cả một số đại diện của phái hữu, những người từng hợp tác với chế độ độc tài. Tất cả những sáng kiến này đã được tổ chức lại nhằm hỗ trợ cho cương lĩnh ôn hòa, có thể giành được sự ủng hộ rộng rãi nhất của xã hội, trừ phái cộng sản, những người tiếp tục đòi áp dụng “tất cả các hình thức đấu tranh”, kể cả bạo lực.

Trong nửa đầu những năm 1980, phe đối lập đã thu được những thành tích đáng kể, Nhưng họ không thể che giấu được hai thất bại lớn. Thứ nhất, không có khả năng lôi kéo được những nhóm quan trọng trong cánh hữu. Cánh hữu theo chủ nghĩa tự do, vốn là lực lượng thường xuyên hiện diện trong suốt lịch sử của nước cộng hòa Chile; sau cuộc đảo chính năm 1973, đã bị đẩy ra ngoài và đã được thay thế bằng một nhóm hổ lốn những người dân bình thường nhưng ủng hộ lực lượng quân phiệt và những người Công giáo có thái độ cởi mở (integristas), tức là những người không tin chế độ dân chủ, và một số người tân bảo thủ, với quan điểm là chỉ áp dụng chủ nghĩa tự do trong lĩnh vực kinh tế mà thôi. Khó khăn thứ hai là sự xung đột giữa chiến lược của Alianza Democratica và của Cộng sản, làm cho phe đối lập chia rẽ. Diễn ngôn của phe ôn hòa và lời kêu gọi giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng cũng liên tục mâu thuẫn với những hành vi bạo lực, trong đó có những hành vi như, quậy phá trong các cuộc biểu tình trên đường phố, phá các trạm biến áp và mưu sát.

Mâu thuẫn có hại này bùng nổ trong các protestas, tức là những cuộc biểu tình tổ chức mỗi tháng một lần, bắt đầu từ năm 1982. Các cuộc biểu tình hòa bình đã được tổ chức suốt ngày, còn lúc hoàng hôn thì các gia đình trong nhiều khu vực gõ nồi niêu xoong chảo, làm cho thành phố đầy những tiếng động đinh tai, nhức óc. Nhưng ban đêm, các nhóm cực đoan lại đụng độ với cảnh sát, dẫn đến nhiều vụ phá hoại và nhiều thanh niên chết, mà thường là những thanh niên xuất thân từ những khu vực nghèo nhất. Trong khi đó, dường như những người tả khuynh cực đoan đã tham gia vào việc giết hại cảnh sát, đặt bom trong tàu điện ngầm và thực hiện những hành động phá hoại. Chính phủ phản ứng một cách tàn bạo: ám sát, trong đó có vụ ám sát nhà lãnh đạo công đoàn, Tucapel Jimenez; ba giáo sư, đảng viên cộng sản bị cắt cổ; và trong một ngày biểu tình, hai sinh viên bị nhóm cảnh sát tuần tra phun xăng vào người và sau đó thì bị thiêu sống. Những nhóm cấp tiến nhất của chế độ hân hoan chào đón bầu không khí đầy bạo lực này, đấy chính là những nhóm tìm cách biện minh cho “giải pháp bàn tay sắt” (la mano dura), coi đó là hình thức duy nhất trong việc lập lại sự tuân phục và trật tự, đồng thời coi phe đối lập (không cần phân biệt phái nào) là lực lượng vô chính phủ.

Mặc cho môi trường như thế, phe đối lập ôn hòa tiếp tục theo đuổi những nỗ lực của mình để thống nhất và thông qua những thỏa thuận bao quát hơn. Ngược lại, chiến lược của Đảng Cộng sản đã gặp thất bại thảm hại. Nửa sau năm 1986, người ta đã phát hiện được một kho vũ khí khổng lồ trên bãi biển hẻo lánh ở miền bắc Chile, đây là số vũ khí do Frente Patriotico Manuel Rodriguez (FPMR), cánh vũ trang của Đảng Cộng sản, nhập lậu từ Cuba. Một tháng sau, FPMR tìm cách ám sát Pinochet. Vụ mưu sát thất bại, nhưng năm hay sáu vệ sĩ của nhà độc tài đã thiệt mạng. Như vậy là, năm 1986 đã kết thúc bằng sự kiện là chế độ được củng cố, Pinochet kiểm soát toàn diện và tuyệt đối quân đội, và các chiến lược của Cộng sản bị phá sản. Nhưng liên minh giữa Đảng Xã hội và Dân chủ Cơ đốc, mặc dù phải bơi ngược trào lưu phân cực và bạo lực, đã đủ mạnh để có thể tiếp tục chiến lược vận động xã hội với sự ủng hộ của xã hội dân sự và những đảng phái chính trị đã hồi sinh.

Khởi đầu công cuộc chuyển hóa

Năm 1987, chế độ độc tài bước sang năm thứ 14, bức tranh ngày càng trở nên phức tạp hơn. Chính phủ và phe đối lập đã đạt tới điểm cân bằng quyền lực tạm thời. Sức mạnh của Pinochet vẫn còn rất lớn; chủ yếu là quyền lực nhà nước và sức mạnh quân sự. Ông ta là người đứng đầu nhà nước, đồng thời là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, mà ông ta nắm quyền lực tuyệt đối: Một lực lượng đoàn kết, vâng lời, không can thiệp vào chính trị, và trung thành với tổng tư lệnh. Ông ta cũng được tầng lớp thượng lưu và giới doanh nhân ủng hộ.

Nhưng bên phe đối lập, tình hình cũng không đến nỗi tệ. Một trong những đặc điểm nổi bật của phe đối lập là sức mạnh của các thiết chế của nó, có nghĩa là lãnh đạo của phe đối lập có tính tập thể chứ không tập trung vào những cá nhân có khả năng lôi cuốn quần chúng. Sức mạnh của nó nằm trong lĩnh vực chính trị, xã hội và quốc tế. Các đảng, mặc dù hoạt động bất hợp pháp, được tổ chức tốt, đủ sức kêu gọi các cuộc biểu tình, huy động được hàng trăm ngàn người tham gia. Phe đối lập cũng dựa vào các tổ chức độc lập với nhà nước, ví dụ, nhà thờ, công đoàn, các tổ chức của sinh viên, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức phụ nữ và hội đồng hương. Phe đối lập được sự đồng tình của của dư luận quốc tế và sự cảm thông gần như nhất trí tuyệt đối của các chính phủ ở châu Âu, ở Bắc và Nam Mỹ. Phe đối lập cũng mạnh thêm nhờ có những nhân vật đầy uy tín, những người có vai trò quan trọng trong việc đưa lực lượng đối lập lại với nhau và thiết kế chiến lược hoạt động cho nó. Đấy là Patricio Aylwin và Ricardo Lagos, cả hai người đều nổi lên như những nhân vật chủ chốt trong phe đối lập với Pinochet và giúp xây dựng được sự hợp tác giữa phái trung tâm và cánh tả; sau khi chế độ dân chủ được khôi phục, cả hai ông này đều trở thành tổng thống Chile.

Trong những năm 1980, Chile rơi vào trạng thái cân bằng đầy tai họa. Pinochet vẫn đủ mạnh để có thể duy trì quyền lực, nhưng không đủ mạnh để có thể đè bẹp các đối thủ. Đến lượt mình, phe đối lập cũng đủ mạnh – mặc dù có những áp lực dữ dội, trong đó có tình trạng bị bao vây – có thể tiếp tục kiểm soát xã hội dân sự và tình hình chính trị, nhưng chưa đủ mạnh để có thể thay đổi chính phủ.

Trong nửa sau của những năm 1980, ban lãnh đạo chính trị khéo léo của phe đối lập tìm cách xác định chương trình nghị sự và không chấp nhận chuyển mục tiêu. Phe đối lập quyết định phản đối cuộc trưng cầu dân ý mà hiến pháp Pinochet đặt ra vào cuối năm 1988 nhằm gây ra cuộc đối đầu mang tính quyết định. Phiếu “có” sẽ kéo dài chế độ độc tài thêm tám năm nữa; còn “không” thì sẽ phải tổ chức bầu cử. Mặc dù thời hạn trưng cầu dân ý đã được chấp nhận là năm 1988, phe đối lập kiên cường đấu tranh nhằm thay thế trưng cầu dân ý bằng cuộc tổng tuyển cử công khai. Nhưng khi chính phủ khẳng định rằng chỉ có thể là trưng cầu dân ý, phe đối lập đã chấp nhận điều kiện của chính phủ, vì họ sợ rằng cuộc bầu cử có tính cạnh tranh sẽ tạo ra những thách thức mà họ chưa chuẩn bị đầy đủ để đối phó (ví dụ, thỏa thuận một ứng cử viên và cương lĩnh tranh cử duy nhất), và do đó, cơ hội tốt nhất của sự thống nhất sẽ là “Nói không” với việc tiếp tục nắm quyền của Pinochet. Nhưng, phe đối lập cũng cảnh báo, nếu không có những điều kiện tối thiểu cho cuộc trưng cầu dân ý công bằng thì họ sẽ rút lui và lên án cuộc trưng cầu dân ý – ở Chile và trên trường quốc tế – là trò gian lận.

Tiếp đến là tổ chức chiến dịch “Nói KHÔNG”, đòi hỏi phải lôi kéo được nhiều lực lượng chính trị và xã hội lại với nhau. Chiến dịch này chấp nhận các khái niệm chuyển hóa một cách hòa bình tới dân chủ, tức là khái niệm tách biệt khỏi tư tưởng cách mạng hay đối đầu và không tìm cách “chiến thắng hoàn toàn” mà cam kết xây dựng “quê hương dành cho tất cả mọi người” (una todos patria para), trong đó, tất cả mọi người (trừ những người đã phạm tội) sẽ có “chỗ đứng dưới ánh mặt trời”, nghĩa là tất cả mọi người đều có những quyền như nhau và phẩm giá của họ được tôn trọng.

Ngày 5 Tháng 10 năm 1988, phe đối lập chiến thắng. Chiến dịch “Nói KHÔNG” giành được 56% phiếu, đấy là khởi đầu quá trình đếm ngược thời gian cầm quyền của chế độ độc tài. Tháng 12 năm 1989, trong cuộc bầu cử công khai, người đứng đầu nhà nước và hai viện quốc hội, Patricio Aylwin đã được bầu làm tổng thống nước cộng hòa. Mười năm sau, Ricardo Lagos được bầu làm tổng thống.

Quá trình chuyển hóa khó khăn (nhưng thắng lợi)

Quá trình chuyển hóa của Chile cho thấy một mâu thuẫn kì lạ. Sự khởi đầu khó khăn đến mức dường như chỉ có thể giành được kết quả không đáng kể; nhưng, hiện nay, đây được coi là một trong những vụ chuyển hóa thành công nhất.

Về chính trị, thời điểm khởi đầu rất bất lợi. Năm 1988, mặc dù Pinochet đã bị thua, ông ta vẫn giành được 44% số phiếu. Chế độ cũ đã rời bỏ quyền lực với một đội quân thống nhất, trung thành đứng đằng sau nhà độc tài, và cùng sự ủng hộ quyết liệt của hai đảng chính trị, cũng giành được 44% phiếu trong cuộc bầu cử cơ quan lập pháp đầu tiên. Phái hữu cũng được giới kinh doanh – một trong những nhóm bảo thủ nhất ở Mỹ Latin – ủng hộ gần như tuyệt đối. Mặc dù được sự hỗ trợ mạnh mẽ của các phe phái của mình, chế độ quân sự đã bị đẩy lùi, sau khi đã tạo được thành công về kinh tế; Chile đi theo mô hình của cuộc cải cách kinh tế theo đường lối tân tự do.

Khung thiết chế thậm chí còn tồi tệ hơn. Theo hiến pháp, Pinochet sẽ tiếp tục làm tổng tư lệnh Lục quân trong vòng tám năm nữa, gấp đôi nhiệm kỳ tổng thống của Aylwin. Hệ thống bầu cử “cặp” (binomal)[1] đảm bảo mối ràng buộc giữa chính phủ và phe đối lập trong cơ quan đại diện, chỉ có thể phá vỡ mối liên kết này trong các đơn vị bầu cử, trong đó một trong những liên minh giành được gấp đôi số phiếu bầu so với liên minh kia (ví dụ, ít nhất 67% số phiếu bầu). Ràng buộc trong quốc hội bị phá vỡ ở thượng viện theo hướng có lợi cho các lực lượng của chế độ cũ, đấy là do Pinochet bổ nhiệm tám thượng nghị sĩ suốt đời trong số những người thuộc phe đảng của ông ta. Ngoài ra, hiến pháp còn đòi hỏi phải có đủ số đại biểu được qui định mới được thông qua những bộ luật quan trọng, làm cho việc sửa đổi luật pháp là bất khả thi, nếu không được sự chấp nhận của phe đối lập. Trong năm cuối cùng, chế độ quân sự bổ nhiệm 14 trong số 17 thành viên của Tòa án Tối cao và ân xá những tội ác đã phạm liên quan đến nhân quyền.

Nếu hoạt động chính trị chỉ còn là làm những việc trong khuôn khổ thiết chế cho phép, thì quá trình chuyển hóa của Chile có thể đã chết ngay từ trong trứng nước. Trong cuộc đấu tranh nhằm “gỡ bỏ” cái khuôn khổ được thừa kế đó, chất lượng, sự đoàn kết, và sức mạnh của Concertación (tên đầy đủ: Concertación de Partidos por la Democracia, nghĩa là Liên minh các đảng vì dân chủ, là liên minh các đảng trung tâm và cánh tả ở Chile, được thành lập năm 1988 – ND) – công cụ chính trị của quá trình chuyển hóa – là nền tảng. Concertación thành công vì nó tạo ra liên minh chính trị quan trọng nhất mà Chile từng chứng kiến trong hơn một thế kỉ. Đó là liên minh chính phủ sống lâu nhất ở Chile, đã đưa được bốn người sau đây: Patricio Aylwin, Eduardo Frei, Ricardo Lagos và Michelle Bachelet – thông qua bầu cử – lần lượt lên làm tổng thống. Concertación đã tham gia, đoàn kết, trong tất cả các cuộc bầu cử tổng thống, cơ quan lập pháp và hội đồng thành phố trong suốt 20 năm. Các nhà lãnh đạo của phong trào này, từ tổng thống nước Cộng hòa cho tới các cơ sở, cùng chia sẻ một chương trình chính trị duy nhất và cùng chia sẻ cách tiếp cận với nó, tạo điều kiện cho các chính phủ kế tiếp nhau tiếp tục thực hiện những hành động cần thiết nhất của quá trình chuyển hóa tới (và sau đó là củng cố) dân chủ.

Đối với những vụ vi phạm nhân quyền trong quá khứ, mục tiêu to lớn trước hết là công nhận chúng, đòi phải có sự công nhận chính thức rằng đã xảy ra những vụ vi phạm như thế trên thực tế. Ủy ban Sự thật và Hòa giải do tổng thống Aylwin lập ra có vai trò vô cùng quan trọng. Cơ quan này đã tập hợp được tài liệu nói lên qui mô khủng khiếp của những tội ác mà chế độ độc tài đã phạm để cả nước biết những sự kiện đã từng xảy ra. Mấy năm sau, tổng thống Lagos lập ra Ủy ban về tù chính trị và tra tấn, Ủy ban này đã ghi nhận 30.000 trường hợp vi phạm nhân quyền. Tác động của những bản báo cáo này là rất lớn và đã tạo ra sự ủng hộ về mặt đạo đức đối với chính quyền dân chủ.

Một cố gắng tương tự đã được thực hiện nhằm loại bỏ các “ốc đảo độc tài” được tạo ra với mục đích rõ ràng là chống lại nguyên tắc đa số bằng cách biến Concertación – được nhiều cử tri ủng hộ hơn hẳn so với lực lượng của chế độ cũ – thành thiểu số mang tính thiết chế. Dưới thời Aylwin và trong những năm đầu tiên của người kế nhiệm ông là Eduardo Frei, người ta đã đệ trình ba dự thảo tu chính hiến pháp. Cả ba đều bị bác bỏ. Mặc dù cánh hữu đã thành công trong việc ngăn chặn những tu chính này, nhưng cũng rõ ràng là tính chính danh của các “ốc đảo” đó đã bị suy giảm. Họ buộc phải chấp nhận những sửa đổi sau đây: Bãi bỏ điều khoản đưa Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật; giảm số lượng đại biểu được qui định trong thủ tục thông qua luật pháp, và giảm dần quyền lực của Hội đồng An ninh; theo hiến pháp của Pinochet, cơ quan này cho phép hai tư lệnh quân chủng bác bỏ thẩm quyền của tổng thống. Cuối cùng, năm 2005, dưới chính quyền của Lagos, người ta đã thực hiện được những cuộc cải cách có ý nghĩa nhất, chấm dứt điều khoản các thượng nghị sĩ được chỉ định và cấm tổng thống bãi chức tổng tư lệnh quân đội và cảnh sát trong nhiệm kì kéo dài bốn năm của những người này.

Việc Pinochet tiếp tục làm tổng tư lệnh Lục quân sau năm 1990 làm cho Concertación khó giành được ngành tư pháp trong giai đoạn chuyển hóa. Dưới thời Aylwin, Pinochet đưa quân đội ra các đường phố nhằm giành những vị trí có thể đe dọa chính quyền dân sự. Quyết định của chính quyền Frei (trong khi Pinochet vẫn còn là tổng tư lệnh) bỏ tù tướng Manuel Contreras, đứng đầu lực lượng cảnh sát chính trị mật của chế độ độc tài trong những năm đàn áp khốc liệt nhất, cũng bị chống đối.

Từ Aylwin trở đi, các chính phủ của Concertación dứt khoát buộc các lực lượng vũ trang phải nằm dưới quyền các quan chức dân sự và chấp hành chế độ pháp quyền. Họ tôn trọng các sĩ quan chuyên nghiệp tại ngũ trước đây không dính líu với chính trị hay những vụ vi phạm nhân quyền và họ cung cấp đầy đủ kinh phí cho các lực lượng vũ trang. Nhưng đồng thời, cấm quân đội can thiệp vào chính trị. Hai quyết định này bổ sung cho nhau: Tôn trọng nghề nghiệp của các quân nhân đòi hỏi họ phải tuân thủ quyền chỉ huy của chính quyền dân sự.

Các chính sách kinh tế trong quá trình chuyển hóa ở Chile cũng đã mang lại thành công. Tăng, đầu tư, xuất khẩu, cân bằng kinh tế vĩ mô và các chính sách xã hội đều được quản lí tốt. Chile có thể học hỏi từ những quá trình chuyển hóa ở các nước khác, trong đó, một số nước đã thực hiện những chính sách dân túy, tạo ra lạm phát phi mã. Từ những ngày đầu tiên dưới chính quyền Aylwin đến những ngày cuối cùng dưới chính quyền Bachelet, kỉ luật tài chính của Concertación đã không ngăn cản những hành động mạnh mẽ nhằm giải quyết những đòi hỏi về mặt xã hội – nhiều đòi hỏi đã được tích tụ dưới chế độ độc tài – của những khu vực nghèo nhất. Aylwin nhấn mạnh tư tưởng “tăng trưởng đi đôi với công bằng”; “phát triển đi đôi với bình đẳng”, sau này sẽ là những khẩu hiệu quan trọng nhất trong chiến dịch tranh cử tổng thống của Lagos. Trong vòng 20 năm, chính quyền của Concertación đã đạt được thành tựu lớn là giảm được tỉ lệ người sống dưới mức nghèo đói từ 44% xuống còn 13,7%. Chính quyền của Aylwin đã thông qua và thực hiện chiến lược kinh tế mới: Xác định rõ luật chơi, trấn an giới doanh nhân để họ không tìm cách làm hồi sinh liên minh của họ với các lực lượng vũ trang, và lập ra thỏa thuận giữa doanh nghiệp và công nhân nhằm thúc đẩy công cuộc cải cách thuế khóa và lao động. Nhiều hiệp định thương mại tự do đã được đàm phán nhằm tạo điều kiện thuận lợi sự bùng nổ trong xuất khẩu. Sản xuất, đầu tư và việc làm gia tăng với tốc độ bền vững và có đóng góp vào sự thành công của quá trình chuyển hóa.

Các nhà lãnh đạo Concertación đã tỏ ra thận trọng nhằm giữ gìn uy tín về mặt đạo đức song hành với việc họ leo lên những chức vụ cao hơn trong chính quyền. Họ thực hiện các chính sách với ý thức về sự cân đối và công bằng, khoan dung và tìm kiếm thỏa hiệp. Các quyết định của Concertación thường dựa trên nguyên tắc trách nhiệm chứ không phải là quy kết; họ dành ưu tiên cho kết quả. Các nhà lãnh đạo coi chính trị là công cụ để tiến tới tự do, an ninh và thịnh vượng cho toàn bộ xã hội, chứ không phải là phương tiện cứu rỗi linh hồn, chữa trị lương tâm, hay liều thuốc điều trị tình trạng mệt mỏi và khó chịu.

Vào giai đoạn cuối của các chính quyền của Concertación – kéo dài 20 năm sau khi quá trình chuyển hóa bắt đầu – Chile dường như là nước phát triển nhất và ổn định nhất ở Mỹ Latin. Thu nhập bình quân đầu người gia tăng gấp ba lần và trở thành cao nhất trong khu vực; tốc độ tăng trưởng trung bình trong bốn chính quyền của Concertación gấp đôi tốc độ tăng trưởng trung bình trong 17 năm dưới chế độ quân phiệt. Tốc độ tăng trưởng cao như thế trong giai đoạn này đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong xã hội Chile. Chile có chỉ số phát triển con người (HDI) tốt nhất Mỹ Latin. Tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ thấp nhất khu vực. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International), đây là một trong những nước ít tham nhũng nhất trên thế giới. Cùng với Uruguay và Costa Rica, nước này nằm trong nhóm có vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng của Freedom House – xem xét cả sự tuân thủ trên thực tế và chất lượng của các quyền chính trị và tự do dân sự. Và nếu chúng ta khảo sát những cách đánh giá phức tạp hơn (ví dụ, của Ngân hàng Thế giới hay Bertelsmann Stiftung), tức là cố gắng đánh giá việc chấp hành pháp luật, khả năng quản lí, các quyền tự do chính trị, và chất lượng của nhà nước, thì một lần nữa, Chile lại được là coi là tốt nhất ở Mỹ Latin.

Những thành tích về kinh tế và xã hội song hành cùng với sự thỏa mãn hai thành tố quan trọng nhất của bất kì vụ chuyển hóa nào. Thứ nhất, đấy là quan hệ với quân đội. Mặc dù khởi đầu đầy khó khăn, 10 năm sau khi chế độ độc tài cáo chung, Chile đã khôi phục hoàn toàn quyền kiểm soát của các quan chức dân sự đối với lực lượng vũ trang, trên nguyên tắc chuyên nghiệp, tuân lệnh, không tranh cãi và phục tùng chính quyền dân sự hợp pháp. Trong số các nguyên nhân của thành công này phải kể đến chương trình huấn luyện quân đội, với đức hạnh cao quí nhất, của tướng Carlos Prats, tổng tư lệnh quân đội trước Pinochet, bị cảnh sát chính trị của chế độ ám sát năm 1974 ở Buenos Aires, và việc đưa thế hệ sĩ quan, tuy không phải là đối thủ của Pinochet, nhưng chí ít cũng không gắn bó với ông ta hay chính phủ của ông ta lên làm lãnh đạo lực lượng vũ trang. Yếu tố quan trọng thứ hai của quá trình chuyển hóa là xử lí những vụ vi phạm nhân quyền trong quá khứ; trong quá trình chuyển hóa ở Chile, người ta đã có những cố gắng rất lớn nhằm giành cho bằng được sự thật, công lí và bồi thường và làm cho người ta nhớ tới những tội ác đó. Đến giữa những năm 2000, hơn 100 quân nhân đã bị kết án, trong đó có tất cả các tướng lĩnh từng nắm chức giám đốc bộ máy an ninh của chế độ độc tài dưới thời Pinochet. Không có vụ chuyển hóa nào thực hiện được đầy đủ công lí đối với các nạn nhân của chế độ độc tài, nhưng những nỗ lực bền bỉ của Chile nhằm thực hiện điều đó là sự kiện nổi bật trong các quá trình chuyển hóa so với Nam và Trung Âu, châu Á, châu Phi và những nước khác ở Mỹ Latin, vì đã làm được nhiều việc nhất về vấn đề này.

Tiểu sử Patricio Aylwin, tổng thống Chile giai đoạn 1990–1994

Patricio Aylwin là luật gia trong lĩnh vực hiến pháp và giáo sư luật học, từng nhiều năm làm lãnh đạo chính trị đảng Dân chủ Cơ đốc ôn hòa. Ông từng là chủ tịch đảng Dân chủ Cơ đốc và là một thành viên (và chủ tịch) thượng viện Chile trong giai đoạn trước khi quân đội cướp được quyền lực. Ông nổi tiếng vì những lời phản đối chống lại tổng thống thuộc Đảng Xã hội, Salvador Allende, trong các cuộc đàm phán chính trị bất thành diễn ra ngay trước cuộc đảo chính tháng 9 năm 1973, do tướng Augusto Pinochet và các lực lượng vũ trang Chile tiến hành nhằm lật đổ chính phủ Đoàn kết Nhân dân của Allende. Mặc cho lập trường gây tranh cãi đó, cuối cùng Aylwin đã có vai trò then chốt trong việc hàn gắn những khác biệt giữa những thành phần chính trong lực lượng đối lập với Pinochet, lúc đó đang lâm vào tình trạng chia rẽ sâu sắc. Ông lãnh đạo Liên minh “Nói không”, đánh bại Pinochet trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1988, mở đường cho quá trình chuyển hóa sang chính thể dân chủ dân sự trong năm 1990.

Ôn hóa và quí phái trong cách cư xử, Aylwin giành được sự ủng hộ cho những thỏa hiệp mang tính chiến lược, giúp đưa phái ôn hòa, trung tả và trung hữu lại với nhau. Ông đã thiết lập cam kết vững chắc với chế độ pháp quyền và truyền thống chính trị dân chủ lâu dài của Chile. Là nhà lãnh đạo và tổng thống đầu tiên của liên minh Concertación por la Democracia, chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1989 và tất cả những cuộc tổng tuyển cử diễn ra sau đó – cho đến năm 2010 – Aylwin tiến dần tới việc thiết lập quyền kiểm soát của các quan chức dân sự đối với lực lượng vũ trang, trong khi vẫn còn những điều khoản ghi trong hiến pháp, do Pinochet áp đặt năm 1980, khiến việc thực hiện trở nên cực kì khó khăn. Ông tung ra những biện pháp nhằm ổn định nền kinh tế và được giới doanh nhân tin tưởng, tập trung chú ý nhiều hơn đến công bằng xã hội. Aylwin hoạt động như một đội trưởng, hầu như luôn luôn làm theo những cố vấn đáng tin cậy. Nhưng, ông nhận trách nhiệm cá nhân, mặc cho những lời khuyên của nhóm chính trị của mình, về việc khẳng định phải thành lập ủy ban đa nguyên và có tính đại diện nhằm xác định sự thật liên quan đến những vụ hành quyết và “mất tích” có dính líu tới chính trị dưới chế độ độc tài, và “trong chừng mực có thể”, nhằm tìm kiếm công lí. Quyết định đó, và kết quả là Ủy ban Công lí và Hòa giải (Ủy ban Rettid), đã giành được tính hợp pháp và sự ổn định trong suốt quá trình chuyển hóa dân chủ và mở ra khả năng phát triển trong tương lai theo hướng công lí trong giai đoạn chuyển hóa.

Phỏng vấn tổng thống Patricio Aylwin

Quá trình chuyển hóa của Chile từ chế độ độc tài Pinochet sang giai đoạn kéo dài của nền quản trị dân chủ và tiến bộ kinh tế thường được coi là khuôn mẫu. Trong tất cả những quyết định mà ông đã đưa ra để dẫn dắt quá trình này, xin cho biết hai hoặc ba quyết định mà ông cho là quan trọng nhất?

Trước hết, xin nói rằng, ngoài câu hỏi về những quyết định đó, lịch sử của đất nước tôi có vai trò cực kì quan trọng đối với quá trình chuyển hóa. Chile có lẽ là nước Mỹ Latin có chế độ dân chủ ổn định nhất, sau khi giành được độc lập. Và khi chúng tôi bị mất chế độ dân chủ, phục hồi nó trở thành nhiệm vụ cơ bản của toàn bộ quá trình của chúng tôi. Những người trong hàng ngũ của chúng tôi đang đấu tranh cho sự phục hồi dân chủ – cả phái tả lẫn phái ôn hòa (tôi thuộc phái này), những người thuộc Đảng Xã hội, những người thuộc Đảng Dân chủ Cơ đốc, cộng với những người thuộc Đảng Cấp tiến (chúng ta có thể gọi trung tả) – cái đưa chúng tôi lại với nhau, ngoài tinh thần muốn thay đổi và việc tìm kiếm xã hội công bằng hơn, là lòng khát khao chế độ dân chủ của chúng tôi.

Quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Khi tôi nói về truyền thống dân chủ của Chile, tôi nghĩ chúng tôi còn được hưởng lợi từ sự kiện là – không giống như nhiều nước Mỹ Latin khác, ở đấy các lực lượng vũ trang thường xuyên can thiệp vào chính trị, lúc nào cũng đặt điều kiện cho các chính phủ dân chủ – Chile rất ổn định và các lực lượng vũ trang vẫn phục tùng chính quyền dân sự, chỉ có vài ngoại lệ mà thôi. Ngay cả trong những giai đoạn có những biến động xã hội lớn, những cố gắng nhằm dựng lên chính phủ độc tài thường không tìm được cơ sở ủng hộ vững chắc trong xã hội Chile.

Đánh bại các hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Tuy nhiên, trả lời trực tiếp câu hỏi của ông, tôi nghĩ, một trong những quyết định quan trọng là cố gắng để đánh bại giới quân sự bằng những luật chơi của chính họ. Nói chung, ở các nước Mỹ Latin thường xảy ra việc các lực lượng đối lập tìm cách lật đổ chính quyền độc tài bằng một cuộc đảo chính khác. Chế độ độc tài bị lật đổ bởi một chế độ độc tài khác. Cuối cùng, chúng tôi đã thắng Pinochet trong khuôn khổ thiết chế của chính ông ta, mà không làm thay đổi quá nhiều hay đe dọa điều mà chúng tôi có thể gọi là chung sống hòa bình giữa những người Chile. Đấy là vấn đề khó, vấn đề khá phức tạp.

Để làm như vậy, chúng tôi phải học cách hành động với nhận thức thấu đáo về tư tưởng, hành động và quyết định của mình. Nếu chúng tôi không làm như vậy, chúng tôi có thể thất bại nặng nề. Nhưng kẻ thù không chỉ là Pinochet, ông ta không hoàn toàn là người ngu; ông ta là người khôn khéo và được một bộ phận dân chúng ủng hộ, và trên hết là sự ủng hộ vô điều kiện của lực lượng vũ trang thống nhất: Lục quân, Hải quân và Không quân. Họ tin – và tôi nghĩ họ tiếp tục tin – là họ làm nhiệm vụ của mình trước đất nước Chile khi lật đổ Allende. Đó là niềm tin của họ vào thời điểm xảy ra cuộc đảo chính quân sự và trong suốt quá trình phục hồi chế độ dân chủ ở Chile.

Xây dựng niềm tin trong lực lượng đối lập

Ban đầu ông chỉ trích gay gắt tổng thống Allende, nhưng trong những năm 1980 ông đã có thể giành được lòng tin của những người đã từng ủng hộ Allende. Làm sao làm việc được với những người đã từng là đối thủ của ông?

Chúng tôi là đối thủ trong thời điểm có sự chia rẽ và đối đầu gay gắt về chính trị. Các đảng phái đã từng là đối thủ trong quá khứ chưa xa lại có thể đạt được thỏa thuận như thế không phải là hiện tượng thường thấy trong lịch sử. Trong chính quyền của Eduardo Frei Montalva (từ năm 1964 đến năm 1970), những người thuộc Đảng Xã hội là đối thủ cứng rắn của chúng tôi, và trong chính quyền của Allende (từ năm 1970 đến năm 1973), chúng tôi là lực lượng đối lập mạnh vì chúng tôi đã thấy chính phủ Đòan kết Nhân dân của ông này đang cố gằng thiết lập, trên thực tế, chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, khi đảo chính quân sự nổ ra, nhiều người trong chúng tôi cảm thấy rằng đó là hậu quả tất yếu của tình hình mà chính phủ đã lao vào: đất nước đứng trên bờ vực nội chiến. Vì thế chúng tôi bị lên án là ủng hộ đảo chính quân sự.

Tuy nhiên, chế độ độc tài quá khắc nghiệt, cho nên cuối cùng chúng tôi đã tìm được ngôn ngữ chung là bảo vệ các giá trị cơ bản, bắt đầu bằng việc bảo vệ những quyền con người.

Cũng có những sáng kiến ​​chính trị, phân tích cách thức tái lập chế độ dân chủ, giúp đưa những người ở cả bên trong lẫn bên ngoài Chile lại với nhau. Một trong những sáng kiến đầu tiên được gọi là Nhóm 24. Nhóm này chủ yếu gồm các luật sư hay người có liên quan với các vấn đề pháp lí; chúng tôi thành lập một nhóm nghiên cứu để phân tích các vấn đề của Chile và tìm cách quay trở lại với chế độ dân chủ, tung ra những thách thức đối chính phủ trong suốt quá trình này. Những người có quan điểm khác – từ Đảng Tự do cũ đến Đảng Xã hội chủ nghĩa và thậm chí là Cộng sản – đã gia nhập Nhóm 24.

Nhà thông thái đứng sau Nhóm 24 là Edgardo Boeninger. Ban đầu chúng tôi là một nhóm bạn bè và thường gặp nhau ở nhà của chúng tôi. Hầu như tất cả chúng tôi đều là học giả, mà phần lớn không còn làm trong các trường đại học nữa, vì các trường đại học đã bị chính quyền quân sự nắm (và phải phục tùng chính quyền quân sự). Nhóm này có các học giả như Luis Izquierdo của Trường Sinh vật học; nhà sử học Sergio Villalobos, đã từng được giải thưởng về lịch sử dân tộc; Manuel Sanhueza, từng là bộ trưởng tư pháp dưới thời Allende; Sergio Teitelboim, từng là đảng viên cộng sản và anh của một nhà lãnh đạo cấp cao trong đảng đó. Có khá nhiều luật sư.

Chúng tôi nghiên cứu bản hiến pháp mới, chế độ dân chủ mới phải như thế nào. Nhóm này mang tính học thuật là chính. Chúng tôi gặp nhau trong một văn phòng ở trung tâm thành phố Santiago bị chính phủ theo dõi sát sao và được chính phủ cho phép – tất cả mọi người đều biết như thế; tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau. Quá trình này đã tạo lòng tin giữa những người trước đây từng là đối thủ của nhau.

Tôi còn nghĩ rằng điều quan trọng là chúng tôi nhận phần trách nhiệm của mình từ những quan điểm khác nhau; ngay cả những đảng viên Đảng Xã hội cũng bắt đầu nhận ra những sai lầm của chính quyền Allende và đánh giá lại chế độ dân chủ, và đảng Dân chủ Cơ đốc cũng làm thế.

Cuối cùng, tình bạn cũng đã giúp họ đến với nhau. Ví dụ, tôi có nhiều bạn tốt trong số những đảng viên Đảng Xã hội kể từ khi còn trẻ – ví dụ, với Clodomiro Almeyda, bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ Allende. Khi ông trở về sau khi lưu vong, tình bạn cũ của tôi với ông ấy đã giúp liên kết phe cứng rắn nhất trong Đảng Xã hội với liên minh các đảng dân chủ vừa xuất hiện.

Những kinh nghiệm của quá trình làm việc với nhau trong Nhóm 24 có đóng góp cho việc xây dựng quan hệ tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau trong những người có những quan điểm rất khác hay không? Làm sao tìm được tiếng nói chung?

Chính xác, đúng như thế. Đó là quá trình kéo dài. Tôi đã nói về “buổi tái ngộ của những người dân chủ”. Tôi đã viết một cuốn sách với nhan đề như thế, nói về quá trình tìm tiếng nói chung đã diễn ra như thế nào. Có rất nhiều cách để chúng tôi gặp nhau. Những nhóm thảo luận, gọi là círculos de diálogo, xuất hiện; và các cuộc hội thảo đã được tổ chức cả ở Chile lẫn ở nước ngoài, đã kéo những người lưu vong và những người còn ở trong nước lại với nhau. Phân tích tình hình cùng nhau tạo điều kiện cho chúng tôi giảm bớt thành kiến ​​và xây dựng niềm tin.

Vấn đề quyền con người là rất quan trọng, vì nó đưa người ta lại với nhau – vượt ra ngoài những khác biệt về tư tưởng – trong việc bảo vệ phẩm giá của con người. Cả Đảng Dân chủ Cơ đốc, cả Đảng Cấp tiến, Đảng Tự do, và Đảng Cộng sản cùng hoạt động như những luật sư bảo vệ nhân quyền, và chúng tôi thường gặp nhau trong khi bảo vệ thân chủ của mình ở các phiên tòa. Tôi đã thay mặt họ cãi mấy lần, đấy là khi Jaime Castillo [cựu Bộ trưởng tư pháp và lãnh đạo Đảng Dân chủ Cơ đốc được công nhận] bị bắt phải lưu vong, và còn cãi cho bạn bè thuộc Đảng Xã hội bị trục xuất ra nước ngoài. Có một trường hợp, tôi không nhớ phiên tòa nào, phòng xử nhỏ và Tòa án tối cao cho đặt loa ở ngoài, và vì vậy người ta nghe lập luận ngay trong hành lang của tòa án. Và gần như tất cả vụ xử đều thua.

Xây dựng liên minh

Sau đó, liên minh chính trị bắt đầu hình thành. Đầu tiên là Alianza Democratica, rồi đến Acuerdo Nacional và Asamblea de la Civilidad, đấy là những tổ chức tiền thân của Concertación de Partidos por la Democracia (Liên minh các đảng vì dân chủ, hay La Concertación). Một phong trào xã hội cực kì to lớn ủng hộ những đòi hỏi dân chủ: công nhân và đoàn viên công đoàn, sinh viên đại học và phụ nữ – đóng vai trò đoàn kết trong việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Các tổ chức của phụ nữ hoạt động rất tích cực và cũng rất dũng cảm. Họ là những người đầu tiên bước ra đường phố và hành động một cách đoàn kết, mặc dù họ là đảng viên của những đảng trước đó từng là đối thủ của nhau.

Huy động xã hội

Cuộc khủng hoảng kinh tế và những cuộc cải cách theo đường lối tân tự do trong những năm đầu thập niên 1980 làm cho khá nhiều người rơi vào tình trạng đói nghèo và làm cho nhiều người lâm vào tình trạng khó khăn hơn và làm cho tình trạng bất ổn gia tăng. Từ năm 1983 đến năm 1986, cuộc vận động của xã hội dân sự, được các đảng phái chính trị ủng hộ, đã xuất hiện, mặc dù đã chính thức bị cấm, xói mòn dần sự ủng hộ dành cho chế độ quân sự. Những cuộc vận động này làm suy yếu dần chế độ độc tài – cho đến khi xảy ra vụ mưu sát Pinochet, năm 1986.

Đã có một cuộc thảo luận sôi nổi, đông người tham gia về việc liệu có thể kết liễu được chế độ độc tài bằng một cuộc trưng cầu dân ý hay không. Đảng Cộng sản khẳng định rằng sự cáo chung của chế độ độc tài sẽ diễn ra thông qua cuộc vận động xã hội rộng rãi, kể cả đấu tranh vũ trang. Quan điểm của ông như thế nào?

Trên thực tế, vận động xã hội đã được các đảng dân chủ thúc đẩy. Đảng Cộng sản và mặt trận vũ trang của đảng này ủng hộ chiến lược sử dụng tất cả các hình thức đấu tranh, trong đó có sử dụng bạo lực. Các đảng phái dân chủ tin vào cuộc vận động hòa bình, ngay cả khi chúng tôi bị đàn áp. Khi vụ nhập lậu vũ khí của Cộng sản bị khám phá và vụ mưu Pinochet thất bại, thì diễn ra bước ngoặt. Đàn áp gia tăng và chúng tôi nhận thức rõ ràng rằng chúng tôi phải cam kết với biện pháp bất bạo động nhằm xây dựng cho được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân.

Đó là cuộc tranh luận căng thẳng và tất cả chúng tôi đều nghi ngờ. Tôi là người rất yêu hòa bình và là người nghiên cứu luật pháp. Mặc dù tại thời điểm đó, tôi không thể khẳng định rằng, đối với chúng tôi, mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp, tôi nghĩ rằng biện pháp bất bạo động phù hợp không chỉ với lịch sử của Chile, mà còn phù hợp với tư duy của người Chile nữa, phù hợp với những tính chất đặc thù trong bản sắc dân tộc của chúng tôi.

Ngoài ra, trong các đảng mà sau này tạo ra Concertación đều có hai phe: những người khẳng định rằng chính phủ Pinochet bị sẽ bị đổ, đấy là kết quả trực tiếp của công cuộc vận động xã hội, và những người tin rằng sẽ hiệu quả hơn nếu tham gia vào hiến pháp của Pinochet, thách thức cuộc trưng cầu dân ý và đánh bại ông ta từ bên trong, bằng cuộc trưng cầu dân ý.

Tôi thuộc phái thứ hai. Chiến lược vận động xã hội đúng là đã bắt đầu làm xói mòn chế độ, nhưng chúng tôi lo ngại rằng tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng xã hội và vận động ở cơ sở sẽ có kết cục đầy bi thảm, bởi vì các lực lượng vũ trang có thể sẽ đàn áp. Những người ủng hộ một trong hai luận điểm này bác bỏ chiến lược của đảng Cộng sản, nhưng đảng này lại được lợi hơn nhờ tăng cường vận động xã hội.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Khi tổ chức cuộc trưng cầu dân ý nhằm thông qua bản hiến pháp năm 1980, chúng tôi đã lên tiếng tố cáo, nói rằng thủ tục là bất hợp pháp – không có quyền tự do và không có danh sách cử tri – đã bị chế độ độc tài xóa sổ – và do đó hiến pháp cũng bất hợp pháp. Tuy nhiên, năm 1984, một số người bắt đầu đề nghị bỏ qua những cuộc thảo luận về tính hợp pháp của hiến pháp và chấp nhận nó như một sự kiện đã rồi. Ý tưởng là để đăng kí các đảng phái theo luật của Pinochet về các đảng phái chính trị, tức là những đạo luật mà chúng tôi không thích, tham gia cuộc trưng cầu dân ý, mà chúng tôi cũng không thích và đánh bại chế độ bằng cách sử dụng luật lệ của chính nó.

Đó là chiến lược mà cuối cùng đã mang lại chiến thắng. Thật vậy, tôi được bầu làm Chủ tịch đảng Dân chủ Cơ đốc, trong khi bảo vệ tư tưởng nói rằng đảng phải được đăng kí như một đảng chính trị theo pháp luật của chế độ độc tài. Trong đảng của chúng tôi, đã có những người phản đối cách làm đó. Rồi chúng tôi đấu tranh, đòi phải tiến hành những cuộc bầu cử tự do, chúng tôi đăng kí các đảng của mình, và chúng tôi huy động được bảy triệu người Chile đăng kí tham gia bầu cử. Cuối cùng là chiến dịch “Nói không” và cuộc trưng cầu dân ý, chúng tôi đánh bại Pinochet trong chiến dịch này.

Quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Ông nói rằng truyền thống lịch sử của các lực lượng vũ trang đã giúp đỡ, vì trong quá khứ, lực lượng quân sự Chile vốn vẫn vâng lệnh chính quyền dân sự. Kinh nghiệm Chile là độc nhất vô nhị vì không có cuộc chuyển đổi nào khác mà nhà độc tài vẫn giữ chức tổng tư lệnh Lục quân trong suốt tám năm, sau khi đã không còn là tổng thống nữa. Quan hệ với quân đội diễn ra như thế nào? Ông đàm phán với quân đội như thế nào? Có những bài học và khó khăn nào?

Trong cuộc gặp đầu tiên với Pinochet, như tổng thống mới được bầu, tôi nói với ông ấy rằng tôi nghĩ là sẽ tốt hơn đối với Chile nếu ông ấy thôi chức tổng tư lệnh. [Mỉm cười và làm điệu bộ bắt chước Pinochet]. “Ông nhầm, thưa Ngài Tổng thống, không có ai bảo vệ ông tốt hơn tôi”. Ông ta được lực lượng vũ trang rất kính trọng và có khả năng là việc ông ở lại đã ngăn chặn được những vụ bạo loạn của các viên đại tá, như đã từng xảy ra trong những cuộc chuyển hóa khác.

Quan hệ của tôi với Pinochet khá phức tạp, nhưng cuối cùng thì ông ta tuân thủ khuôn khổ của thiết chế dù ông không thích; ông tôn trọng vì chính ông đã tạo ra nó. Tuy nhiên, ông muốn nhảy qua nhiều thứ. Ví dụ, trong cuộc họp đầu tiên của tôi với ông trong dinh tổng thống La Moneda, sau khi tôi tuyên thệ nhậm chức và đã giữ chức tổng thống, ông nói với tôi rằng ông sẽ báo cáo trực tiếp với tôi, chứ không phải với bộ trưởng quốc phòng.

Thế là tôi chỉ cho ông ta bản hiến pháp và nói: “Xin hãy xem đây, thưa Tướng quân, hiến pháp mà ông viết ra nói rằng ông nằm dưới quyền bộ trưởng quốc phòng, vì vậy, tôi xin lỗi nhưng ông phải làm việc với ông ta”. Ông ta tìm cách tránh trung gian, nhưng ông ta phải chấp nhận chuyện đó, và từ đó trở đi ông ta đã báo cáo qua bộ trưởng quốc phòng.

Những bước thụt lùi

Có một số sự cố bất ngờ trong giai đoạn ông cầm quyền với mục đích là làm trật hướng quá trình chuyển hóa, gây ra ảnh hưởng to lớn, trong đó có vụ ám sát thượng nghị sĩ Jaime Guzmán, một nhà lãnh đạo cánh hữu và vụ bắt cóc con trai của Agustín Edwards, chủ báo El Mercurio, một tờ báo hàng đầu. Ông đã phản ứng trước những sự cố này như thế nào?

Xin nói rằng tôi phản ứng trước các sự cố này như một phần của tình hình căng thẳng mà chúng tôi đang trải qua lúc đó. Chúng tôi bị đẩy vào một tình huống mà chúng tôi không thể nào biết được kết quả; rủi ro rất lớn, đã có hành động khủng bố. Chúng tôi thậm chí còn biết có công chức hoặc dân thường thâm nhập vào và tiếp tục làm việc, như họ nói, a la mala (theo hướng sai). Tôi nhớ không rõ lắm chuyện này, nhưng đã phát hiện ra những đường dây nối giữa La Moneda (dinh tổng thống Chile – ND) và một tòa nhà của cảnh sát mật, trong đó có thiết bị nghe trộm điện thoại của chúng tôi.

Chúng tôi đã trải qua nhiều tình huống căng thẳng. Tôi nhớ, một lần ở Punta Arenas tôi gặp vị tư lệnh các lực lượng vũ trang ở đó, đấy là một trong những khu vực quân sự hóa nhất, và tôi nói với ông ta rằng tôi muốn gặp các sĩ quan để chứng tỏ ý muốn là tổng thống của tất cả mọi người Chile, dân sự cũng như quân sự. Họ tạo ra đủ thứ cản trở trên đường đi của tôi và nói rằng rất khó tập trung tất cả các sĩ quan vào ngày hôm sau. Vì vậy, tôi nói với họ: “Chuyện gì vậy? Nếu xảy ra chiến tranh, các ông không thể tập trung tất cả các sĩ quan trong vòng mấy tiếng đồng hồ hay sao?”. Thế là tôi đã gặp các sĩ quan và tôi nói chuyện với họ về quá trình chuyển hóa. Đó là cuộc gặp mặt rất có tính đại diện, với các sĩ quan từ tất cả các lực lượng vũ trang; cuộc họp diễn ra ở Magallanes.

Ông đã phản ứng như thế nào trước hai sự cố, năm 1991 và năm 1993, khi một số đơn vị Lục quân gây áp lực, dường như là nhằm đe dọa chính phủ, buộc phải chấm dứt việc điều tra những vụ được cho là sai phạm tài chính của con trai Pinochet? Pinochet có kiểm soát được các lực lượng vũ trang?

Người chỉ huy là Pinochet, nhưng lực lượng vũ trang không phải lúc nào cũng theo ông ta. Ví dụ, khi cuộc tập trận gọi là liên lạc được tiến hành vào năm 1991, hôm đó là ngày tốt nghiệp và vinh danh những sĩ quan quân đội xuất sắc nhất, và vì vậy mà có một buổi lễ và một bữa ăn trưa ở La Moneda, Pinochet tham gia với vai trò là tổng tư lệnh Lục quân. Khi Pinochet rời La Moneda, ông được người ta đưa cho tờ La Segunda, một tờ báo ra hàng ngày, trong đó có bài tường thuật về cuộc điều tra liên quan đến một số tấm séc do con trai ông ta viết, gọi là pinocheques, thanh toán cho những vụ mua bán vũ khí dưới thời chính quyền quân sự. Chiều hôm đó, Lục quân rút về doanh trại, rồi sau đó đi ra đường, trong trang phục sẵn sàng chiến đấu.

Chiều hôm đó tôi tham dự buổi lễ tốt nghiệp của các sĩ quan Carabineros [Carabineros là lực lượng cảnh sát quốc gia], và trong khi tôi ở đó thì có người nói với tôi tình hình đang diễn ra. Được, tôi tự nhủ, để xem chuyện gì đang diễn ra ở đây. Tuy nhiên, buổi lễ dành cho Carabineros diễn ra bình thường, và các bộ phận khác trong lực lượng vũ trang đã không tham gia vào vụ lộn xộn vừa nói. Pinochet định gây áp lực, buộc chính phủ đình chỉ điều tra những hoạt động của con trai ông ta. Điều này chứng tỏ rằng ảnh hướng của ông ta chỉ giới hạn trong Lục quân, vì Hải quân, Không quân và cảnh sát không theo ông ta.

Lần thứ hai, Pinochet tìm cách làm một cái gì đó tương tự như thế, khi tôi đang ở thăm nước ngoài. Nguyên nhân cũng tương tự như thế, nhưng lần này có thêm những cuộc điều tra vi phạm nhân quyền, làm cho họ lo lắng. Lần này ông ta cũng không được những bộ phận khác ủng hộ.

May là, những cố gắng nhằm đe dọa của Lục quân đã không thành công, vì sự thật là cam kết dân chủ đã ăn sâu bén rễ vào ý thức của dân tộc, cho nên không dễ lật ngược được: Chile đã khôi phục được chế độ dân chủ, đấy là ý tưởng đã được củng cố vững chắc.


[1] Hệ thống hoạt động như sau: Các đảng và các ứng viên độc lập tự nhóm vào danh sách hay liên minh, về cơ bản là các khối bầu cử. Mỗi danh sách được đề nghị nhiều nhất là hai ứng viên cho mỗi khu vực bầu cử, tỉnh, hoặc đơn vị địa lý khác. Ban đầu, phiếu được kiểm theo danh sách chứ không theo ứng viên, và trừ khi danh sách nào đó thu được đa số gấp đôi phiếu của đa số thứ hai, mỗi danh sách trong hai danh sách này được một ứng cử viên, người cao phiếu nhất sẽ trúng cử. Nói cách khác, hệ thống “cặp” về cơ bản có nghĩa là danh sách chiếm đa số thứ nhất và thứ hai đều có đại diện như nhau, trừ khi danh sách chiếm đa số thứ nhất có số phiếu gấp đôi danh sách thứ hai, tức là chiếm được 67% phiếu bầu – ND.

Comments are closed.