Để tưởng nhớ Giáo sư Nguyễn Thế Anh (1/6/1936 – 19/3/2023)

Lời Giới Thiệu cuốn "Việt Nam Vận Hội" của Nguyễn Thế Anh

K. W. Taylor

image

Đóng góp của Giáo sư Nguyễn Thế Anh đối với nền học thuật đương đại về Việt Nam đã truyền cảm hứng và duy trì một dòng tư tưởng học thuật vừa hiện đại vừa mang tính dân tộc. Khả năng chấp nhận sự đa dạng văn hóa và một phép sử luận dân tộc đa trung tâm của ông đi tương phản với sự tái tuần hoàn chủ nghĩa độc tôn trong truyền thống được ngụy tạo dưới danh nghĩa chủ nghĩa dân tộc cách mạng vốn được ưu tiên trong nền học thuật ở Việt Nam kể từ năm 1975. Ông đã tạo ra một di sản không chỉ bằng sự nghiệp xuất sắc ở cả hai đất nước và bằng những nội dung trong công trình của ông, mà còn bằng việc nuôi dưỡng sự khích lệ mà ông đã dành cho các sinh viên và đồng nghiệp, trong đó tập sách này là một minh chứng.

Nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Thế Anh bao trùm những chủ đề trong phạm vi rộng lớn và cho thấy một trí óc mới mẻ và sống động, không bị ràng buộc bởi bất cứ hình thức giáo điều nào. Ông đã tiên phong nghiên cứu về triều Nguyễn từ rất lâu trước khi nó trở thành trào lưu. Đây là triều đại lớn duy nhất của Việt Nam không đóng đô ở Hà Nội; một triều đại “miền Nam” vốn được cho là không thể liệt vào một phép sử luận mà Hà Nội là trung điểm, trừ phi với tư cách là một triều đại bất tín với dân tộc, và vì bị phân loại như vậy, nên nó bị xem là một triều đại không đáng nghiên cứu. Bằng vào việc nghiên cứu về triều đại này, Giáo sư Nguyễn Thế Anh không chỉ đơn thuần thể hiện sự phản kháng đối với việc lãng mạn hóa tính anh hùng bài ngoại của chủ nghĩa dân tộc cách mạng, và cũng không chỉ mở ra không gian trí thức cho những cách thức khác để khái hóa sử luận Việt, mà còn cung cấp một nội dung tích cực cho phương cách này, một Việt Nam tiếp cận tham gia với thế giới bên ngoài thay vì chỉ có phản ứng và cố thủ, một Việt Nam có sự tự tin ở khả năng trí tuệ để chấp nhận và vượt qua những bất trắc không thể tránh khỏi do sự thay đổi nhanh chóng và đàm phán cải cách thay vì chấp nhận sự cám dỗ của tư tưởng cách mạng, vốn lý luận rằng để có được trật tự thì cần phải có những xung đột mang tính bạo cuồng. Điều này ngày càng quan trọng trong lúc ngành Việt Nam học tiến xa hơn vào kỷ nguyên hậu cách mạng và khi người Việt tìm kiếm ngày một cấp bách những tầm nhìn khác hầu thay thế cho một tầm nhìn cũ mòn về quá khứ dân tộc.

Đánh giá của riêng tôi về Giáo sư Nguyễn Thế Anh có thể được chuyển tải qua ba chủ đề mà tôi tin là điển hình trong cuộc đời và sự nghiệp của ông: ông cho thấy tinh hoa được tạo ra bởi những cuộc gặp xuyên biên giới, dù các cuộc tiếp xúc đó xảy ra ở trong lãnh thổ của một quốc gia hay ở tầm quốc tế; tránh những sự đơn giản không thể tránh khỏi của ý thức hệ cách mạng, ông cho thấy tính hiện đại dân tộc trong kinh nghiệm của những người mà một khi cơn bão cách mạng đã được thấm nhuần, họ vẫn phải sống với những thăng trầm của cải cách và thay đổi; cuối cùng, ông cho thấy làm thế nào, trong cộng đồng tha hương, một tầm nhìn sử luận tích cực về dân tộc Việt Nam được duy trì thông qua các nỗ lực cho phép Việt Nam có chỗ đứng trong thế giới đương đại với một quá khứ không luân hồi thành những khuôn mẫu của giáo điều mới.

Trong ba chủ đề này là một sự căng thẳng giữa hai hình thức căn bản khác biệt để hình dung lối vào thế giới hiện đại của Việt Nam; hai cách thức này được minh họa bởi hai con người đã trở thành biểu tượng của tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Trong khi Phan Bội Châu ủng hộ bạo lực cách mạng để chống lại thực dân Pháp, Phan Chu Trinh lại chủ trương mượn người Pháp để cải cách và đổi mới dân tộc mà không dùng bạo lực. Không ngạc nhiên khi những người chọn con đường bạo lực đã thắng thế; làm như vậy, họ đề xuất một sử luận nhằm biện minh cho bạo lực mà những tham vọng của họ sinh ra, và họ truyền bá một biếm họa dân tộc về những anh hùng không ngừng chống ngoại xâm. Thời gian đã cho thấy sự thông thái của Phan Chu Trinh sâu sắc hơn của Phan Bội Châu. Bạo lực không đi tắt vào tương lai; trái lại, nó gây ra đau đớn và sợ hãi cho con người, cũng như nhạo báng chính cái mục đính mà nó được cho là một phương tiện cứu cánh.

Sự thông thái của Phan Chu Trinh là chủ trương cởi mở giao thiệp với người nước ngoài, với niềm tin rằng những gì thực sự đáng gìn giữ, bản chất luân lý của con người, sẽ không thể bị hủy hoại nếu không có sự đồng mưu của chính họ. Ông hiểu rằng dân tộc không phải là một bản sắc cố định đòi hỏi sự tuân thủ mà là một công trình đang chuyển động và mời gọi sự tham gia. Ngược lại, sự nghiệp của Phan Bội Châu được thúc đẩy bởi một quyết tâm đơn giản là đánh đuổi ngoại nhân dưới danh nghĩa một bản sắc dân tộc mà một cách tự nhiên nó sẽ tái khẳng định mình một khi công cuộc này đã hoàn thành. Cộng sản Việt Nam đã đi theo con đường của Phan Bội Châu và bây giờ chúng ta có thể đánh giá những kết quả của cuộc thử nghiệm này trong lúc Việt Nam tiếp tục phục hồi sau hàng thập niên chiến tranh và hiện đang phải đấu tranh để bước vào thế giới hiện đại theo con đường của Phan Chu Trinh.

Phạm vi học thuật của Giáo sư Nguyễn Thế Anh thực sự đáng chú ý. Ông đã viết nhiều nghiên cứu chi tiết về các chủ đề cụ thể cũng như các nghiên cứu tầm vóc cần tổng hợp và phân tích thông tin từ những khoảng thời gian dài. Công trình của ông gồm các nghiên cứu lịch sử về địa chất học, nông nghiệp, và khí hậu học; hệ tư tưởng và tôn giáo, bao gồm Phật giáo, Nho giáo, tín ngưỡng dân gian, và chủ nghĩa Marx; giao thương và thương mại; chiến tranh; quan hệ Trung-Việt; quan hệ giữa Việt Nam và phương Tây; lịch sử Đông Á và Đông Nam Á; lịch sử Hoa Kỳ; sử Việt nói chung; các chủ đề trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, đặc biệt nhấn mạnh triều Nguyễn và thời kỳ Pháp thuộc; và các nghiên cứu về lịch sử Việt Nam sau năm 1945. Số tác phẩm này bao gồm cả ba chủ đề nêu trên (những trải nghiệm biên giới, chủ nghĩa dân tộc phi cách mạng, và một góc nhìn toàn cầu về dân tộc) với một lòng tin cởi mở là người Việt có thể tập trung theo hướng tiếp xúc và thay đổi thay vì khía cạnh của danh tính và đối đầu.

Điển hình là, trong công trình của ông, biên giới chủ yếu là nơi gặp gỡ thay vì là ranh giới. Chủ đề này ở một mức độ nào đó có thể hiểu là phản ảnh một quan điểm “miền Nam” hơn là “miền Bắc” của người Việt về biên giới. Trong khi biên giới Bắc Việt đã được cố định ở một nơi trong nhiều thế kỷ thì biên giới miền Nam được mở rộng đáng kể và mở ra sự tiếp xúc với nhiều nhóm dân và chính thể. Sự nghi ngờ đối với “ngoại nhân” và thái độ phòng vệ đối với biên giới thường được xem là một “quan điểm truyền thống của người Việt,” nhưng nếu vậy thì nó đã bỏ qua trải nghiệm của miền Nam, nơi đã thử thách thành công một cảm quan về việc “là người Việt trong sự đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ, xã hội, và kinh tế.”

Tương tự là một dòng tư duy về cách đất nước bước vào cái mà chúng ta gọi là thế giới hiện đại. Trong khi quan điểm của giới thống trị nhấn mạnh tư tưởng Bắc quan về sự nối tiếp của dân tộc từ cách đây hàng ngàn năm làm nền tảng cho đất nước hiện đại, Giáo sư Nguyễn Thế Anh hiểu được những ý nghĩa của một thực tế đơn giản: đất nước Việt Nam hiện đại là một món quà của miền Nam. Nó phát sinh từ miền Nam, từ Sài Gòn, cuối thế kỷ XVIII, với những người sáng lập triều Nguyễn, triều đại lần đầu tiên lập nên nước Việt Nam chúng ta thấy trên bản đồ ngày nay. Nước Việt Nam này được hợp nhất bởi những đội quân Bắc chinh, không phải Nam tiến, từ cái gọi là “biên cương,” thường bị coi là nơi ô hợp, không phải từ “vùng đất trung tâm cổ xưa” được ca tụng bởi những người nhiệt tình cách mạng.

Hơn nữa, khi những quan điểm miền Nam không được phép thể hiện ở Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã tiên phong cho nền học thuật quốc tế vốn tiếp tục được tự do khám phá sự rắc rối tường tận của văn hóa và trải nghiệm lịch sử của Việt Nam, vượt ra ngoài những sự đơn giản của các cuộc cách mạng. Đây là một món quà lớn cho Việt Nam ngày nay khi kỷ nguyên hậu cách mạng tạo cơ hội cho một môi trường ý kiến đa dạng hơn.

Cuối cùng, tôi muốn đề cập đến khía cạnh thứ tư trong di sản của giáo sư Nguyễn Thế Anh, theo một trật tự khác, đó là danh tiếng của ông là một sử gia xuất sắc, người đã nghiêm túc nghiên cứu các văn bản và tài liệu lưu trữ. Ông là thầy của nhiều sinh viên đã học được cách trở thành học giả từ tấm gương của ông, và điều này sẽ tiếp tục có tác động tích cực đến ngành Việt Nam học trong tương lai. Tuy đưa ra những hàm thuyết, công trình của ông lại phát triển từ kỷ luật nghiên cứu khoa học hơn là từ những định kiến về ý thức hệ trước đây.

Với nhiều học giả thuộc thế hệ Giáo sư Nguyễn Thế Anh, sống qua những biến động to lớn do sự suy tàn của chủ nghĩa thực dân, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cách mạng, và các cuộc nội chiến giành quyền kiểm soát quốc gia dân tộc, học thuật là một hình thức chính trị, một phương tiện để khẳng định một đánh giá đạo đức đối với những kẻ thù chính trị của một người, một hình thức phẫn nộ gián tiếp, không chỉ nhằm vào những gì được hiểu như một quyền lực ngoại kiều thống trị hay một quyền lực quốc gia đối đầu, mà còn nhằm vào bản thân đất nước của một người do đất nước ấy không có khả năng duy trì sự tinh khiết không bị ô nhiễm của những nguồn gốc tiền thuộc địa của mình. Công trình của Giáo sư Nguyễn Thế Anh không quy phục trước sự thu hẹp đơn giản hóa từ học thuật thành ý thức hệ này. Ngược lại, nó là nguồn cảm hứng không ngừng cho nền học thuật nhằm hồi đáp sự tò mò không giới hạn của con người về quá khứ và sự tôn trọng các chuẩn mực phương pháp luận khoa học. Đây là một thành tựu không nhỏ trong bối cảnh của ngành Việt Nam học hiện đại.

2017


Sử gia Nguyễn Thế Anh (1936-nay):

Về một số thời điểm trong tiểu sử và ấn phẩm Việt Nam vận hội

(Hà Nội: Nhà sách Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2021)

Việt Anh (Hà Nội, Việt Nam)

Trong học giới quốc tế, Nguyễn Thế Anh được đánh giá là sử gia lớn về Việt học. Với giới sử học trong Việt Nam sau năm 1975, danh tính Giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh không mới lạ, nhưng hầu như xa cách, xa cách về nhiều vấn đề, khó diễn đạt đủ.

Ông là một người Việt gốc Bắc, năm 1936 được chào đời ở Lào; phiêu dạt ở Thái Lan; tuổi thơ từng trải nếm trải thế nào là Việt Minh, thuộc địa. Từng học thêu-may, từng muốn theo sở thích hóa học hơn là sử học. Học trường Pháp ở Lào và Sài Gòn. Học Latin và Pháp ngữ trong trường, học Anh ngữ trong đời.

Năm 1956 lãnh học bổng qua Pháp tu nghiệp.

Năm 1964 được bổ nhiệm vị trí giáo sư lịch sử ở Viện Đại học Huế, đương thời không ngớt hoạt động của sinh viên phản kháng chính quyền Sài Gòn.

Năm 1966 lãnh vị trí Viện trưởng Viện Đại học Huế. 30 tuổi tây, ngồi vào ghế chủ trì giáo dục và học thuật nơi cố đô sóng gió.

Tết Mậu Thân 1968, tận tai nghe tiếng loa kêu ông Viện trưởng, tức bản thân, ra trình diện; đích thân đi nhận diện xác người…

Sau biến cố, Giáo sư Nguyễn Thế Anh dốc sức yên định lại Viện Đại học trong trọng trách của mình; tháng Ba 1969 mới từ nhiệm, vào Sài Gòn phát triển Ban Sử của Đại học Văn khoa.

Tháng Tư 1975, chỉ với bộ quần áo trên người, ông đưa gia đình thêm lần xuất ngoại. Tủ sách cá nhân gom góp trong hai thập niên hoạt động học thuật tan tác.

Phận tha hương. Ở Mỹ vài tháng, ông quyết chọn Pháp định cư.

Gây dựng lại sự nghiệp từ đầu, ông trăn trở việc an phận nhỏ nhoi nơi tỉnh lẻ hay dấn thân kinh kỳ hoa lệ đầy cạnh tranh. Từ Pháp, Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã gây dựng lại vị thế học thuật của mình và góp phần lớn thu hút quốc tế khảo cứu sử Việt.

Giáo sư Hán học Nghiêm Toản (1907-1975) đặt hiệu cho ông là Tử Hoa Nhân Kiệt. Ông chỉ dám nhận hiệu Tử Hoa.

Giáo sư Hán học Jacques Gernet (1921-2018) nhìn tên Thế Anh bằng chữ Hán, cười vui mà diễn nghĩa "la gloire du monde".

Về ấn phẩm, từ sau 1975, trong Việt Nam, mới chỉ tái bản nhiều lần bốn tác phẩm Việt văn là những bài giảng nền tảng lịch sử của ông vốn được ấn hành ở Sài Gòn. Người đi đầu trong việc truyền bá các nghiên cứu chuyên sâu hơn của sử gia, phải kể tới học giả Nguyễn Hữu Châu Phan với chuyên san nhiều kỳ Nghiên cứu Huế của ông.

Nguồn: https://www.viet-studies.net/NguyenTheAnh_KeithTaylor.html

 

Sử gia Nguyễn Thế Anh với Việt học quốc tế

19/01/2017Việt Anh

Trong hệ thống hành chính giáo dục Pháp quốc, Ông được vinh danh là Giáo sư ưu tú (Directeur d’études émérite) của Trường Cao học thực hành (EPHE), một cơ sở nghiên cứu uy tín của Pháp về khoa học cuộc sống-trái đất, khoa học lịch sử-ngữ văn và khoa học về các tôn giáo. Trong trật tự của đội ngũ chuyên gia Việt sử và lịch sử Á Đông, Ông được tin tưởng là sử gia hàng đầu. Có thể xác thực điều này ở nhiều nhà sử học đương thời như Philippe Papin (Pháp), Keith Weller Taylor, Olga Dror (Mỹ)…

image

Giáo sư Nguyễn Thế Anh tại Văn khố hải ngoại (ANOM), Aix-en-Provence, Pháp.  Đây là một trong những trung tâm lưu trữ mà ông đã miệt mài tham khảo để thực hiện rốt ráo các nghiên cứu sử học của mình.

Sinh năm 1936 trên xứ sở Vạn Tượng, Ông thân sinh quê gốc Hưng Yên và bà thân sinh quê gốc Nam Định, trong suốt thời thơ ấu, Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã chỉ có vài tháng dừng chân ở Việt Nam, cụ thể là ở Hà Nội khoảng năm 1941-1942, trong khi theo cha mẹ bôn ba nhiều hơn khắp đất Lào, đất Thái. Biến động xã hội toàn khu vực Á Đông khiến việc học bị gián đoạn một thời gian dài; sau khi từ Thái Lan trở lại Lào, Nguyễn Thế Anh vào trường Pháp học Pháp văn, Latin thay vì tiếng mẹ đẻ. Anh ngữ cũng được đồng hành sử dụng trong học thuật và đời riêng. Thế mà, sau 8 thập kỷ chừng như thiên di định số, tiếng Việt xứ Bắc vẫn nguyên vẹn trong giọng nói của Ông.

Năm 20 tuổi giành tài trợ tới du học Pháp, Ông từng muốn theo ngành hóa học là một mối say mê buổi đầu đời. Giáo sư Nguyễn Dương Đôn (1911-1999), Tổng trưởng Bộ Quốc gia Giáo Dục của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đương thời, người bằng hữu với ông thân sinh của Nguyễn Thế Anh, đã có lời khuyên sâu sắc rằng, đương thời quá thiếu các giáo sư lịch sử. Thật may, Ông cũng có hứng thú với sử, và không riêng sử Việt, bởi Việt sử trong suốt hành trình của đời ông đã không bị tách rời khỏi khu vực, khỏi thế giới. Sử Việt với cách nghiên cứu của ông đã trở thành một điểm nhấn đáng giá trên bản đồ nghiên cứu lịch sử thế giới, được học giới Tây-Đông trân trọng công nhận.

Ấn phẩm sử học: Thành tựu toàn cầu của Việt sử

Năm 1967, Bibliographie critique sur les relations entre le VietNam et l’Occident [Thư mục phê bình về các mối quan hệ giữa Việt Nam và phương Tây][1], đã được Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại Pháp quốc và học giới chào đón. Đây là quả ngọt của quá trình Nguyễn Thế Anh theo học nghiên cứu với sử gia kinh tế Frédéric Mauro (1921-2001). Nguyễn Thế Anh đã trải nhiều quốc gia và miệt mài trong nhiều thư khố Âu châu để biên soạn nên thư mục các tài liệu bằng văn tự latin phản ánh lịch sử quảng giao của Việt Nam. Hiện tại, có nơi muốn tái bản có bổ sung đối với thư mục đắc dụng cho nghiên cứu này, song còn bỏ ngỏ đáp án: ai là người đủ năng lực kế thừa để cập nhật thành quả của người tiền bối!

Công trình nghiên cứu Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam (1875-1925). Le crépuscule d’un ordre traditionnel [Chế độ quân chủ và sự kiện thuộc địa ở Việt Nam (1875-1925): Buổi hoàng hôn của một trật tự truyền thống][2] là ấn phẩm tinh túy từ luận án tiến sĩ cấp nhà nước của Nguyễn Thế Anh được thực hiện tại Pháp. Sử gia người Canada về Trung Quốc và Đông Nam Á là Alexander Wooside đánh giá đây là nghiên cứu xuất sắc về triều đại nhà Nguyễn ở Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trị vì của vua Tự Đức tới vua Khải Định, bắt đầu từ khi Việt Nam chính thức phụ thuộc cả chính trị vào người Pháp cho tới khi đến cả ngân sách chi tiêu hằng năm của Nam triều cũng phải thuộc quyền quyết định của nhà nước thuộc địa. Nghiên cứu này là sự nhất mực tiếp nối thái độ khách quan nhất có thể của nhà sử học đã được thể hiện từ hai thập kỷ trước, trong các công trình  Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn[3], Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ[4], Phong trào kháng thuế miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân[5]. Thảng hoặc, có tiếng nói cho rằng Nguyễn Thế Anh quá lạnh lùng trong thể hiện sử kiện, song có lẽ chính nhận xét này vô tình thể hiện mong muốn phi chuyên nghiệp khi đòi hỏi dù chỉ nhỏ nhoi cảm xúc yêu ghét sân hận… của ngòi bút viết sử. Điều này là không thể, nhất là không thể trong tác phẩm của sử gia Nguyễn Thế Anh. Song, nếu đối thoại trực tiếp, người nghe sẽ thấy xúc động trước tấm lòng cảm thông, thấu hiểu của người hậu sinh đối với tình thế khó khăn không tiền khoáng hậu của những vị Hoàng đế năm xưa. Chỉ biết rằng, ba ấn phẩm được viết bằng Việt văn này tại Sài Gòn vẫn thường được độc giả nhiều lứa tuổi tìm đọc để nhận thức lịch sử và nương tựa để tiếp tục khảo cứu lịch sử.

Năm 2008, để vinh danh sử gia Nguyễn Thế Anh, đồng nghiệp và môn sinh của ông trên toàn cầu hợp sức góp bài nghiên cứu về Việt Nam từ nhiều góc cạnh, thành ấn phẩm Monde du Viêt Nam : Hommage à Nguyên Thế Anh[6]. Tác giả của các bài viết ấy, có người là học trò, có người ở cùng lứa, và có cả người tiền bối của Nguyễn Thế Anh – Giáo sư Léon Vandermeersch (1928-nay). Học giới bằng cách ấy để nhấn mạnh sự mở đường và tầm vóc đáng kể của những vấn đề sử học mà Ông đã khởi xướng và phát triển. Cùng năm, Parcours d’un historien du Viêt Nam : Recueil des articles écrits par Nguyễn Thế Anh [7] bao gồm 99 bài viết của Nguyễn Thế Anh, được chia thành 9 chủ đề lớn, bao quát nhiều vấn đề của Việt sử và lịch sử Đông Á được biên soạn bởi người học trò và cũng là người kế nhiệm ông ở EPHE – Giáo sư Philippe Papin. Trong hơn một ngàn trang sách tập đại thành này, thảng hoặc tìm được một vài bài viết bằng Việt văn giữa phần lớn các bài viết bằng Pháp ngữ và Anh ngữ được ông viết mới hoặc sưu tầm bài viết cũ từ những nguồn tư liệu hiếm ở Sài Gòn trước năm 1975. Tập san Nghiên cứu Huế do nhà trí thức ở Huế là Nguyễn Hữu Châu Phan thực hiện nhiều năm trước đã được dịch và công bố một số nghiên cứu hiện diện trong Recueil này. Village versus State: The Evolution of State-Local Relations in Vietnam until 1945 [Làng đối diện Nhà nước: Tiến trình quan hệ Làng-Nước ở Việt Nam trước năm 1945] với giá trị là một nghiên cứu hệ thống về cách thức tồn tại cùng nhau của làng xã và quốc gia trong chiều dài lịch sử Việt Nam, Japanese Food Policies and the 1945 Great Famine in Indochina [Chính sách lương thực của Nhật Bản và nạn đói lớn năm 1945 tại Việt Nam] về nạn đói năm 1945 ở miền Bắc Việt Nam trong tương quan với hiệu ứng của sự kiện 19 tháng Tám… là đơn cử một vài nghiên cứu đáng giá của Nguyễn Thế Anh trong đó.

Đã có sự nuối tiếc bởi rất nhiều nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh viết bằng ngôn ngữ nước ngoài chưa được học giới ở Việt Nam biết tới để tận dụng. Thực tế, chỉ đơn giản là tác phẩm vẫn đương chờ những dịch giả đủ tri thức Pháp văn, Anh văn và kiến thức sử học để thành tựu của Việt học, đã được công nhận nơi trời Âu-Mỹ, có thể đến được với người Việt mình.

image

Viện trưởng các Viện Đại học miền Nam Việt Nam gặp gỡ Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson năm 1967. Trong hình, hàng ngồi, từ trái qua phải: Ông Bùi Xuân Bào, GS Ban Pháp Văn (ĐH Văn Khoa Sài Gòn), Linh mục Nguyễn Văn Lập, Viện trưởng Viện ĐH Đà Lạt, Bác sĩ Trần Quang Đệ, Viện trưởng Viện ĐH Sài Gòn, Ông Lyndon Johnson, Tổng Thống Hoa kỳ, Thượng tọa Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện ĐH Vạn Hạnh, Ông Bùi Diễm, Đại sứ VNCH tại Washington. GS Nguyễn Thế Anh, Viện trưởng Viện ĐH Huế là người trẻ nhất, đeo kính, đứng ngay sau Tổng thống Hoa Kỳ.

Đại học phi chính trị: Phẩm cách nhà sử học

Là nhà giáo đồng thời là nhà khảo cứu sử Việt, Nguyễn Thế Anh từng trải những giai đoạn thăng trầm khốc liệt trong môi trường đại học ở Huế và Sài Gòn. Năm 1964, ông được bổ nhiệm Giáo sư sử học của Viện Đại học Huế. Việt sử và lịch sử Ấn Độ là chuyên môn của Ông giai đoạn này. Năm 1966, Ông trở thành Viện trưởng của cơ sở sư phạm này. Có lẽ, tuổi 30 của vị tân Viện trưởng đã gây không ít xao động trong học giới đất cố đô. Kiên định trước sức ép của quyền lực và dư luận, Ông đã chèo chống ngôi trường và bảo toàn được quan điểm «tự trị đại học » nhất quán trong giảng đường của mình. Hơn thế, nhà sử học đích thân trải nghiệm sự kiện lịch sử đã khiến ông trở thành nhân chứng đáng tin cậy hơn cả về nhiều nghi án năm xưa.  Năm 1969, ông trút bỏ gánh nặng ở Huế, vào Sài Gòn gây dựng nên thành tựu của Ban Sử thuộc Đại học Văn khoa Sài Gòn[8]. Tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thế Anh lại xa Việt Nam, tạo lập lại sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở Pháp, cho đến khi ông chính thức trở thành Giám đốc nghiên cứu ở Trường Cao học thực hành (EPHE), Giáo sư giảng dạy ở Đại học Paris-Sorbonne, và từng là Giáo sư mời tại Đại học Harvard (Hoa Kỳ), Đại học Quốc gia Singapore…

Từ sau năm 1975, Ông có đôi lần về Việt Nam theo lời mời với nội dung trao đổi khoa học. Năm 2007, trong Hội thảo quốc tế về Nho giáo do Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) hợp tác cùng Viện Harvard-Yenching (Hoa Kỳ) tổ chức tại Hà Nội, bài viết của Giáo sư Nguyễn Thế Anh về những cố gắng cập nhật chính trị của vua Tự Đức hồi cuối thế kỷ XIX là một minh chứng cho thái độ khách quan của sử gia và tấm lòng tri ân của hậu thế với tiền nhân một thuở.

Năm 2013-2014, tại Paris diễn ra triển lãm quy mô lớn mang tên Indochine: Des territoires et Des Hommes, 1856-1956 [Đông Dương: Đất và Người, 1856-1956]. Giáo sư Nguyễn Thế Anh được học giới Pháp quốc tín nhiệm là người đứng đầu hội đồng khoa học của sự kiện 100 năm Pháp-Việt này.

Đều đặn hằng tuần kể từ khi ông chính thức hồi hưu năm 2005, một nhóm độc giả thuộc nhiều quốc tịch, ở nhiều quốc gia, từ nhiều nghề nghiệp, mang nhiều số phận, nhận được từ ông, theo đường thư điện tử, những tư liệu Việt văn, Pháp văn, Anh văn về các vấn đề ở châu Á và nhất là Việt Nam. Đó là những bài viết khảo cứu, hoặc sáng tác, hoặc giải trí của nhiều thành phần tác giả mà ông cặm cụi góp nhặt hằng ngày, theo tiêu chí của nhà sử học, trước hết để đáp ứng nhu cầu cập nhật tin tức của bản thân, sau là chia sẻ với cộng đồng. Thế giới thông tin mênh mang dàn trải, nhãn quan của người làm sử thì nhạy bén và sâu lắng.

Bằng thiên bẩm nhạy cảm và sâu sắc, một người Việt sống xa đất Việt hai phần ba đời người đã trở thành sử gia hàng đầu về sử Việt trên tầm quốc tế.

image

“Với lòng biết ơn đối với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thế Anh, những khảo luận trong tập sách này là để dành tặng ông và vinh danh ông, với hy vọng rằng, chúng tôi, dù còn thiếu sót, song vẫn là những người được chứng kiến sự hiện diện của một học giả lớn trong thế hệ chúng tôi.” Keith Weller Taylor. Lời giới thiệu của sách Monde du Viêt Nam: Hommage à Nguyên Thê Anh. 2008. Paris: Les Indes Savantes. Tr.11.

———————————-

[1] Paris : G.P Maisonneuve et Larose, 1967. 310 tr.

[2] [Paris; L’Harmattan, 1992].

[3] Sài Gòn : Trình Bày, 1968 ; Lửa Thiêng : 1970. Hà Nội : Văn học, 2008.

[4] Sài Gòn : Lửa Thiêng, 1970 ; Sài Gòn : Trung tâm học liệu : 1974. Hà Nội : Văn học, 2008.

[5] Sài Gòn : Bộ Văn hóa giáo dục và Thanh Niên, 1973. Hà Nội : Văn học, 2008.

[6]Paris : Les Indes Savante

[7]Paris : Les Indes Savantes, 2008.

[8] Để được chứng thực khí tiết của nhà giáo lịch sử Nguyễn Thế Anh, xin tham khảo bài viết của Giáo sư sử học Trần Anh Tuấn:

https://daihocsuphamsaigon.org/index.php/bien-kh-o/44-trananhtuan/317-nguyentheanhvadhvk (Đăng ngày 12 tháng 04 năm 2016).

Nguồn: https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/su-gia-nguyen-the-anh-voi-viet-hoc-quoc-te-10376/

Comments are closed.