Đêm giữa ban ngày (kỳ 5)

Vũ Thư Hiên

7

Cung, cung, cung!

Viên quản giáo nông dân đứng trong khung cửa, mặt dửng dưng buông một câu trống không. Thành ngồi im, đầu gối quá tai, mặt phớt tỉnh, không tỏ một phản ứng.

Tôi ngơ ngác: anh ta gọi tôi? Hay gọi Thành?

Cung, cung, cung!

Anh ta nhắc lại.

Đến lúc ấy Thành mới khẽ nói:

– Ông quản giáo gọi ông kìa!

Ra thế! Vậy mà anh chàng quản giáo cù lần kia không nói là đi khai cung cho rồi, cứ lằng nhằng mãi cái từ ngữ thổ tả của nhà tù, bắt tội tôi phải hiểu.

– Mặc quần áo vào còn đi chứ! – Thành lại giục.

Khốn nạn, tôi có còn gì nữa mà mặc! Tôi đã mặc hết rồi. Trong xà lim lạnh buốt tôi đã phải đắp lên mình tuốt tuột những gì tôi có mà vẫn còn thấy rét. Nhiệt độ mấy ngày qua tụt xuống đùng đùng. Mùa đông thực sự đã đến. Nằm khàn trong xà lim, không bị gọi ra hỏi cung, tôi ngán ngẩm nghe gió bấc thổi ù ù bên ngoài. Thật là tệ, nếu tôi bị bắt muộn vài ngày, chắc chắn tôi đã có thêm một cái áo len. Hôm bị bắt trời còn ấm, may mà tôi lại vận áo bông.

– Nhanh lên! – viên quản giáo nhắc, giọng khẽ khàng.

Tôi cẩn thận khép chặt hai vạt áo bông cho gió khỏi lùa vào trong người. Chỉ còn có việc xỏ chân vào giày là xong. Giày cũng không cần buộc dây. Dây giày đã bị thu, không hiểu vì sao. Chắc người ta nghĩ có thể dùng dây giày để treo cổ.

Phải dành vài dòng cho đôi giày, nó đáng được nói đến. Tôi bị tê thấp. Lo sắp tới mùa đông vợ tôi xăng xái kiếm cho tôi một đôi giày vải để đi công tác. Tình cờ lại vớ được đôi giày đen, da Mông Cổ hẳn hoi, bất thình lình xuất hiện ở cửa hàng Tràng Tiền, đồ viện trợ. Hồi ấy giày da hiếm lắm. Chỉ có các ngoại giao quan, các cán bộ cao cấp mới đi giày da. Dân thường thì đi dép lốp. Đôi giày bị Huỳnh Ngự khám rất kỹ, tôi tưởng y sẽ dùng dao banh cả đế ra để tìm cái y muốn thấy. Đôi giày đẹp là thế, da mềm lắm, đóng cũng khéo, nhưng về mặt thực dụng, khốn nạn cho tôi, nó lại thua xa đôi dép lốp rẻ tiền.

Tù xà lim buổi sáng được ra ngoài làm vệ sinh thân thể một lần cho cả ngày. Mỗi lần được dăm phút, không tính thời gian đóng cửa mở cửa. Xà lim có hai người, mỗi người được ngót nghét hai phút rưỡi. Chúng tôi phải đi như chạy (nhưng không được phép chạy thật) để vào phòng tắm đổ bô, rửa bô, rửa mặt rồi đi về. Thế mà sau này, áp dụng vận trù học tôi và Thành còn đi đại tiện được (xin lỗi), còn tắm được trong mấy phút ngắn ngủi ấy mới tài.

Tôi còn có thể làm nhanh hơn nếu không vướng đôi giày. Đi rửa phải xếp nó ở xa cái vòi nước chảy tồ tồ trong phòng tắm chật hẹp. Rửa xong phải nhảy cò cò tra chân vào giày cho nhanh để trở về phòng giam, có khi phải đi cà nhắc vì một bàn chân chưa xỏ hẳn vào được. Bất tiện là thế nhưng lại không thể quăng nó đi. Nhà tù Việt Nam không có lệ phát dép cho tù. Trừ một bộ quần áo, một cái chăn sợi, một manh chiếu, người tù nhập trại không được phát một thứ đồ dùng thiết thân nào khác. Bàn chải, thuốc đánh răng, xà-phòng đều do gia đình tiếp tế[1]. Bên cạnh Thành, tôi là người vô sản chính cống. Khác tôi, khi bị bắt anh đã biết phải mang theo cái gì.

Viên quản giáo dẫn tôi đi qua xưởng thợ, nơi mấy người tù áo xọc đang cặm cụi gò hàn. Họ có vẻ chăm chú làm việc, không để ý đến chúng tôi. Nhưng không phải, những con mắt tò mò thỉnh thoảng vẫn ném những cái liếc xéo về phía người tù đi qua. Một viên quản giáo ngắn tũn đứng trên đống sắt ngổn ngang la hét, giọng Nghệ An đặc sệt: “Ê, anh tê, mần đi chợ! Ngọ ngọ cải chi? Vào nơi ni rồi phãi chăm chĩ lao động! Không chăm chĩ lao động thì đừng cỏ hòng về, chị cỏ chết mục xương!”

Trong khu xà lim tù binh, cây thông Noen ủ rũ vẫn đứng đó, mấy ngọn đèn màu leo lét. Cái máy ghi âm vẫn chạy, tiếng méo xẹo. Đỗ Nhuận vẫn ê a: “Hồng hà mênh mông… trôi cát tới chân làng quê. ê. ê… Cuối sông, ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về… ”

Lần này viên quản giáo không đưa tôi tới phòng hỏi cung lần trước mà đi xa hơn, tới gần cổng Hỏa Lò, nơi có một lối hẹp dẫn vào những ngôi nhà dài thuộc cánh phải. Anh ta bảo tôi đứng đợi trong lối hẹp đó.

Từ chỗ tôi đứng mở ra một nhánh nhỏ với một dãy phòng đóng kín cửa. Nhìn bề ngoài những phòng này giống các phòng tập thể cho cán bộ độc thân, nhưng tôi nhanh chóng gạt đi ý nghĩ đó – ở cửa mỗi phòng là một cái khóa Tuto[2] treo lủng lẳng.

Tôi bỗng giật mình: cách tôi chừng mươi mét, phía ngách hành lang, một người tù già tóc bạc phơ, dáng đi nặng nhọc, hai tay bưng tô cơm, một con cá khô cắm đầu xuống, giương chẽ đuôi cứng đơ lên trời. Người tù ngẩng mặt lên và tôi nhận ra tướng Đặng Kim Giang.

Bác Giang gày xọm, râu mọc dài, cũng bạc như cước. Chao ôi, chúng nó đã làm gì bác mà mới có hơn hai tháng tù bác thay đổi nhiều đến thế? Nhưng phong thái ông xem ra vẫn không thay đổi, vẫn đàng hoàng lắm. Nhìn thấy tôi, ông mỉm cười: “Đừng sợ, cháu! Phải cứng rắn lên!”, cái nhìn của ông nói. Một giây sau ông đi khuất vào một khúc quanh, theo sau là một quản giáo mầu hoàng thổ. Có phải với cái nhìn ấy, nụ cười ấy ông muốn nhắn tôi phải kiên định, không nhận gì hết. Khốn nạn cho tôi, tôi thì kiên định cái quái gì kia chứ! Tôi có gì để mà nhận với chúng nó? Chắc ông muốn nhắn nhủ: đừng để bị lung lạc, dụ dỗ, đừng sợ khi chúng nó ép cung mà khai bậy bạ, làm người khác bị liên luỵ?

Tướng Đặng Kim Giang hoạt động cách mạng cùng với cha tôi từ trước những năm 30, từng ở tù cùng cha tôi tại ngục Sơn La. Trước khi trở thành đảng viên cộng sản ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Quốc dân Đảng, nhưng không phải đảng viên của đảng này. Tôi biết thế vì trong các đồng chí của cha tôi, ông là người có nhiều bạn cũ trong Quốc dân đảng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm bí thư khu uỷ Liên khu 3, rồi tổng cục phó Tổng cục hậu cần, là chủ nhiệm hậu cần mặt trận Điện Biên Phủ.

Hòa bình lập lại, ông phụ trách khối bộ đội chuyển sang làm công tác nông nghiệp, với chức vụ thứ trưởng Bộ Nông trường. Nhanh nhẹn trong chiếc áo choàng bằng dạ kaki cấp tướng, ông xăng xái lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ khác trên địa bàn rộng lớn miền Bắc. Chúng tôi, những đứa cháu con bạn ông, rất yêu ông. Trong ông chẳng có gì của vị tướng trong cái hình dung thông thường của mọi người. Ông giản dị, xuề xòa và hồn hậu. Cũng giống như chúng tôi, những người lính nông dân vừa rời tay súng về cầm cày không coi ông là tướng, mà là người cha, người chú trong gia đình.

Khi nổ ra cuộc xung đột ý thức hệ Trung – Xô, ông không do dự đứng ngay về phía Liên Xô. Là đảng viên cộng sản lão thành, như mọi đảng viên lão thành cùng thế hệ, ông không rành lý thuyết cộng sản. Ông, theo chỗ tôi biết, là một trong những nho sĩ cuối cùng của một thời đã xa với phương châm xử thế bất biến: lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu. Với tinh thần nho sĩ, chứ không phải với tinh thần à uôm mác-xít,ông gay gắt lên án Stalin giết hại đồng chí để củng cố quyền lực, ông chống Mao, mà ông gọi là “tên đồ tể” cũng mạnh mẽ không kém.

– Stalin ngập trong máu, bác biết lắm chứ, nhưng đó không phải là chủ nghĩa xã hội. – ông nói với tôi – Cái nhà không xấu chỉ vì chủ nhà là một thằng khốn nạn, bác nghĩ thế. Hôn quân có thể làm sập một vương triều, nhưng không làm mất nổi một đạo. Cháu thấy không, các triều vua thay nhau đổ trong khi Nho giáo, Khổng giáo vẫn trường tồn. Chủ nghĩa Marx với tư tưởng giải phóng nhân loại sẽ còn mãi. Chủ nghĩa Marx không muốn thấy một nhân loại như bây giờ. Nhân loại phải được sống hạnh phúc. Con người phải được sống như con người. Khrushov lên án sùng bái cá nhân là phải lắm, người có luân thường không thể làm khác. Mao mới là tên ăn cháo đá bát. Lợi dụng chống Khrushov chống luôn Liên Xô. Thử hỏi không có Liên Xô làm sao Trung Quốc có ngày nay? Công nghiệp gang thép ai dựng cho? Rồi công nghiệp máy cái, tàu bay, tàu biển, ô tô? Trước kia Trung Quốc có gì? Ngày nay có gì? Ừ thì lãnh đạo Liên Xô cư xử không nên không phải khi nổ ra bất đồng, nhưng ai là người đổ mồ hôi sôi nước mắt giúp Trung Quốc vững vàng được như bây giờ? Là nhân dân Liên Xô chứ, là người lao động Liên Xô chứ. Xét cho cùng, cũng chẳng lấy làm gì lạ – mộng vương bá là cố tật của người Trung Hoa. Cứ xem sử Trung Quốc thì thấy, mỗi vùng mỗi vua, anh nào cũng lăm le bá chủ thiên hạ, chưa bá chủ được chưa yên. Nước ta rồi còn khổ với mấy cái anh bá này!

Tôi nghe ông mà buồn. Trong câu nói của ông toát ra điều mà lớp trẻ đã có nghiên cứu chút ít học thuyết Marx không thể chấp nhận, nhưng là sự thật – trong tâm thức, phần lớn đảng viên cộng sản coi chủ nghĩa cộng sản như một tôn giáo. Tôi không nói quá – nếu không đến nỗi thế thì họ cũng tin vào chủ nghĩa Marx với một đức tin ngang bằng với đức tin tôn giáo. Chúng tôi đã rũ bỏ được cái tinh thần ấy, chí ít thì cũng không còn mang trong lòng sự tôn sùng chủ thuyết Marx như mục đích cuộc đời. Cha tôi hơn hẳn ông Giang trong chuyện này, mặc dầu cũng không phải đã rũ sạch.

Trong thời gian làm thứ trưởng Bộ Nông trường, Đặng Kim Giang là một người thực tiễn. Ông chăm chú nghe ý kiến quần chúng, ông hiểu nguyện vọng của họ, từ đó ông đề xuất những chủ trương táo bạo đối với đường lối cứng quèo của Đảng. Ông dám khuyến khích sản xuất bằng lợi ích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông trường viên, ông chủ trương hợp tác đầu tư với các nước xã hội chủ nghĩa, cho các nông trường liên doanh với các nông trường nước bạn. Tất cả những chủ trương cách tân đó đều bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ coi là “xét lại”, “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”.

Tướng Giang đi khuất rồi, tôi còn phải đứng đợi một lúc nữa mới thấy viên quản giáo nông dân xuất hiện.

Anh ta lẳng lặng dẫn tôi tới một phòng hỏi cung khác nằm sâu trong dãy nhà bên cánh trái Hỏa Lò. Đợi tôi ở đó là một người đàn ông cao to, da thiết bì, nhưng bóng láng, đẹp trai như một con hà mã. Trong quân phục dạ dành cho cấp tá, không quân hàm, bên trong chiếc áo choàng cũng bằng dạ, y lừ lừ nhìn tôi.

Thế là chúng nó phải thay người làm việc với mình rồi, tôi nghĩ. Nhìn Huỳnh Ngự khúm núm bên cạnh y, tôi đoán y là cấp trên của Huỳnh Ngự.

Đã một tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt, nếu không hơn. Trong những ngày đó, sau cuộc cãi vã tay đôi làm Huỳnh Ngự tức điên, y còn gọi tôi ra vài lần nữa, nhưng cứ vừa nhìn thấy y là tôi bắt viên quản giáo đưa tôi lộn lại xà lim. Cái lối chơi chướng ấy thế mà được việc. Cần phải cho chúng nó biết tôi không dễ nhá. Cha tôi nói về đối sách của ông với nhân viên sở Liêm phóng: “Chỉ cần run sợ một chút là chúng lấn tới. Cho chúng nó đánh, cho chúng nó tra khảo, tra chán rồi chúng nó mệt, chúng nó bỏ. Chứ tỏ ra sợ đòn thì cứ cần hỏi gì là chúng nó lại lôi ra, lại đánh”.

– Tôi đã đọc những báo cáo về anh. – con hà mã đặt tập hồ sơ đang đọc khi tôi bước vào lên bàn – Hôm nay tôi bố trí thời gian gặp anh…

Tôi lặng thinh nhìn y.

– Chỉ để khuyên anh một điều, với tư cách người lớn tuổi…

Tôi không nói gì.

– Trước hết, tôi khuyên anh không nên cố chấp. – bằng giọng không có hồn, y dề dà nói – Anh là trí thức, hẳn anh biết cổ nhân có câu: “Chấp kinh thì phải tòng quyền”…

Tôi liếc nhìn Huỳnh Ngự. Bên cạnh con người này, y nhỏ bé hẳn, so rụi hẳn, chẳng giống Huỳnh Ngự những ngày trước.

Không đợi con hà mã nói hết, tôi hất hàm chỉ Huỳnh Ngự, làm ra vẻ không biết hoặc không nhớ tên y:

– Nếu anh có ý định phổ biến nội quy trại giam cho tôi một lần nữa, như anh này đã phổ biến, thì tôi xin cảm ơn, tôi đã được nghe kỹ…

– Khoan đã. – y phóng bàn tay ra phía trước, chặn câu nói của tôi lại – Tôi hiểu anh đang bực bội trong lòng. Bực bội là phải thôi, ai lại muốn mình bị Đảng coi là kẻ thù của cách mạng? Nhưng cho tới giờ đã có ai coi anh là kẻ thù đâu! Sai thì có, sai quá đi ấy chứ. Do nhận thức sai nên mới có hành động sai. Cũng là thường tình thôi. Sai thì sửa. Mao chủ tịch dạy: chỉ có hai thứ người không sai thôi – ấy là đứa trẻ trong bụng mẹ và người nằm trong quan tài. Mình chưa hiểu ra cái sai, Đảng biết thì Đảng chỉ ra cho, uốn nắn cho, sửa chữa cho. Vì thế, như tôi vừa nói với anh, tôi nhắc lại lần nữa anh nghe cho rõ: đừng cố chấp. Nội quy, xét cho cùng, nó là cái gì? Nó chẳng là cái gì hết – một quy ước được soạn ra cho cuộc sống tập thể mà mọi người có trách nhiệm tuân thủ để duy trì trật tự chung…

– Tôi nói rồi: tôi không thích cái nội quy ấy. – tôi lạnh nhạt, đồng thời cương quyết – Tôi không chấp nhận nó.

– Bình tĩnh, bình tĩnh nào! Nghe tôi nói đã. Sáng nay anh Thành[3] thay mặt anh Sáu, có vào đây gặp các anh, từng người một. – con hà mã vẫn bình thản, nhưng qua giọng nói, cách nói của y, tôi hiểu y phải cố gắng lắm mới giữ được vẻ mặt bình tĩnh như thế – Nhưng rồi do công tác đột xuất lại phải quay về ngay, không gặp được. Anh Thành ủy nhiệm tôi phổ biến cho các anh quyết định mới nhất của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương…

Người được bổ nhiệm của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương không thèm tự giới thiệu. Sau mới biết tên y là Trúc, không rõ họ gì, cục trưởng Cục chấp pháp. Trúc là nhân vật quan trọng nhất trong đám quan binh mà tôi được tiếp kiến kể từ khi bước chân vào Hỏa Lò. Trong ngành công an người giữ chức vụ cục trưởng còn sang hơn thứ trưởng ở các bộ khác.

Y đúng là một nhà mác-xít-lê-nin-nít chân chính, theo cách hiểu Việt Nam. Y nói nhân nói nghĩa, nhưng không nhích một ly khỏi lập trường chuyên chính vô sản. Tôi không ngạc nhiên nếu sau những lời phi lộ dài dòng đầy nhân ái, y sẽ nói tới những quyết định tàn bạo. Những quyết định sắt máu không được viết ra bằng lời, nhưng tinh thần của chúng hừng hực trong cái gọi là Nghị quyết 9. Trong cuộc đời cán bộ của tôi, tôi đã buộc phải học tập nhiều nghị quyết của Đảng, nhiều đến phát ngán, không thể nhớ nổi, chúng lộn tùng phèo trong đầu tôi, cái này lẫn với cái kia. Nhưng Nghị quyết 9 là cái không bao giờ tôi quên. Nó đặt một dấu nung đỏ lên trán xã hội để khẳng định một lần cho mãi mãi rằng đảng cộng sản (lúc đó còn mang tên Đảng Lao động Việt Nam) quyết đóng hàm thiếc và yên cương cho con ngựa dân tộc, bắt nó phải ngoan ngoãn đi theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết 9 là nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9, khoá 2, họp vào ngày 11. 12. 1963. Nó là một nghị quyết có vỏ ngoài tù mù, lăng nhăng, với những câu chữ chung chung, tưởng như không có lập trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Đảng Việt Nam vừa nói “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” vừa nói chống “chủ nghĩa giáo điều”[4], với câu chữ kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm không giống ai, khó mà hiểu được người viết nghị quyết muốn nói cái gì. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết có vẻ nước đôi này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh. Tác giả của những bài chính luận hào hùng không ai sánh kịp trong những ngày tiền khởi nghĩa 1945 lần này đã nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch “em chã, em chã” với cả hai bên tranh chấp. Trong thực tế nó là cái xác quyết lập trường của Đảng: chuyên chính vô sản, cách mạng bạo lực, triệt để xoá bỏ tư hữu, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, võ trang giải phóng miền Nam. Nó mở màn cho cuộc tấn công nhằm vào “chủ nghĩa xét lại”, cụ thể là nhằm vào những cán bộ có xu hướng không tán thành đường lối chuyên chính vô sản và cách mạng bạo lực. Nghị quyết này là kết quả trực tiếp của chuyến đi Hà Nội vào tháng 5. 1963 của Lưu Thiếu Kỳ[5], chủ tịch nước CHND Trung Hoa nhằm lôi kéo Hà Nội về phía Bắc Kinh chống lại đường lối của “chủ nghĩa xét lại” do Đại hội XX ĐCS Liên Xô khởi xướng. Tiếp theo chuyến đi lịch sử của họ Lưu là sự xuất hiện những bài báo của Hồng Chương (tạp chí Học Tập, tháng 7. 1963), Lê Đức Thọ (báo Nhân Dân, 2. 9. 1963), lên án tiểu thuyết “Vào Đời” của Hà Minh Tuân[6], ghép một cách ngớ ngẩn và vô căn cứ vào với “chủ nghĩa xét lại” của “tên phản bội Tito”, đòi phải “thi hành kỷ luật thích đáng” những cán bộ đảng viên có tư tưởng hữu khuynh, xét lại.

Có thể nói toàn thể cán bộ công an, và nói chung các cán bộ của “bộ máy trấn áp phản cách mạng” hồi ấy được Đảng nhuộm đỏ một màu máu. Bạo lực được tôn sùng như biểu hiện của tính kiên định cách mạng. Những câu cách mạng hung hăng đầu lưỡi được đánh giá như nhiệt tình chiến đấu cho thắng lợi cuối cùng của đường lối mác-xít.

Ngoài những buổi học tập nghị quyết 9 được tổ chức nửa bí mật, nửa công khai theo các cấp khác nhau, với mức độ khác nhau, tại tòa soạn, chúng tôi phải học tập liên miên. Tài liệu học tập là những bài giảng của Trung ương gửi xuống, của Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh do sứ quán Trung Quốc phát không. Công việc củng cố lập trường chiếm hết thời giờ làm báo. Được cái làm báo xã hội chủ nghĩa không khó. Tờ báo là công cụ giáo dục nhân dân, cho nên báo không cần bán chạy, thị hiếu của độc giả, hay nhu cầu của độc giả không cần đếm xỉa, chỉ cần minh họa các chủ trương chính sách của Trung ương sao cho tốt, cho khéo là được. Không ai trách anh nếu anh viết giống hệt bài nào đó đã in rồi trong báo Đảng. Nhai lại những gì báo Đảng viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen có ý thức tổ chức cao. Hay có viết giống Đài phát thanh Bắc Kinh hoặc Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh thì cũng được khen không kém: lập trường vững.

Trong những buổi kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết 9, các nhà báo ngồi cùng các nhân viên tòa soạn, cả anh tiếp phẩm lẫn chị cấp dưỡng. Mọi người đua nhau lên án “bọn xét lại hiện đại” chủ trương chung sống hòa bình giữa các chế độ xã hội khác nhau, thi đua hòa bình, quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Ai đọc được nhiều tài liệu của Đảng, của Trung Quốc, lại có trí nhớ tốt, phát biểu hăng hái, thì được coi là tích cực học tập.

Trong Hỏa Lò, Huỳnh Ngự cũng ông ổng chửi chung sống hòa bình:

– Là người không thể sống với dã thú. Mà bọn tư bản là dã thú, chung sống làm sao được với chúng nó? Bây giờ anh đã thấy đường lối nớ sai chưa?

– Chưa. – tôi đáp – Mình muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có hòa bình trước đã, tôi quan niệm như vậy. Còn cụm từ chung sống hòa bình mà báo chí quen dùng là do dịch sai gây ra hiểu nhầm. Người Nga nói mirnoe soshushestvovanie, người Pháp nói coexistence pacifique không có nghĩa chung sống hòa bình, mà là cùng tồn tại trong hòa bình.

Huỳnh Ngự hừ một tiếng không rõ rệt.

Vài năm sau, khi Đảng đã biến hoá lập trường, không còn mặn mà với Trung Quốc nữa, thì báo chí không thấy dùng cụm từ chung sống hòa bình nữa. Người ta dùng đúng như tôi nói hôm đó: cùng tồn tại trong hòa bình.

Cuốn “Người với người là bạn” của nhà văn Liên Xô Boris Polevoy[7] bị đặt lên bàn mổ. Nó bị phỉ nhổ là lá cờ rách của “chủ nghĩa nhân đạo chung chung”, “thứ đồ bỏ nhặt từ trong đống rác thối tha của chế độ tư bản”. Các cán bộ tuyên giáo[8] nói rằng cái “chủ nghĩa nhân đạo chung chung” của “bọn xét lại hiện đại” không mê hoặc nổi ai. Nhưng cứ phải cảnh giác (!), họ nhấn mạnh, bởi vì nó thường dùng hình thức văn học là cái đi vào lòng người một cách êm ái.

Chủ nghĩa cộng sản, cũng theo các nhà tuyên giáo, đương nhiên hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo tiến bộ nhất, văn minh nhất, rộng rãi nhất, cao cả nhất. Mọi thứ chủ nghĩa nhân đạo khác, không phải của giai cấp vô sản, chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, là lời lẽ mị dân.

Chúng tôi họp suốt ngày. Không phải một, hai ngày, mà ngày này qua ngày khác. Dưới cái quạt trần quay vù vù và sự chủ tọa của thư ký tòa soạn Nguyễn Thanh Địch, các cán bộ của tờ báo mồ hôi nhễ nhại phê phán tính chất nhân đạo phi giai cấp của những bộ phim xô-viết: “Số Phận Con Người”, “Đàn Sếu Bay Qua”“Bài Ca Người Lính”[9]. Đó là những bộ phim hay, báo hiệu sự khởi sắc của nền điện ảnh xô-viết sau một thời gian dài trì trệ với những sản phẩm minh hoạ đường lối của đảng và tôn vinh đảng. Nền điện ảnh ấy trong thực tế đã trở thành xác ướp được đánh phấn bôi son trong nhiều thập niên sau những tác phẩm nổi tiếng như “Chiến hạm Potemkin”, “Ivan Bạo Chúa” ra đời trong niềm hưng phấn cách mạng. Mặc dầu trong lòng không tán thành, mỗi người cũng phải phụ họa đôi ba câu vô thưởng vô phạt. Tôi ngồi im. Ngồi im cũng là một thái độ, và các nhà mác-xít cấp phường nhìn tôi bằng con mắt hằn học. May cho tôi, bí thư chi bộ Hoàng Nguyên Kỳ là một họa sĩ, cũng tức là một người thuộc lớp trí thức, biết ăn ở sao cho phải đạo. Là người lãnh đạo trong toà soạn, anh hiển nhiên phải có lập trường vững vàng, nhưng anh chỉ giữ ý thức tổ chức đến mức vừa đủ. Anh ân cần dặn tôi: “Im lặng cũng được. Nhưng chớ có phát biểu ngang xương đấy nhá!”.

Nhân đợt học tập “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”, những chồng báo lưu của tòa soạn được mang ra. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 9, người ta đọc lại các số báo xuất bản một hai năm trước bằng kính lúp. Một số bài bị mang ra phê phán, trong đó không thể thiếu những bài của tôi. May cho tôi – những câu chữ bị đem ra mổ xẻ, bị lên án hóa ra lại là của quý vị Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, mà tôi đã lười biếng cóp vào bài viết của mình. Thậm chí tôi còn đóng vai phản tỉnh, đề nghị cho tôi được nghỉ học để ngay lập tức viết thư lên các vị lãnh đạo. Tôi giận các vị lắm, tôi nhất quyết buộc các vị phải công khai nhận sai lầm, chính vì tin ở các vị mà tôi sai lầm theo. Thư ký tòa soạn tỉnh giấc đấu tranh, vội vã ngăn tôi lại.

Không khí chỉnh huấn tưởng đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ, nay trở lại với sức mạnh gấp đôi.

Nạn nhân đầu tiên của cuộc tiến công ầm ĩ vào “chủ nghĩa xét lại” là Minh Tranh, giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Là một nhà xuất bản chuyên cho ra những sách kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lênin, lẽ thường giám đốc phải là người con trung thành bậc nhất của những giáo điều mác-xít. Ai ngờ Minh Tranh lại là một trong những tên “xét lại”, và là một tên xét lại cứng đầu, nhất nhất không tuân phục trung ương. Mấy anh cán bộ tuyên giáo không có thông tin cập nhật, không biết tôi là “phần tử có nghi vấn” nói với tôi: “Bọn xét lại có ba pháo đài kiên cố là Viện Triết, Nhà xuất bản Sự Thật và Uỷ ban khoa học nhà nước. Viện Triết có Hoàng Minh Chính, Nhà xuất bản Sự Thật có Minh Tranh, còn Ủy ban khoa học nhà nước thì có Tạ Quang Bửu”.

Minh Tranh không bị hạ ngục. Ông được Đảng ban cho ân huệ được an toàn rời bỏ cái ghế giám đốc mà chính ông không thiết tha. Trước khi rời Hà Nội, ông tới chia tay với cha tôi. Hai người lững thững đi bộ dọc đường Hai Bà Trưng. Tôi không biết họ nói gì với nhau trong buổi chiều đầy lá rụng hôm đó. Cha tôi trọng Minh Tranh, coi Minh Tranh là một đồng chí có học và có tinh thần cách mạng kiên định. Tôi không rõ Minh Tranh đi đâu. Ông biến khỏi thành phố, như rời xa ổ dịch. Không ai nghĩ ông sợ. Mọi người đều hiểu – ông bỏ đi vì chán ngán.

Tôi buồn. Tôi ngơ ngác. Tôi không thể hiểu nổi những lời thóa mạ bỗng dưng nổi lên đùng đùng nhằm vào một kẻ thù không biết mặt. Cứ như thể mọi người chung quanh tôi bất thình lình phát điên. Không điên thì không thể nói ra những luận điệu phi nhân như thế với bạn bè mình, với anh em mình. Nhưng tôi nhầm – họ không điên. Đến chủ nghĩa Marx họ cũng chỉ biết bập bõm thì làm sao họ biết được mặt ngang mũi dọc cái chủ nghĩa xét lại chủ nghĩa Marx nó thế nào.

Nhìn sâu vào phong trào chửi bới “chủ nghĩa xét lại”, tôi rùng mình. Sau cải cách ruộng đất, đây là một sự sa sút của tâm hồn người, với mức độ tinh vi hơn. Nếu như cải cách ruộng đất diễn ra trong bầu không khí lên đồng tập thể, thì trong “cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa "xét lại hiện đại" người ta lạnh lùng bới lông tìm vết trong các đồng chí cùng một hàng ngũ, rồi người nọ vu cáo người kia, anh này hại anh khác, đấu đá nhau không thương tiếc. Nhưng đó là ở cấp cao, chứ số đông cán bộ cấp dưới chỉ thụ động tham gia cuộc đại đấu đá do Bộ Chính trị khởi xướng một cách vừa phải, vừa đủ để trình ra cái lập trường không thể thiếu, để cấp trên khỏi quên họ trong những đợt xét lên lương, xét thăng chức. Mỗi người đều có những đứa con phải nuôi, một ngân sách gia đình eo hẹp, tất cả đều bị viêm màng túi, như chúng tôi thường cay đắng tự nhạo báng. Nỗi sợ hãi bị Đảng nghi ngờ làm cho người ta phải ra sức chứng minh rằng họ trước sau một lòng một dạ trung thành với Đảng.

Cái sợ được vun trồng, chăm bón nhiều năm đã cho vụ mùa bội thu.

Năm 1963 tôi có viết một kịch bản điện ảnh nhan đề “Đêm Cuối Cùng, Ngày Đầu Tiên”. Nội dung kể chuyện một anh du kích đường sắt trong đêm chót của chiến tranh 1946-1954 đã lặn lội đi gỡ trái mìn anh đặt và dự tính sẽ được giật nổ sáng hôm sau. Lệnh ngừng bắn làm đảo lộn kế hoạch của anh. Anh du kích đã mất cả gia đình trong chiến tranh. Anh coi chú bé liên lạc đi cùng anh như con ruột. Hai người bị quân Pháp trong một đồn ven đường phát hiện. Chú bé hy sinh. Vượt qua nỗi đau, anh du kích tiếp tục gỡ mìn, thực hiện lệnh trên. Kịch bản được thông qua để đưa vào sản xuất. Những biên tập viên Xưởng phim truyện Hà Nội tâm đắc đoạn cuối tả con tàu dừng lại trước người du kích đường sắt vừa gỡ xong quả mìn. Những người lính Pháp trên chuyến tàu “ngượng nghịu tháo những cái mũ sắt nặng nề xuống, cầm trước bụng bằng hai tay, như cách cầm mũ phớt, đầu cúi thấp trước thi hài người du kích tí hon, người anh hùng đã cứu họ khỏi cái chết cầm chắc… Trước khi là lính, mọi người lính đều là dân”.

Anh Phạm Văn Khoa[10] đề nghị tôi để anh làm đạo diễn. Đoàn làm phim được thành lập. Tôi được lĩnh một món tạm ứng khá hậu hĩnh, là của hiếm trong những năm ấy. Kịch bản hoàn toàn phù hợp với tinh thần hướng về nền hòa bình chung và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Những nhà điện ảnh Việt Nam vừa dự Liên hoan phim ở Leipzig về đã nghĩ tới Giải thưởng lớn hoặc một Huy chương vàng cho nền điện ảnh nước nhà.

Đùng một cái, tướng Nguyễn Chí Thanh[11] đăng đàn diễn thuyết trong một hội nghị cán bộ trung cao cấp quân đội, kịch liệt lên án kịch bản này. Ông tướng nông dân buộc tội tác giả kịch bản trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa nhân đạo chung chung, tính người chung chung bên ngoài tính giai cấp. Giọng điệu của Nguyễn Chí Thanh khi phê phán các tác phẩm văn học không khác giọng điệu Đài phát thanh Bắc Kinh là mấy.

Bộ phim chưa được quay bị đình lại, coi như xóa sổ.

Hồi ấy lãnh đạo Xưởng phim truyện Việt Nam đã cho đánh máy kịch bản “Đêm Cuối Cùng, Ngày Đầu Tiên” thành nhiều bản để chuyển cho các cơ quan văn nghệ nghiên cứu, hy vọng dùng ý kiến của nhiều nguồn dư luận khác nhau buộc Nguyễn Chí Thanh rút lại ý kiến của ông. Nhưng chẳng ai dại gì đối đầu với viên đại tướng nhà quê tự thị trong cảnh loạn lạc của cuộc đấu tranh không ai biết lối ra nằm ở đâu.

Thời gian này các nhà lãnh đạo bỗng nổi cơn sính văn chương. Các nhà-thơ-lãnh-tụ xuất hiện, lúc đầu còn bẽn lẽn, còn dè dặt, càng về sau càng tự nhiên, hoặc nói cách khác, càng trắng trợn. Nguyễn Chí Thanh không làm thơ được như Trường Chinh, Lê Đức Thọ[12] thì làm nhà phê bình. Các tác phẩm vốn đã bị các tên lính gác cổng tư tưởng ở các Nhà xuất bản, các cấp tuyên giáo xét nét duyệt đi duyệt lại, nay lại có thêm ông tướng Quảng Lạc[13] nhảy vào soi mói. Lác đác cũng có những tác phẩm không đến nỗi tồi, nhưng chỉ cần trong đó có vài dòng không vừa lòng ông tướng, thế là sấm sét lại nổi lên đùng đùng trên bầu trời văn chương, tác giả của chúng bị đánh tơi tả. Đó là những trường hợp xảy ra với Hà Minh Tuân (tiểu thuyết Vào Đời), với Phù Thăng[14] (tiểu thuyết Phá Vây).

Tôi đã đi hơi xa sự kiện trong Hỏa Lò.

Cục trưởng Cục chấp pháp bắt tôi phải chờ đợi một lúc lâu để tôi ý thức được tầm quan trọng của điều y sẽ nói:

– Quyết định mới nhất của Đảng về việc xử lý vụ của các anh là như sau…

Nói đến đấy y ngừng lại, muốn tôi phải nóng lòng chờ đợi câu tiếp theo.

Tôi chẳng bao giờ hiểu nổi khái niệm Đảng trong những ông cán bộ này. Họ thường nói Đảng chủ trương thế này, Đảng quyết định thế nọ, nhưng Đảng là Đảng nào – Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban tổ chức Trung ương, hay là đảng đoàn Bộ, hay Đảng uỷ xã… thì người ta lại không nói rõ. Tại đồng bằng sông Hồng thậm chí tôi còn được nghe một câu hoạt kê thế này trong hội nghị cán bộ xã: “Chúng ta đã cấy hết diện tích theo đúng kế hoạch trên giao xuống trong điều kiện “toàn Đảng toàn dân ho gà… ” Hóa ra toàn Đảng trong câu ấy có nghĩa là cái Đảng bé tí ti của xã, có khi chỉ là một chi bộ mươi người, chứ không phải cái Đảng to. Không hiểu cái Đảng mà ngài cục trưởng đang nói tới có phải là Đảng to không, hay cũng chỉ là một cái Đảng bé, Đảng đoàn Bộ Nội vụ chẳng hạn?

Tôi làm ra vẻ dán mắt vào mặt y, chờ đợi lời phán quyết của Đảng.

– Bộ Chính trị đã họp và quyết định để vụ của các anh trong phạm vi nội bộ.

Tôi không tin ở tai mình.

Thế có nghĩa là chủ trương của cái Đảng lớn rồi! Không phải của Đảng bé!

– Do đó – y nói tiếp, cố ý để tôi nuốt từng lời – vụ án sẽ được “xử lý nội bộ”, coi như nó là mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế. Tức là trong vụ này Đảng không áp dụng luật pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính…

Chao ôi, chẳng lẽ một sự bắt bớ ồn ào như thế, rùm beng dư luận như thế, để rồi kết thúc lặng lẽ thế này ư? Nhà cầm quyền đã tỉnh, hay là dư luận xã hội đã đánh thức họ?

“Xử lý nội bộ” có nghĩa là chúng tôi sẽ được thả, sẽ được trở về nhà mình, sau khi phải viết những bản xưng tội dài, phải đấm ngực thùm thụp mà kêu lên thống thiết “mea culpa, mea maxima culpa”[15]. Một thứ xà lách chỉnh huấn trộn xà lim?

Hãy cảnh giác, không có lẽ mọi chuyện lại đơn giản như vậy.

– Có phải chúng tôi sắp được về? – tôi thọc một mũi thăm dò – Tôi biết, Đảng bao giờ cũng sáng suốt mà.

– Cái đó tôi không biết – Trúc nhăn nhó – Đảng sẽ thả các anh hôm nay, ngày mai hay là thả các anh lúc nào là do Đảng quyết định. Mà giá có biết chúng tôi cũng không được phép nói trước khi Đảng lệnh xuống cho chúng tôi.

Bằng giọng tâm tình, y tràng giang đại hải một hồi về chính sách nhân đạo của Đảng, rằng chủ trương của Đảng bao giờ cũng nhất quán, trước sau như một, là trị bệnh cứu người. Vả lại, phòng bệnh hơn chữa bệnh, thậm chí có trường hợp chưa tới mức phải bắt mà Đảng vẫn bắt, thì chẳng qua cũng chỉ nhằm “để các anh không đi quá xa”. Đảng đau lòng lắm khi phải bắt cán bộ của mình,, nhưng trong sự việc cụ thể này những hành động sai trái của các anh đã vượt quá giới hạn mà Đảng có thể chịu đựng, cho nên Đảng buộc phải dùng biện pháp giam giữ, tuy nhiên giam giữ thế này cũng không nhằm mục đích nào khác là “giáo dục các anh, để đưa các anh trở lại trong lòng Đảng… ”

Nghĩa là, than ôi, chẳng có gì mới. Chúng tôi vẫn tiếp tục ở tù. Lạy Chúa tôi lòng lành! Đảng của chúng tôi tốt quá, tử tế quá!

Tôi buồn ngủ. Dù sao con béc-giê của Huỳnh Ngự cũng làm tôi ngủ ít hơn là không có nó. Tôi nói ngủ ít hơn, chứ không phải không ngủ được. Đòn đánh của Huỳnh Ngự không gây được hiệu quả mong muốn. Thành xé một mụn giẻ, tước sợi tơi ra như bông, chúng tôi vê lại làm nùi nhét vào lỗ tai, gắng rồi cũng ngủ được.

Tôi cúi xuống, giấu cái ngáp trẹo quai hàm.

– Sở dĩ Đảng giao việc trông nom các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng…

Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này Đảng sẽ lần lượt cho hết thẩy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, để họ trở nên trung thành với chủ nghĩa xã hội hơn.

– Các anh đang làm một công việc rất cần thiết cho Đảng, – qua đoạn khó nói, làm y ngắc ngứ, y lại hùng hồn – đó là: bằng những báo cáo của mình các anh đang đóng góp phần nhỏ bé của mình giúp Đảng củng cố tổ chức, để cho Đảng đã vững mạnh rồi còn vững mạnh hơn nữa. Có nghĩa là ngay tại đây, các anh cũng có công tác để làm, cũng là vẫn tiếp tục tham gia chống Mỹ cứu nước… Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ các anh hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng ta càng được tiến hành khẩn trương bao nhiêu thì Trung ương càng có điều kiện quyết định tương lai của các anh sớm bấy nhiêu. Tôi mong chóng được gặp lại các anh trên những cương vị công tác mới…

Cứ như tôi là đứa trẻ không bằng! Ban tổ chức Trung ương muốn quăng một mẻ lưới lớn đây. Nhưng sai những con chim mồi ngớ ngẩn đi làm mẹ mìn thì Đảng ngu quá!

Viên cục trưởng không nhận thấy cái nhếch mép của tôi.

– Tôi cũng thông báo để các anh được biết: chiếu cố công lao của các anh đối với cách mạng, Đảng giữ nguyên biên chế cho các anh. Giữ nguyên biên chế có nghiã là các anh vẫn được hưởng nguyên lương, nhưng gia đình chỉ được lĩnh một nửa, một nửa chi dùng cho các anh trong thời gian ở đây, cho tới khi các anh trở về với công tác cũ hoặc nhận nhiệm vụ mới. Mọi tiêu chuẩn cung cấp ở ngoài thế nào ở đây thế vậy, nguyên như trước… Tiêu chuẩn thịt của anh bao nhiêu nhỉ?

– Một cân.

– Hơn cả tôi đấy. Đường bao nhiêu?

– Cân rưỡi.

– Nhiều thế?

Nghe trong câu hỏi của y có âm sắc khó chịu. Y tiếc cho nhà nước hay ghen tị với tôi?

Tôi lạnh nhạt:

– Đó là tiêu chuẩn cho phóng viên thường phải công tác xa tòa soạn trong điều kiện chiến tranh[16]

– Ra thế! Anh sẽ được hưởng đúng tiêu chuẩn của anh khi còn ở đây, coi như đang công tác xa tòa soạn…

Từ chỗ chúng tôi đang ngồi tới phòng làm việc của tôi tại tòa soạn chưa đầy hai trăm mét tính theo đường chim bay. Theo cách y diễn đạt thì không phải tôi đang ở tù, tôi-chỉ-công-tác-xa-tòa-soạn mà thôi.

Không biết trong những ngày này ở tòa soạn người ta đang nói gì về tôi?

Tôi làm việc ở tờ báo tính ra cũng đã hơn sáu năm. Anh em làm báo phần nhiều là người tốt, có tình nghĩa. Chắc chắn có nhiều người thương tôi, tôi biết. Kể cả những người buộc phải nói theo Đảng rằng tôi là tên phản động. Tôi hiểu và không giận họ.

Có điều, tôi lo lắng. Không lo lắng sao được khi vợ tôi, với lương kỹ sư chỉ đủ sống cho một mình, cộng với nửa lương bé bỏng của tôi, sẽ khó bề xoay xỏa để nuôi hai đứa con. Khi chưa bị bắt, lương tôi nhà báo của tôi đã chẳng ra gì, nhưng hàng tháng tôi vẫn còn kiếm thêm được chút ít bằng nhuận bút dịch và viết những bài lăng nhăng cho các báo khác, nhờ đó mà cuộc sống trong gia đình cũng đỡ.

Trong những ngày đó, tôi hoàn toàn không biết tôi sắp có đứa con thứ ba.

Sau khi cha tôi bị bắt, gia đình tôi được một tổ sản xuất thương binh tìm đến giúp đỡ. Không hề quen biết riêng cha tôi hoặc tôi, các anh thương binh thời chống Pháp tỏ ra có lòng nhân ái không ngờ. Ái ngại cho một gia đình cách mạng bị trấn áp, các anh bàn cách giúp chúng tôi sinh sống. Đó là một việc rất mạo hiểm. Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng bị theo dõi ngày đêm. Những người đến thăm đều bị công an hỏi: đến gặp ai, có việc gì, nói những chuyện gì?

Mẹ tôi lúc đầu còn e dè: hay họ là “cá chìm”? Chẳng bao lâu sau chúng tôi hiểu ra: tình đồng chí vẫn còn lại trong những con người bình dị.

Tổ sản xuất thương binh có những hợp đồng dán túi ni-lông cho các nhà máy ở gần Hà Nội. Chúng tôi được các anh hướng dẫn cách thức dán ni-lông thủ công bằng mỏ hàn điện. Tôi và các em tôi chăm chú học. Được cái đó là một nghề đơn giản, không đòi hỏi phải có tay nghề.

Các anh thương binh này thật chân thật và mộc mạc trong sự phản kháng thầm lặng chống lại cái Đảng mà họ đã đi theo trong cuộc kháng chiến 9 năm. Họ trước hết là những người Việt Nam của truyền thống “người trong một nước phải thương nhau cùng”. Họ không thể ưng được cái cách đối xử với đồng chí đồng bào của các nhà lãnh đạo đã quên họ. Các anh đã có mặt bên cạnh gia đình tôi trong suốt thời gian hai cha con tôi nằm trong tù. Chúng tôi mãi mãi coi các anh là ân nhân. Làm sao có thể quên anh Trường cụt một tay một chân, anh Phúc thương tích đầy mình, đã nhường cơm xẻ áo cho chúng tôi (trong đúng nghĩa của câu “nhường cơm xẻ áo”) trong những ngày khốn khó.

Cho đến ngày tôi bị bắt, chúng tôi đã được lĩnh hai lần tiền công dán túi ni-lông trong hợp đồng mà các anh thương binh nhường cho.

Anh Trường dẫn tôi đi giao hàng ở nhà máy que hàn điện ở Thường Tín. Anh, với tư cách, người nhận hàng gia công, mới được giao hàng và nhận nguyên vật liệu cho đợt làm hàng tiếp theo.

Mẹ tôi đếm tiền tôi mang về, nhẩm tính, vui mừng ra mặt:

– Sống được các con ạ!

Đang vui, bà bỗng ngẩn người:

– Nếu chúng nó chặn nốt cả đường sống này nữa thì biết làm sao đây? Thời Pháp thuộc, bố đi tù, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bịt kín mọi đường sống, bắt mọi người muốn sống thì phải phụ thuộc chúng nó. Các con chớ có bép xép về chuyện các anh ấy giúp nhà mình. Càng giữ kín càng tốt. Lạy Trời, nếu chúng nó không phá thì các anh ấy còn giúp được. Mẹ tin các anh ấy, có các anh ấy mẹ thấy yên tâm hẳn. Nhưng nếu các anh không giúp được nữa thì các con phải tự lo, tính trước đi là vừa…

8

– Nào, ta mần việc, hỉ?

Huỳng Ngự nói, run rẩy xoa xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ cóng.

Thái độ Huỳnh Ngự mềm mỏng hẳn. Cứ như thể nhờ cấp trên xuống giải quyết, chúng tôi đã giảng hòa được với nhau rồi, giờ đã có thể thân mật với nhau được rồi.

Tôi thấy cũng nên quên đi cuộc cãi cọ bữa trước. Muốn hay không, tôi vẫn phải làm việc với một tên chấp pháp, mà làm việc với tên mình biết rồi tốt hơn là làm việc với tên mình chưa biết.

Huỳnh Ngự bận rộn bày ấm chén lên bàn, lấy nước sôi pha trà, ra dáng chủ nhà. Vừa chuyên trà từ chén nọ qua chén kia, y vừa ôn tồn nói với tôi:

– Nè, tui nói anh đừng tự ái, chớ đám nhà văn các anh là chúa hay nghĩ ngợi lung tung. Việc bình thường rơi vào tay các anh là cứ rối tinh rối mù lên không còn biết đâu là đầu đâu là cuối nữa. Còn về lập trường thì ôi thôi, khỏi nói, khi tả khuynh khi hữu khuynh, nói tóm lại dao động lung tung. Trong bọn nhà văn các anh, Nguyễn Đình Thi[17], Nguyễn Khải được coi là lập trường vững nhất, đúng vậy không?

Tôi nói lửng lơ:

– Tôi không rõ có phải thế không? Có thể anh Nguyễn Đình Thi, anh Nguyễn Khải[18] là có lập trường vững hơn cả. Tiếc rằng trong giới văn nghệ chưa có sự bình bầu lập trường. Tạm coi là vậy đi. Thì sao?

– Vậy mà, tui nói cho anh hay, kể cả mấy anh nớ, cũng không thể làm việc trong cơ quan an ninh tụi tui lấy một ngày. – y nhấn mạnh – Nói rứa để anh rõ Đảng lựa chọn người mần chuyên chính vô sản khe khắt ra răng. Cơ quan an ninh tụi tui không lạ chi ba cái lập trường tả hữu bất thường của mấy ảnh… Anh cũng rứa, lập trường cái chi, Đảng tính cái chi, mà vừa bị bắt đã bi quan muốn chết, mất hết lòng tin ở Đảng. Đó, anh coi, Đảng đã có quyết định rồi, có giống như các anh nghĩ mô…

Tôi không hiểu y muốn nói gì. Tôi lặng thinh.

– Hì hì, nghe trên phổ biến rồi, bữa ni anh còn thắc mắc không? Hết rồi chớ? Có thắc mắc thì cứ phát biểu, Đảng cho phép các anh nói thẳng, nói thật, nói hết, thì cứ mạnh dạn mà nói. Tui có trách nhiệm giải quyết mọi thắc mắc của các anh, tuốt tuột. Anh phải biết khi tư tưởng chưa thông suốt thì ta làm việc với nhau sẽ khó, khó lắm. Mà trách nhiệm của ta là phải làm sao cho công việc Đảng giao được tốt nhứt, hiệu quả nhứt. Anh hiểu chớ?

Câu đáp bật ra theo phản xạ tự nhiên, như không phải tôi nói:

– Khoan nói tới chuyện hiệu quả. Trước khi làm việc chúng ta cần phải thoả thuận với nhau chuyện hôm nọ còn bỏ dở cái đã.

Chà, sao tôi lại thế nhỉ? Tôi đã định bụng quên cái chuyện đôi co bữa trước trong ngày hôm nay rồi kia mà. Có lẽ thái độ coi tôi như trẻ con của Huỳnh Ngự làm tôi phát khùng.

Huỳnh Ngự ngạc nhiên, hay làm ra vẻ ngạc nhiên:

– Chuyện chi hè?

Tôi thấy ái ngại cho y. Y thiệt thòi quá! Đáng lẽ đương nhiên được gọi bằng “ông” ngon lành thì y lại đụng đầu với một thằng dở hơi và cù nhầy là tôi, để phải mà cả lằng nhằng cả buổi chỉ vì một từ. Mà tôi cũng dở. Quay lại đề tài cũ trong một ngày có điều kiện để không cãi nhau làm gì cơ chứ? Khi bị gọi đi cung tôi đã vạch cho mình cách ứng xử. Tôi định bụng nếu có gặp một chấp pháp khác hay gặp lại Huỳnh Ngự thì tôi cũng sẽ không gây sự nữa, mà sẽ mềm mỏng để moi ở người đối thoại những điều tôi cần biết. Không có những tên chấp pháp thì làm sao tôi có thể biết được sự gì đang xảy ra bên ngoài? Mà tôi thì hoàn toàn mù tịt về tin tức bên ngoài kể từ hôm đặt chân vào đây. Nhưng gọi y bằng ông, để y cứ thoải mái gọi mình bằng anh là bất bình đẳng, là nhục, tức không chịu được!

Chúng tôi im lặng hồi lâu.

Tôi quyết định rút chân ra khỏi bãi lầy:

– Hay là thế này vậy: gọi bằng anh thì không được, quy định cấm, chính tôi cũng không muốn. Gọi bằng ông thì tôi đã nói rồi, tôi không chịu – nó quá ư bất bình đẳng…

– Hừ…

– Thôi thì, nếu anh không phản đối, chúng ta sẽ chọn một cách xưng hô khác, ở giữa, vừa phải cho cả hai…

– Anh cứ nói.

– Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, tuổi anh nằm giữa hai thế hệ cha tôi và tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng bác xưng tôi, còn bác cứ gọi tôi bằng anh là xong. Như vậy tuy không hợp với nội quy cho lắm, nhưng cũng không hẳn là trái với nó…

Huỳnh Ngự lưỡng lự vài giây. Rồi chặc lưỡi:

– Vậy cũng được.

Rốt cuộc, chúng tôi đã đạt được một thỏa hiệp không đến nỗi tồi. Nếu không chúng tôi lúng túng còn lâu, chưa biết khi nào mới thoát khỏi ngõ cụt. Huỳnh Ngự còn khó chịu, tôi biết. Về phía mình, tôi hài lòng. Đã đến lúc phải chấm dứt, bằng cách này hay cách khác, cuộc tranh luận vô bổ. Tôi hiền lành nhìn Huỳnh Ngự, nói bằng giọng yêu cầu được thông cảm:

– Bác đừng buồn tôi, bác Ngự ạ. Con người thường có những nguyên tắc không thể vượt qua. Bác vừa nói đám nhà văn hay nhiễu sự. Cái đó có phần đúng…

– Chu cha, lại còn có phần đúng! – Huỳnh Ngự lườm tôi, nhưng trong cái lườm không có ý ghét bỏ – Đúng quá đi chớ! Các anh là rứa, chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Đã vậy lại còn thích chẻ sợi tóc làm tư, chẻ làm tư rồi còn muốn chẻ làm tám. Rút cuộc đa thư loạn thị, mới hiểu sai đường lối của Đảng, hiểu sai rồi đâm mất lòng tin. Nghĩ làm chi cho mệt trong khi ở trên đã có Đảng, có Trung ương nghĩ hộ cho hết trơn hết trọi. Đảng là trí tuệ, là bó đuốc soi đường, là lương tâm thời đại[19]… Đảng được võ trang bằng chủ nghĩa Marx-Lênin, cho nên Đảng không thể sai lầm. Chúng ta, như anh hùng Lôi Phong bên Trung Quốc đã nói, mà nói rất đúng, chỉ là những cái đinh ốc của cách mạng. Nhưng phải là những cái đinh ốc không rỉ kìa!

Tôi bất giác mỉm cười.

Anh chàng Lôi Phong mà Huỳnh ngự nói là một anh hùng từ nông dân được những nhà lãnh đạo mao-ít Trung Quốc đôn lên làm anh hùng, làm tấm gương sáng cho cả nước noi theo. Anh chàng gàn bát sách này quyết không đi xe điện để dành hai xu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Anh ta nhặt bàn chải răng người ta vứt đi trong thùng rác, rửa sạch để dùng lại, cũng vì mục đích cao cả đó. Để đồng đội khỏi phải đi cả chục cây số đến hiệu cắt tóc, Lôi Phong lấy tiền dành dụm mua cái tông-đơ rồi đè đầu một đồng chí Lý nào đó ra mà cắt. Sau đây là đoạn tôi nhớ gần như nguyên văn trong cuốn sách mang tên anh ta: “Đồng chí Lý kêu váng lên, nói tông-đơ rứt tóc chịu không nổi. Lôi Phong “bèn mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Đọc rồi, thông rồi, Lôi Phong thêm quyết tâm, lại tiếp tục cắt. Đồng chí Lý vẫn kêu la. Lôi Phong vò đầu bứt tai, rồi “lại mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Anh tiểu đội trưởng Giải phóng quân Lôi Phong nọ chính là người đề xướng cái thuyết nổi tiếng toàn Trung Quốc rằng mỗi con người trong xã hội phải là cái đinh ốc không rỉ của Đảng, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

– Tất nhiên, mỗi người mỗi nghề, tui không đi sâu, tôi không hiểu giới văn nghệ sĩ bằng anh, – mắt kém, Huỳnh Ngự không nhìn thấy nụ cười thoảng qua trên mặt tôi – nhưng tui cũng có gặp người này người nọ trong đám văn nghệ sĩ chớ, tui cũng hiểu được các anh phần nào chớ. Nói thiệt, tui thấy các anh đông tây kim cổ cái chi cũng biết, nhưng cái chính, cái cốt lõi là chủ nghĩa Mác vô địch thì, hè hè, các anh lại chẳng nắm được là bao…

– Thì bác chả nói mỗi người mỗi nghề đó sao! – tôi nhấp trà, hiền lành đáp – Bác có nghề của bác, tôi có nghề của tôi, bác thạo nghề của bác, chúng tôi thạo nghề chúng tôi…

Huỳnh Ngự không để cho tôi nói hết câu, y chặt ngang:

– Nhưng trong chế độ của chúng ta thì làm nghề nào cũng vậy, phải lấy chủ nghĩa Mác làm đầu. Nhiều người mắc sai lầm là bắt đầu từ chỗ nớ, từ chỗ không đánh giá đúng tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác, không chịu học tập chủ nghĩa Mác, khoa học của mọi khoa học. Nó là kim chỉ nam cho mọi hành động. Chỉ có dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác ta mới nhìn mọi sự được minh bạch, trắng ra trắng, đen ra đen…

Đĩa hát cũ, chẳng cần nghe cũng biết trong đó có gì.

Không khí trở lại như ban đầu, không còn căng thẳng.

Tôi tận hưởng chén trà ngon đậm đặc trong căn phòng lạnh căm căm, dưới ánh sáng không phải của chủ nghĩa Marx, mà của ngọn đèn vàng vọt trong buổi sáng ảm đạm. Ở ngoài nhìn vào chắc hẳn ai cũng phải nghĩ ở đây có hai người đang dông dài chuyện trà dư tửu hậu.

– Bữa ni ta chưa dùng tới giấy bút. – Huỳnh Ngự đổ bã ấm thứ nhất rồi không vội vã pha ấm thứ hai – Chuyện vãn cũng là một hình thức làm việc, anh có nhứt trí vậy không? Nhứt là đối với những người làm công việc trí óc như tụi mình. Ủa, râu anh sao mà mọc nhanh quá vậy?

Tôi bất giác đưa tay lên mặt. Đúng là râu mọc nhanh thật. Tôi chẳng bao giờ có ý định để râu, thành thử chẳng quan tâm đến râu ria. Tôi có thói quen cạo mặt hàng ngày kể từ khi trở thành đàn ông.

– Cạo đi! Để vậy gớm chết được!

– Kệ, chẳng sao. – tôi chặc lưỡi – Có phải tôi đang ở nhà mình đâu. Cũng chẳng có việc gì phải ra phố.

Huỳnh Ngự sững một giây, nghĩ xem có phải tôi định nói xỏ không.

– Để tui kêu quản giáo cắt tóc cho anh. Tóc cũng tốt rồi. Hôm nay anh cạo đi cái đã, tui sẽ đưa dao bào cho anh.

– Cảm ơn.

Huỳnh Ngự đưa tôi tới cửa ngách. Nó mở ra một mảnh sân tí din, nơi ri rỉ một vòi nước hỏng van. Chỉ cần động khẽ vào cái vòi nước là nước chảy tung tóe, nhưng không dễ khóa nó lại. Muốn khóa nó phải vặn nhẹ nhàng cho tới khi nước ngừng chảy, nín thở mà hãm nó lại đúng vị trí ấy rồi rón rén đi ra. Tôi thừa cơ rửa mặt mũi chân tay cho thỏa mái trong khi chờ viên quản giáo đi lấy dao cạo.

Mảnh sân tiếp giáp với tường Hỏa Lò, mặt quay ra đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Đứng bên vòi nước tôi nghe rõ mồn một tiếng bánh xe đạp lăn trên mặt đường nhựa, tiếng người lao xao. Chao ôi, giá mà lúc đó có được mảnh giấy trong tay nhỉ! Tôi sẽ viết mấy dòng nhắn tin cho gia đình rồi lợi dụng một phút sơ hở của Huỳnh Ngự, xin ra rửa ráy và ném nó qua bức tường kia. Người nhặt được, biết đâu chẳng phải một người tốt, sẽ đem mẩu thư tới cho gia đình tôi, mẹ tôi và vợ tôi sẽ biết tôi đang ở đâu. Tôi tin vẫn còn nhiều người tốt bụng. Nhưng trong tay tôi chẳng có mẩu giấy nào, chẳng có cái bút nào.

– Nè, dao bào đây, cạo đi!

Nhìn thấy con dao, tim tôi thắt lại.

Tôi nhận ra nó, con dao cạo cũ mà lớp mạ kền đã bong từng mảng. Đó là con dao của cha tôi. Ông dùng con dao nhãn hiệu Gillette này đã nhiều năm.

Nghĩa là cha tôi đang ở đây, ngay trong Hỏa Lò này. Nghĩa là tin đồn ông bị Đảng giữ tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi là tin vịt. Bằng việc cho tôi thấy con dao, Huỳnh Ngự muốn tôi hiểu một điều: nếu cha tôi cũng đang ở Hỏa Lò, thì điều đó có nghĩa là Đảng đã thẳng tay trừng phạt, không chiếu cố gì hết. Không có chuyện người ta nể nang gia đình cách mạng mà nương nhẹ cho cha con tôi. Chúng tôi chỉ có một con đường: đầu hàng, chịu khuất phục.

Tôi điềm tĩnh cạo mặt, cố tình không cho Huỳnh Ngự được hí hửng thấy kết quả dự liệu. Thậm chí tôi còn khe khẽ huýt sáo.

Trả lại Huỳnh Ngự con dao, tôi hồn nhiên nói:

– Bác có biết không, cạo mặt sướng nhất là dùng loại dao cạo này, nhưng lưỡi phải đúng là lưỡi Gillette kia, và phải nhúng dao vào nước thật nóng, lúc ấy râu cứ đi êm như ru.

– Vậy hả?

Huỳnh Ngự chưng hửng.

Càng thấy rõ việc tôi nhìn thấy tướng Đặng Kim Giang chẳng phải là ngẫu nhiên. Huỳnh Ngự dựng vở, có điều y là đạo diễn vụng… Y muốn đánh tiếng cho tôi biết những bậc lão thành cách mạng, thành tích đầy mình, vào đây rồi cũng đành chịu tho, huống hồ tôi.

Cái gọi là xử lý nội bộ của Đảng là thế. Nó không hơn một lời hứa suông nhằm moi ở chúng tôi lời nhận tội theo ý muốn. Cụm từ “xử lý nội bộ” chỉ tô đậm thêm tính chất phi lý của vụ án. Đảng, mà lại làm án đã là phi lý rồi. Chẳng Đảng nào có quyền lập án, xử án cả.

– Tui mừng cho anh. – Huỳnh Ngự đặt tay lên vai tôi – Nếu Đảng đã quyết định để vụ này trong nội bộ có nghĩa là ở đây không có mâu thuẫn địch ta, mâu thuẫn đối kháng, mà chỉ có mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi. Rứa, anh thấy chưa? Dù trong bất kỳ hoàn cảnh mô người cộng sản cũng cứ phải tin tưởng ở Đảng cái đã. Đảng bao giờ cũng anh minh, cũng sáng suốt. Đã bảo là không phải mâu thuẫn địch ta thì tức là mâu thuẫn trong nhà với nhau, Đảng chỉ giơ cao đánh sẽ, ví như cha mẹ thấy con cái hư thì phải đánh, chứ đánh con mình lòng cha mẹ cũng đau đớn lắm…

Tội nghiệp Đảng quá!

Tiếp theo, Huỳnh Ngự cho chạy đĩa hát khác về các loại hình mâu thuẫn được Mao Trạch Đông tổng kết trong trước tác Bàn Về Mâu Thuẫn. Tôi đã đọc cuốn này qua bản viết lại theo cách Việt Nam cho dễ hiểu của Hồ Chí Minh. Đối với Mao, đó là cẩm nang chia để trị dành cho các giáo đồ, phân biệt các loại kẻ thù lớn kẻ thù bé, kẻ thù xa kẻ thù gần, các loại đồng minh lâu dài và giai đoạn. Nó là một chương trong bộ Sấm truyền mao-ít.

Huỳnh Ngự không phải là ngoại lệ trong lớp cán bộ cỡ gia nhập cách mạng theo phong trào, tiến thân bằng lý lịch. Vỗ ngực khoe thành phần cơ bản, hợm hĩnh với những ưu đãi tinh thần được Đảng ban phát, những loại cán bộ này luôn phô ra, một cách rất hoạt kê, vốn hiểu biết nghèo nàn của họ bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Họ vênh vang tự đắc về những hiểu biết chỉ riêng họ mới có. Các lãnh tụ – những người độc quyền chân lý – bao giờ cũng dành cho họ những suất chân lý lớn hơn hẳn lũ thần dân dưới đáy. Nhưng không phải vì thế mà họ có hiểu biết khá hơn. Chúng tôi, những thần dân dưới đáy, muốn được hưởng những suất chân lý được đảng ban phát ấy thôi, cũng không phải dễ dàng. Không hiếm lần chúng tôi phải chầu chực ở nhà ông chủ nhiệm báo để được nghe ông nói lại những gì ông được trên phổ biến. Thông thường, mỗi khi có những sự kiện lớn hoặc chính sách mới ban hành thì Trung ương phổ biến cho cấp tỉnh, cấp tỉnh phổ biến cho cấp huyện, cứ thế chân lý của Đảng đi lần lần xuống đến người cuối cùng trong bậc thang xã hội, cứ mỗi bậc lại teo dần cho tới khi chỉ còn một câu ngắn tũn “Đảng đúng, chúng nó sai”.

Xã hội miền Bắc Việt Nam là một xã hội khép kín. Một lỗ thủng để dân chúng có thể nhòm được ra ngoài là sơ suất của ngành an ninh, là trọng tội đối với kẻ đã dám khoét cái lỗ thủng đó hoặc phát hiện ra nó để sử dụng. Mọi thứ sách báo nước ngoài đều là sách báo địch, mọi thứ đài nước ngoài đều là đài địch, trừ các sản phẩm văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa. Mà cũng không hoàn toàn như thế. Sau Đại hội XX ít lâu, thậm chí sách báo Liên Xô và các nước Đông Âu cộng sản cũng bị cấm nốt, cũng bị coi là những sản phẩm văn hóa độc hại[20]. Tin của Việt Nam Thông tấn xã cũng chia làm nhiều loại: loại thường, loại mật và loại tối mật. Loại thường là tin tức trong nước, tin nước ngoài được biên soạn lại cho các báo, cho sự sử dụng rộng rãi ở các cơ quan. Cán bộ cấp cao mới được đọc tin mật, hoặc tin tối mật. Tin mật và tối mật, không phải lấy từ kho tin tình báo mà lấy từ các đài phát thanh nước ngoài, là thứ bị cấm ngặt, dân thường không được nghe. Cán bộ cấp thấp, cấp cơ sở hoặc dân đen thì nghe loa truyền thanh cũng đủ. Người dân, không trừ cả giới trí thức, trí thức kỹ thuật hay trí thức nhân văn thì cũng thế, chỉ còn cách tự túc món ăn tinh thần bằng những câu chuyện ngồi lê đôi mách.

Ngu dân là chính sách không của riêng Việt Nam. Chỉ sau Đại hội XX người dân xô-viết mới được biết đến Giã Từ Vũ Khí của Ernest Hemingway, Chùm Nho Nổi Giận của John Steinbeck[21]. Đến cả thơ của Sergey Essenin[22] cũng bị cấm trong thời gian dài, người Nga chỉ được đọc thơ ông qua các bản chép tay. Vào năm 1957, khi thơ Esenin được phép xuất bản nhờ phép mầu của Đại Hội XX, trước mỗi cửa hiệu sách là những dòng người xếp hàng rồng rắn cả cây số. Tôi cũng phải xếp hàng cả nửa ngày để mua bằng được cuốn Bút Ký Triết Học của Lênin[23].

Ở Việt Nam kiến thức được chia thành hai loại: chính thống và phi chính thống. Người giám định văn hóa duy nhất có thẩm quyền là Đảng, hiện thân trong cái gọi là Ban Tuyên-Giáo, Ban Tuyên-Huấn, Ban Khoa-Giáo, Ban Văn hóa-Tư tưởng v. v… Những gì không được các Ban nói trên cho là chính thống thì nhân dân không được dùng. Cho nên những vụ đốt sách Victor Hugo, Shakespeare, Guy de Maupassant, Molière… đập đĩa nhạc của Beethoven, Verdi, Mozart[24]… được lặp đi lặp lại nhiều lần không phải chuyện lạ. Nhà cầm quyền không muốn nhân dân được biết những gì họ không muốn cho biết. Và ở đây, một nghịch lý nảy sinh: trong khi các lãnh tụ ngủ yên trên chức vị, thì nhân dân ngày một trưởng thành về nhận thức do sự học hỏi vụng trộm, còn các vị thì mỗi ngày một lùn thêm trong mắt họ.

– Tôi muốn hỏi bác câu này – tôi làm bộ rụt rè nói – Nếu bác cho phép.

Huỳnh Ngự cho phép:

– Được, anh cứ hỏi.

– Theo bác thì chừng nào tôi sẽ được về nhà với vợ con?

Huỳnh Ngự trợn mắt lên. Rồi lắc đầu:

– Cái nớ tui không trả lời được.

– Tại sao lại không trả lời được?

– Cái nớ phụ thuộc ở anh nhiều hơn ở tui. Căn cứ vào thái độ của anh mà Đảng sẽ cho anh về lúc nào.

Tôi tiếp tục dò:

– Theo tôi nghĩ, chắc cũng không lâu nữa đâu.

Huỳnh Ngự mở to mắt:

– Căn cứ nơi mô mà anh nghĩ rứa?

– Thì căn cứ vào quyết định của Đảng mà cấp trên vừa phổ biến đó. Đảng đã nói rõ: đây là mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân, Đảng không áp dụng luật pháp cũng như các biện pháp hành chính…

– Đúng vậy!

– Nhưng đó là đối với các đảng viên của Đảng thôi chứ! Tôi không phải đảng viên thì Đảng giữ tôi làm quái gì? Có phải không ạ? Đã không phải đảng viên thì lẽ đương nhiên tôi không phải chịu bất cứ kỷ luật nào của Đảng…

Huỳnh Ngự ngớ ra. Y không ngờ cách suy luận ngây ngô của tôi lại đưa y vào ngõ cụt.

– Vả lại, theo thiển ý của tôi, Đảng cho bắt đảng viên thế này cũng là vạn bất đắc dĩ, Đảng không nghĩ được cách nào khác nên mới làm như thế. Nó không đúng Điều lệ. Kỷ luật cao nhất đối với đảng viên chỉ có khai trừ là hết, không thể có chuyện bắt giam. Chẳng riêng trong Điều lệ của Đảng, mà với đảng phái nào cũng vậy.

Huỳnh Ngự bĩu môi:

– Anh lý sự gớm.

Tôi vẫn lì:

– Cho nên Đảng mới có quyết định vừa rồi. Thả ra là phải. Nếu các đảng viên còn được thả thì dĩ nhiên, là người ngoài Đảng, tôi phải được thả sớm hơn họ, cũng là lẽ đương nhiên…

Huỳnh Ngự lắc đầu:

– Cái nớ tui không dám khẳng định. Các hình thức kỷ luật của Đảng không phải là bất di bất dịch. Đảng luôn luôn linh hoạt trong đối sách, luôn luôn sáng tạo những hình thức đấu tranh mới, kể cả trong lĩnh vực đấu tranh tư tưởng…

Y đối đáp kể cũng giỏi. Y có cái lô-gích của y. Nhưng cách y phát triển lô-gích mới tài. Y bảo.

– Còn chuyện anh bị bắt cùng các đảng viên thì anh thử nghĩ coi, nghĩ kỹ chút thì hiểu liền à? Anh tham gia cách mạng từ lúc còn là đứa trẻ, đúng vậy không hè?

– Nếu tính cả những việc cha tôi và các bạn ông sai tôi làm hồi bí mật là tham gia cách mạng thì đúng thế… Còn nếu tính từ ngày tôi ăn cơm của cách mạng, lĩnh phụ cấp của cách mạng để làm việc cho cách mạng thì có thể tính từ năm 1946 khi tôi gia nhập một đội tuyên truyền xung phong ở Nam Định.

Huỳnh Ngự cười hì hì:

– Thấy chưa? Tui là tui nắm lý lịch anh rõ lắm. Anh đã ở trong hàng ngũ cách mạng từng ấy năm, từng ấy năm anh chiến đấu dưới lá cờ của Đảng, được Đảng giáo dục, bồi dưỡng để trở thành trí thức cách mạng như bây chừ, cho nên Đảng mặc nhiên coi anh như đảng viên. Anh phải lấy làm hãnh diện mới phải. Còn bây chừ có khuyết điểm thì Đảng lại giáo dục cho tốt lên. Sửa chữa xong khuyết điểm thời lại về với Đảng.

Ngụy biện đến nước ấy là cùng!

Tôi không cãi. Tôi còn ngịch ngợm đeo lên cho tôi cái mặt lạ xúc động nữa kia. Thử nghĩ mà xem, có thể nào không xúc động cho được khi Đảng dành cho mình vinh dự lớn đến thế! Nếu mang cái cuộc đối thoại kỳ cục đó nhào nặn thành một chuyện ngắn kiểu Azis Nesin[25] thì ắt hẳn phải đặt cho nó cái tên: Tôi Được Coi Như Đảng Viên Của Đảng Vĩ Đại Như Thế Nào?

Tôi không còn gì để nói nữa. Câu chuyện vãn cho một ngày làm việc đến đó kết thúc được rồi.

– Bữa ni có vậy thôi, anh về nghỉ. – Huỳnh Ngự đứng lên, vuôn vai nặn ra một cái ngáp thân mật – Quên, còn chuyện thuốc lá cho anh. Tui đã báo cơ quan anh gởi trà thuốc của anh vô, không hiểu sao chưa thấy gởi… Đợt cung cấp nầy hơi chậm. Cơ quan tui cũng rứa hà, bữa đực bữa cái, thời chiến mà… Anh cầm tạm bao này về hút cho đỡ ghiền.

Trong suốt buổi gặp gỡ, Huỳnh Ngự nhiều lần nhả khói thuốc về phía tôi nhưng không thấy phản ứng y muốn thấy. Bao thuốc để trên bàn, trước mặt tôi, không được tôi đụng đến.

– Cảm ơn. Tôi đã quyết định không hút nữa là không hút.

Huỳnh Ngự điềm nhiên bỏ bao thuốc vào túi.

– Còn việc này nữa! Anh Hoàn[26] sẵn sàng cho anh gặp. Anh có đề nghị được gặp anh Hoàn không?

– Không! Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có gì để nói với ngài bộ trưởng.

Cách gọi Trần Quốc Hoàn bằng “ngài” rõ ràng chướng tai Huỳnh Ngự, nhưng lần này y không bắt bẻ. Nếu cái gì cũng bắt bẻ, chắc y chẳng còn thời giờ nào làm việc với tôi về những chuyện khác.

– Tùy anh.

Chúng tôi chia tay, lần này không giống như hai kẻ thù, nhưng cũng không phải là hai người bạn.

Tôi trở về xà lim, lòng trĩu nặng. Bỏ ra ngoài tính chất bất cần đời pha chút tinh nghịch cố hữu đã giúp tôi sống qua mấy ngày tù đầu tiên, tôi thấy trước mặt một tương lai xám xịt.

Không thể nói trước cái gì sẽ đến với chúng tôi. “Xử lý nội bộ” chỉ là một cách nói. Họ chẳng dại gì mang chúng tôi ra xử công khai. Họ thừa hiểu chúng tôi là người thế nào. Họ sợ khi có diễn đàn chúng tôi sẽ dùng nó để vạch trần tội ác của họ trước quần chúng, vạch trần sự lộng quyền đã mang lại những tai họa cho dân tộc, cho đất nước. Cho dù sau đó pháp trường hoặc thủ tiêu.

“Con người là một sinh vật kỳ lạ. Chỉ mình nó thích nghi được với mọi hoàn cảnh”, Dostoevsky vĩ đại[27] đã nói như thế trông Hồi Ký Nhà Chết. Quả nhiên, rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống bị giam cầm. Nói quen thì không đúng, tôi dần thích nghi được với nó, hơn nữa còn thích nghi được một cách không đến nỗi quá khổ sở.

Tôi tự khẳng định rằng một khi đã sa vào tay bọn độc tài thì đừng hy vọng được chúng rủ lòng thương. Những tên độc tài ở mọi thời đại, mọi quốc gia đều giống nhau. Chúng hoặc là những tên vị kỷ đến cùng cực, trong trường hợp tốt hơn cũng là những tên cuồng tín thâm căn cố đế. Chúng sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng của người khác để thực hiện mục đích. Thảng hoặc cũng có những tên độc tài có công làm cho quốc gia trở lên thịnh vượng, trong một hoàn cảnh nào đó, một thời điểm nào đó. Nhưng những cái tưởng chừng là công trạng ấy chẳng che lấp được tội ác của chúng khi vinh quang được xây dựng trên những núi xác chết và những đại dương bi kịch.

Không thể so sánh bi kịch của cá nhân với bi kịch của một dân tộc, để nói rằng bi kịch của cá nhân không có ý nghĩa. Bi kịch nào cũng là bi kịch. Một con người cảm nhận bi kịch của nó cụ thể hơn sự cảm nhận của số đông về nỗi đau đớn chung.

Thành lồm cồm bò dậy đón tôi:

– Về sớm thế?

– Họ bảo đi thì đi, họ bảo về thì về. Anh có phải đi đâu không?

– Không.

Thành trả lời, tránh cái nhìn của tôi. Tôi cảm thấy anh lúng túng. Không hỏi thêm, tôi lẳng lặng về chỗ mình.

Nếu người ta bắt tên chỉ điểm gặp họ để báo cáo về tôi thì gọi y ra vào lúc tôi đi cung là tiện nhất.

– Ăn đi, cơm canh nguội ngắt rồi.

Thành bối rối đẩy suất cơm tù đến trước mặt tôi.

Tôi ngồi xuống, xếp chân bằng tròn trước khổ hình hàng ngày.


[1] Quà gia đình gửi vào cho người tù. Gọi bằng “tiếp tế” trong thời kỳ này rất sát nghĩa, bởi vì phần nhiều quà gửi vào là thực phẩm để cho người tù đỡ đói. Ở trong Nam nó được gọi là “thăm nuôi”.

[2] Tuto, một loại khoá rất phổ biến ở Việt Nam hồi ấy (đọc tuy-tô).

[3] Nguyễn Trung Thành (1913-2006), là một trong những nhân vật quan trọng trong vụ trấn áp nhóm "xét lại chống đảng".. Trong thư gửi Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, ông Trần Minh Việt (Lê Quang Dụ), phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chính Hà Nội, bị bắt ngày 18. 10. 1967 có viết: “Hai người trực tiếp tham gia vụ đàn áp này là ông Thành (nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Đảng, Ban tổ chức Trung ương) và ông Dương Thông (Bộ Nội Vụ)”. Dương Thông trong kháng chiến chống Pháp là trưởng quận Công an huyện Kim Sơn (Ninh Bình).

[4] Vào thời gian đó, thông thường khi người ta nói chống "chủ nghĩa xét lại" thì có nghĩa là chống Liên Xô (theo cách nói của Trung Quốc), khi người ta nói chống "chủ nghĩa giáo điều" có nghĩa là chống Trung Quốc (theo cách nói của Liên Xô).

[5] Lưu Thiếu Kỳ (1898-1969) khi đó là chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, chính trong thời gian này, được gọi là “đêm trước của Cách mạng Văn hoá”, ông đang bị Mao Trạch Đông âm mưu hạ bệ. Năm 1968, Lưu bị khai trừ khỏi ĐCSTQ, năm 1969 bị bỏ đói, người thối khắm và thở hơi cuối cùng trong nhà tù Khai Phong. Xem ra Lưu Thiếu Kỳ cũng là người rất trung thành với “tư tưởng Mao Trạch Đông”.

[6] Hà Minh Tuân (1929-1992), nhà văn. Trong kháng chiến chống Pháp, Hà Minh Tuân từng làm chính ủy đại đoàn 312, sau khi hòa bình lập lại, ông chuyển sang làm công tác xuất bản, giữ chức phó giám đốc rồi giám đốc Nhà xuất bản Văn học. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là cuốn Hai Trận Tuyến được khen ngợi, nhưng cuốn thứ hai Vào Đời thì bị phê phán nặng nề. Nhà thơ Xuân Sách viết chân dung Hà Minh Tuân: “Bốn mươi tuổi mới vào đời/ Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ”.

[7] Boris Polevoy (1908-1981) bị những lý thuyết gia cộng sản Việt Nam đập tơi bời về lập trường tính người chung chung. Không phải chỉ riêng Polevoy, nhiều nhà văn, nhà thơ khác của Liên Xô (cũ) và các nước cộng sản Đông Âu cũng bị phê phán dữ dội.

[8] Nói tắt: tuyên truyền và giáo dục. Ban tuyên giáo (sau này còn có tên là Ban Tư tưởng – Văn hoá) trong hệ thống tổ chức của Đảng cộng sản chiếm một vị trí rất quan trọng trong đảng và trong sinh hoạt xã hội. Nó đứng trên và chỉ đạo mọi ngành có dính dáng tới chữ nghĩa.

[9]. Những tác phẩm này bị các cơ quan tuyên giáo Trung Quốc, Việt Nam tấn công dữ dội. Đài phát thanh Bắc Kinh dành hàng tháng trời để phê phán chúng.

[10] Phạm Văn Khoa (1914-1992), biệt hiệu Khoa Tếu, hoạt động cách mạng trước 1945, nguyên giám đốc Quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh (1953), năm 1954 là giám đốc Xưởng phim truyện Hà Nội, rồi đạo diễn phim truyện. Ông thông thạo tiếng Trung Quốc (cả Quan thoại lẫn Quảng Đông). Có hai người thường được ông Hồ Chí Minh chọn đi dịch cho ông trong những cuộc đàm phán với phía Trung Quốc (cả Trung Quốc Tưởng lẫn Trung Quốc Mao) là ông Nguyễn Đức Thuỵ, biệt hiệu Thuỵ Tàu, và Phạm Văn Khoa, biệt hiệu Khoa Tếu.

[11] Nguyễn Chí Thanh, tên thật Nguyễn Vịnh (1914-1967), hoạt động cách mạng trước Cách mạng Tháng Tám, trong quá khứ là tá điền (theo tiểu sử chính thức), biết tiếng Pháp tuy không khá (theo nhà báo Bùi Tín). Những người biết Nguyễn Chí Thanh cho biết tiểu sử bần cố nông của ông ta là nguỵ tạo.

[12] Trường Chinh có một tập thơ được in trang trọng mang bút danh Sóng Hồng, Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) cũng có một tập, dùng chính bí danh Lê Đức Thọ.

[13] Khu vực ngõ Sầm Công (Hàng Bạc) của Hà Nội xưa có ba rạp hát, Hiệp Thành, Quảng Lạc và Sán Nhiên Đài, Quảng Lạc nổi tiếng hơn cả với các vở tuồng cổ, khi bước ra sân khấu các ông tướng với cân đai bối tử bao giờ cũng vỗ ngực xưng danh “Như ta đây… !”.

[14] Phù Thăng, tên thật Nguyễn Trọng Phu (1928), bút danh Phù Thăng là nói lái hai chữ “thằng phu”. Tác phẩm được biết đến nhiều là Những Đứa Con Nuôi Trung Đoàn, Phá Vây.

[15] Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng (tiếng la-tinh, lời cầu nguyện hàng ngày của tín đồ Thiên Chúa Giáo).

[16] Tiêu chuẩn hàng tháng cho cán bộ như sau: gạo 13,5kg, thịt 0,3kg, đường 0,5 kg, đậu phụ 1kg, vải 4,5m/ năm… : gạo thường được thay bằng ngô hoặc nửa ngô nửa gạo, thịt thường được thay bằng đậu phụ hoặc cá khô vv…

[17] Nguyễn Đình Thi (1924-2003), nhà văn, nhạc sĩ, nhà thơ, nổi tiếng với những tác phẩm văn xuôi Xung Kích, Người Chiến Sĩ, Con Nai Đen, Vào Lửa…,, ca khúc Bài Hát Của Người Hà Nội, Diệt Phát Xít… Tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh và bị thực dân Pháp bắt tạm giam ở Hà Nội và Nam Định.
Năm 1945, là Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Sau kháng chiến chống Pháp, Tổng thư ký Hội Nhà văn VN cho đến năm1990, rồi Chủ tịch Ủy ban toàn quốc của Hội Văn học nghệ thuật VN.,,

[18] Nguyễn Khải (1930), nhà văn. Trong kháng chiến chống Pháp chiến đấu trong hàng ngũ tự vệ ở Hưng Yên. Bắt đầu viết văn năm 1950. Nổi tiếng với nhiều tác phẩm viết về đời sống: Xung Đột, Mùa Lạc, Cha Và Con…

[19] Huỳnh Ngự lặp lại đúng câu chữ của thủ tướng Phạm Văn Đồng.

[20] Giới thạo tin kể rằng chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A. N. Kossyguin (1904-1981) trong một cuộc hội đàm với thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng (tôi không nhớ rõ năm 1964 hay 1965) đã hỏi thẳng về chuyện báo chí Liên Xô bị cấm bán. Thủ tướng Phạm Văn Đồng chối. Kossyguin đề nghị ngưng ngay cuộc hội đàm để cả hai đi cùng ra phố xem hư thực ra sao, thì Phạm Văn Đồng từ chối. Để giữ hòa khí với nước đàn anh, người ta vẫn mua sách báo Liên Xô với khối lượng lớn như trước, nhưng chở thẳng đến nhà các máy giấy ngâm cho rã rồi nghiền nát chúng thành bột giấy để tái chế.

[21] Ernest Miller Hemingway (1899-1961), nhà văn Mỹ nổi tiếng trong dòng hiện thực. John Ernst Steibeck (1902-1968), nhà văn Mỹ, giải thưởng Nobel văn chương.

[22] Sergey Essenin, nhà thơ trữ tình (Nga), rất nổi tiếng trong thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917).

[23] Cuốn Bút Ký Triết Học do nhà xuất bản Sự Thật phát hành lần đầu tiên bằng tiếng Việt chính là cuốn sách mà tôi mang từ Liên Xô về, ông Minh Tranh giám đốc nhà xuất bản đã mượn để cho dịch.

[24] Victor Marie Hugo (1802-1885), William Shakespeare (1564-1616), Jean Baptiste Poquelin Molière (1622-1673), Guy de Maupassant (1850-1893), Ludwig Van Beethoven (1770-1827), Volfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Giuseppe Verdi (1813-1901)… – các nhà văn, nhà soạn kịch, nhạc sĩ nổi tiếng thế giới.

[25] Azis Nexin (1898-1995), nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ, nổi tiếng trong độc giả Việt Nam với tập truyện Nếu Tôi Là Đàn Bà.

[26] Trần Quốc Hoàn, tên thật Nguyễn Trọng Cảnh (1916-1986), biệt hiệu Cảnh Con, bộ trưởng Bộ Nội vụ (tức Bộ Công an) vào thời gian xảy ra vụ án "nhóm xét lại chống Đảng".

[27] Fiodor Mikhailovich Dostoevsky (1821-1881), nhà văn nổi tiếng của Nga cuối thế kỷ XIX, tác giả Tội Ác Và Trừng Phạt, Thằng Ngốc, Anh Em Nhà Karamadốp vv… Mấy năm trước đó tôi có dịch cuốn Hồi Ký Nhà Chết theo kế hoạch Nhà Xuất bản Văn hóa. Bản thảo đã chuẩn bị xong, nhưng cuốn sách không được phép in vì Dostoevsky bị Maxim Gorky nhận định là “một thiên tài độc ác”. Bản dịch rồi mất tiêu.

Comments are closed.