Gió tự thời khuất mặt

Tiểu thuyết

Lê Minh Hà

clip_image002

Lê Minh Hà sinh tại Hà Nội  năm 1962

Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm Hà Nội 1 khoá 1979 – 1983.

Từng làm việc tại Trung cấp Sư Phạm Hà Nội, trường Phổ thông trung học Đan Phượng, trường Hà Nội – Amsterdam.

Rời Việt Nam từ 1994. Hiện sống tại Berlin (Đức).

Đã xuất bản:

Trăng góa (truyện ngắn – Thanh Văn  – Mỹ)

Gió biếc (truyện ngắn – Văn Mới – Mỹ)

Thương thế ngày xưa… (tùy bút – Văn Mới – Mỹ)

Những giọt trầm (truyện ngắn – NXB Quân Đội Nhân Dân)

Những giọt trầm và Thương thế ngày xưa… ( truyện ngắn và tùy bút -NXB Văn Hóa – Hà Nội)

Sâm cầm (truyện ngắn – in cùng Phạm Hải Anh – NXB Phụ Nữ – Hà Nội)

Gió từ thời khuất mặt ( tiểu thuyết – NXB Hội Nhà Văn – Hà Nội)

Truyện cổ viết lại (truyện ngắn – in cùng Lê Đạt – NXB Trẻ – thành phố Hồ Chí Minh).
Những gặp gỡ không ngờ (truyện ngắn – NXB Trẻ)
Phố vẫn gió (tiểu thuyết – NXB Lao động.)

Văn Việt: Với Lê Minh Hà, “gió” (Gió biếc, Phố vẫn gió, Gió tự thời khuất mặt) như là một biểu tượng quyền uy làm quay cuồng những hồi ức đầy ảo giác. Hồi ức nhuốm màu mệt mỏi, rệu rã thậm chí chán chường của cả một thế hệ bị đổ vỡ niềm tin, cay đắng đến tận cùng số phận. Đó là những số phận do chính con người sắp đặt trong một hành trình nhọc nhằn đến với tương lai đầy nghịch lý. Những dòng hồi ức của Ngân – nhân vật chính trong tiểu thuyết – không hẳn chỉ là ngược dòng thời gian tìm về một quá khứ đầy biến động của một thời tao loạn. Từ cuộc đời Ngân người ta liên tưởng đến thân phận của cả một cộng đồng. Hồi ức và những câu hỏi truy vấn về một thứ lịch sử ngụy tạo, nền văn hóa ăn theo và nhân cách bó khuôn trong những tín điều mê muội, từ sự đổ vỡ niềm tin đến không có niềm tin…luôn là nỗi trăn trở đối với người phụ nữ trí thức mà tác giả định danh là “người đàn bà – trẻ con”. Nét đặc trưng phong cách văn chương “Gió tự thời khuất mặt” là yếu tố triết lý kết hợp nhuần nhuyễn với chất thơ. Đọc “Gió tự thời khuất mặt”, người ta thấy tác giả đã chạm được vào nơi nhạy cảm nhất trong tâm hồn con người.

Dưới đây Văn Việt xin giới thiệu toàn văn (bản đầy đủ nhất) tiểu thuyết “Gió tự thời khuất mặt” của nhà văn Lê Minh Hà. Tác phẩm (không được đầy đủ) đã được NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2005.

Cho một Hà Nội nhọc nhằn mà dịu dàng, một Hà Nội thiếu mà vẫn đủ, những mùa xanh xưa chúng ta

Anh có thấy trẻ con chạy sau buổi tan trường trên phố ngập nắng?

Buổi chiều đông bớt lạnh

Những chiếc bóng nhỏ bé chạy xôn xao trên đường

Bụi bợn lên từ những gót chân ríu rít

Tôi có cảm tưởng chúng đang chuyển động trong một nhịp trống vô hình

một nhịp trống náo nức

Một ý nghĩ về hạnh phúc le lói rồi sáng bừng

Bầy trẻ nhỏ vô tư

Anh có thấy trẻ con chạy sau buổi tan trường trên phố ngập nắng?

1983 – Hà Nội

1.

Nơi ấy, con bé con trở thành thiếu nữ. Qua những tháng ngày đứt đoạn. Rồi thành đàn bà.

Nơi ấy xa rồi và người đàn bà – trẻ con nhớ mãi. Nhớ. Và biết rằng mình sẽ không tìm về. Nơi chốn là để đi xa quay về trong hồi ức. Nếu tìm về bằng bước mỏi, nơi chốn có còn thân thuộc nữa không?

Nơi ấy ngày xưa thơm mùi sen ổi là một ngõ vắng dẫn thẳng vào khu tập thể gồm phần lớn gia đình văn hóa mới, có chứng nhận đóng dấu phát hàng năm. Một cái cổng đồ sộ bằng sắt hàn hoa lá cành thường xuyên được gia cố, cánh nhỏ mở, ra vào tự do không kiểm soát, cánh lớn luôn khóa chặt giống như mọi cánh cổng liên quan tới những nơi quyền chức từ bấy đến giờ. Đã có lần một ông cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn Volga hứng chí cho anh lái xe nghỉ, tự mình ngồi sau tay lái đưa vợ tới thăm một người bà con sống ở đó. Anh thường trực cung kính nép bên cánh cổng nhỏ mời bà vợ oai phong lẫm lẫm vào, còn ông chồng cao cấp của bà thì được đá mắt hừm hừm kèm lời dặn: “Anh ngồi ngoài trông xe chờ đồng chí đây không nhỡ trẻ con nó tắt mắt thì chúng tôi không chịu trách nhiệm”. Cuộc viếng thăm đó đã trở thành một huyền thoại của ngõ, được kể tới tận bây giờ, khi mà cánh cổng cũ đã được tháo bỏ (có lệnh hay tự động thì cư dân không một ai biết). Ngày gặp mặt cán bộ công nhân hưu trí, ông thường trực cũ mắt đã đục đục, bộ complet si đa mua đâu đó trên mạn Quốc Tử Giám, giật giật mấy ngón tay ông bạn già hỏi thăm về ông khách cốp dạo nào. “Khổ! Nào tôi có biết. Thấy bà ấy bảo gì ông ấy cũng nghe, lại nữa là ông ấy tự lái xe… May gặp ông ấy không để bụng chứ hôm ấy thì tôi hoảng quá… ông ấy mất rồi à… Khổ…”.

*

Huyền thoại dĩ nhiên để nghe mà nửa tin nửa ngờ. Bọn trẻ bây giờ phóng xe ào ào vào ra cái ngõ chật hàng ngày theo châm ngôn “đi xe xịn là để người tránh chứ đâu phải để tránh người” không hoài hơi tìm hiểu những huyền thoại kiểu như thế, cũng như những điều kiện tinh thần vật chất làm nảy sinh huyền thoại, chẳng hạn sự tồn tại (không biết để làm gì) của một cái cổng có thật và một ông thường trực có thật một thời. Cũng có thật một thời: vườn hoa giữa khu tập thể, tiếng bóng chuyền vang rất xa những chiều hè đầy nắng, những bông sen với mùi hương có thể làm người ta đêm về bay lên được trong bóng tối dày đặc đầy hăm dọa bởi tiếng còi báo động quen thuộc mà bao giờ cũng đột ngột.

Không có ai từ nơi đó thúc nhau “đi đi đi đi”. Không có ai từ nơi đó gọi nhau “về đi về đi”. Người ra ra vào vào cánh cổng vô hình xưa, thân yêu thì hồ hởi chào nhau, hỏi giá mớ rau con cá vừa mua. Mà ghét nhau, vừa cãi chửi nhau thì cũng cố làm sao để “con mặt … kia … thằng mặt … kia” biết nỗi khinh bỉ đang chực bục ra, nhưng nếu có bục ra ở đây thì cũng không bị lên án là kẻ chấp nhặt và gây sự…

Người đàn bà – trẻ con đã đi đi về về bao nhiêu năm qua cái ngõ nhỏ đầy ứ chuyện vặt vãnh của thế gian này. Bên kia đường, trấn ngay trước cửa một nhà hộ sinh, cây đa già tỏa bóng xuống những bà ộ ệ đi vào và khép nép đi ra, nào khăn nào nón, đùm đùm gói gói, mặt mũi vừa võ vàng vừa bủng beo, nhưng mắt thì cứ sáng rực. Tia sáng đó thường chỉ thấy ở mắt người vừa sống lại. Không phải lúc nào họ cũng hớn ha hớn hở cái vẻ đàn bà ấy. Có những người đi vào một mình, đi ra một mình, mặt cúi gầm, bước dấn về phía phố và tia nhìn của họ không hòa được vào ánh ngày rất rực rỡ nơi này, khoan thủng mặt đất lầm lỳ, làm tim người đàn bà – trẻ con buốt nhói. Khi đó Ngân thường thu mình nhìn lên vòm đa cổ thụ, lắng nghe tiếng gió, giống như tiếng thở dài an ủi mà người đời có thể cho nhau.

Đã một lần, Ngân đã nhìn, đã ngóng một người con gái từ nơi ấy. Người con gái gầy guộc, mặt vàng như nghệ, ôm một bọc nhỏ cúi đầu bước ra khỏi cổng nhà hộ sinh. Cây đa già chao cả vòm lá trên đầu gọi gió. Tiếng gió lá rì rào, như một hơi thở nhẹ, êm dịu, bất thường vào cái ngày tháng bảy vừa sáng đã hầm hập. Cô gái ngửa mặt. Đôi mắt cô ứ đầy nước và cô mỉm cười. Từ bên đường bước vội sang một cô gái khác. Họ trao nhau cái bọc, từ đó thoát ra tiếng oe oe non dại. Họ dìu nhau đi vào ngõ, đầu ngẩng cao, bất chấp những đôi mắt từ các hàng quán hai bên ngõ chú mục. Có một bà nạ dòng từ trong đó lao ra giằng lấy cái bọc đùm đứa bé, chửi bới cô gái ầm ỹ. Một bà khác cũng lao ra. Hai người đàn bà trẻ chỉ né người, bình thản đi tiếp. Tại sao lúc đó người đàn bà – trẻ con lại nghĩ rằng con đường dẫn từ cái cổng chỗ mình đang đứng sang cái cổng bên đường rất dài, dài sang tới kiếp sau của mình và của họ.

*

Sống hết nửa đời, người đàn bà – trẻ con vẫn không tin hẳn được vào những điều linh thiêng vốn mờ mịt với con người. Cũng vì thế mà Ngân thường chả mấy khi để ý tới mùi hương khói sực nức quanh gốc đa già. Xứ sở này vốn chuộng những điều bí hiểm. Nếu không có thì người ta sẽ tự tạo. Nên đền miếu bị triệt từ năm này qua năm khác mà còn nguyên đó và giờ đang được thoăn thoắt trùng u, tôn tạo. “Thần cây đa ma cây gạo”. Bao nhiêu chiều hè đi rông ngoài phố, bọn Ngân đã lẻn ra sau gốc đa, tụt quần tè tồ tồ, rồi sau đó sợ mất mật khi bị bọn lớn hơn khuyên bảo một cách đầy nghiêm trọng. Nhưng ngay cả trong giấc mơ dễ bị hù dọa của con trẻ khi đó Ngân cũng chưa từng nhìn thấy vị thần đã lấy thân cây đa già làm nơi trú ngụ. Mà ma, có thật sao? Chỉ nhớ lâu lắm lắm rồi, năm sáu kế hoạch năm năm rồi, một đêm kia có người đàn bà mang đến đặt dưới gốc cây đa già một bọc nhỏ chỉ còn hơi âm ấm và hoàn toàn câm lặng. Nếu tính thời khắc theo giờ làm việc của rất đông người khi đó thì đấy là giữa ca ba. Những người quét đường còn đang rê chổi đoạn đầu phố, phải tảng sáng hoặc muộn hơn họ mới tới được nơi này. Người đàn bà ra đi không dùng dằng. Nhưng chị ta đã khóc, khóc nhiều lắm, trước và sau khi từ bỏ cơ quan mà chị ta đã làm việc mấy năm trời, khóc khi một mình lăn lộn bên rệ đê làng Thanh Nhàn, cái làng mà cư dân của nó khi đó toàn những kẻ cả đời không biết tới chữ thanh nhàn, khóc lúc tỉnh dậy thấy bên cạnh mình là đứa bé vẫn dính với mình bằng một sợi thịt da định mệnh. Chị ta sẽ còn phải khóc nhiều nữa, khi đã trở thành một bà lão bệ vệ và lắm của chìm, rất được ông chồng đang lên như diều thì bị về vườn sớm và những đứa con ngoan ngoãn giỏi làm ăn rất mực kính yêu. Nhưng đấy là chuyện của bây giờ. Còn lúc đó…

Ngân vừa nói chuyện ma. Đấy là một sự kiện trọng đại của cư dân trong và quanh quanh cái ngõ Ngân sống. Phải, nếu có thì con ma nhỏ đó nay cũng đã thành một ma luống tuổi. Đứa bé đó cứ lạnh buốt dần đi giữa những rễ cái và rễ con của cây đa già. Tảng sáng, lúc bà lão bán xôi thường ngồi sát tường nhà hộ sinh phát hiện ra thì đứa bé chỉ còn là một hình người bé bỏng bầm tím. Cái linh hồn bé nhỏ đó nấn ná hồi lâu quanh mấy cái tã cái chăn cũ cũ rồi bay lên lẩn vào vòm lá, nhìn xuống đám người đang lao xao thương cảm và chì chiết, buồn bã thở dài. Đấy là một tiếng thở dài kỳ dị, rất kỳ dị, không chứa ẩn một chút nào sự thoả mãn bé thơ. Đau đớn. Rồi nó bay đi. Không bao giờ nó trở về.

Nhưng mà từ đó dưới gốc đa bắt đầu một cuộc sống khác. Bà lão bán xôi đặt nơi thằng bé bị lỗi giờ sinh một bát hương. Những buổi sáng tiếp theo bà đều cắm vào đó một nén hương và đặt bên cạnh một bát xôi. Bát xôi đó, khi đã hết hàng, bà sẽ nhẩn nha gảy gảy tàn than và ngồi nhai chậm rãi cho đến hết trước khi cất gánh lên vai về nhà. Có vẻ như từ hôm đó bà thường bán hết hàng sớm. Không biết vì sao, một sớm kia bà thôi bán xôi, chuyển sang bán vàng hương, cũng ở chỗ đó, và bảo rằng thánh khiến bà. Thánh, theo cách giải thích rối mù mà hết sức đơn giản của bà, chính là đứa bé, nay đã được sung vào đội ngũ những ông hoàng.

Bà lão sai một thằng cháu đóng cái hòm gỗ, sơn đúng màu sơn quan tài loại ba mậu dịch bán căn cứ vào giấy chứng tử, chất đầy ở một cái phố nhỏ gần gần đó. Thằng cháu phát huy trí tuệ cho xứng với đồng bạc tương đương năm bát phở gà của bà, đóng đinh treo cái hòm lên thân cây, chỗ có cái chạc ba đầu tiên, thỉnh bát hương đã ấm chân vào đó rồi dùng vôi ăn cắp ở công trường gần nhà quét một vệt trắng lốp từ đó xuống tới gốc. Thật không ngờ rằng chỉ một cái hòm đỏ nhỉnh nhỉnh hơn tổ chim bồ câu như thế đủ để đánh thức lại cả một niềm tin tưởng ngỡ đã chết từ lâu lắm trong lòng dân chúng. Người ta đổ xô tới khấn vái, bát hương đặt cao quá không cắm được thì họ cắm hương thẳng vào mặt đất, giữa rễ cái rễ con. Những bà chửa đi đẻ thắp hương trước lúc còn chưa khóc mếu vì đau. Người nhà họ hớt hải chạy ra thắp hương khi những cơn đau kia đã tới mức bất bình thường. Những bà bán hàng trong cái chợ gần đó đều đặn khấn vái nhoay nhoáy trước lúc mở hàng. Những ông mặc thế sự xoay vần, cứ tiếp tục các lễ nghi cúng quảy để xin thánh thần đừng rời bỏ đất nước này mà đi hết. Người ta xin phù hộ và người ta lễ tạ, đông nhất là vào rằm mồng một, chen chúc nhau, huých mông thụi ngực nhau, lườm nguýt nhau trong khoảng cách từ gốc cây cho tới bờ tường nhà hộ sinh. Hoàn toàn công khai, bởi ngôi nhà sát nhà hộ sinh khi đó là một xưởng chế biến mì sợi và mỗi sáng bà chủ xưởng rất thành tâm vái gốc đa đều đều. Sau này, khi hết chiến tranh, bột mì viện trợ không còn và xưởng chế biến mì sợi phải đóng cửa, nhà xưởng trở thành trụ sở công an phường thì mọi sự cũng có khác đi. Nhưng còn lâu mới tới khoảng thời gian đó…

*

Một cách ngẫu nhiên, người đàn bà – trẻ con phát hiện ra mình luôn luôn khai không đúng địa chỉ. Cứ như trời xui, tất cả cư dân trong ngõ ai cũng như ai đều một mực nói mình ở CÂY ĐA NHÀ BÒ. Nghĩa là bên này đường. Nghĩa là ở trong nhà hộ sinh. Hình như Ngân đã đỏ hết mức có thể đỏ khuôn mặt mình khi đọc trong cái cười của anh bạn mới quen một sự nghi ngờ đùa cợt không xứng đáng. Đấy chính là dấu hiệu đầu tiên cho thấy mối quan hệ của họ không thể khai thông được, mặc dù cả hai đều trẻ, đều vân vân và nói tóm lại là đẹp đôi. Vào những năm tháng ấy không thể có chuyện một cô gái chưa chồng điềm nhiên đi qua gốc đa bước vào cổng nhà hộ sinh nếu không có một lý do chính đáng liên quan tới một người khác có lý do chính đáng để vào ra nơi đó: một bà chị ruột của mình hoặc của bạn, một bà chị họ, một cô em, hay bà mẹ (ví dụ thế) đi đẻ.

Thực ra thì cả khu tập thể của Ngân có cùng một số nhà, như mọi số nhà khác. Đấy là một trong những khu tập thể đầu tiên được xây dựng sau ngày hoà bình lập lại ở Hà Nội. Không phải là một khu dân cư chung chung mà là khu tập thể của một nhà máy. Ba dãy nhà cao tầng cách nhau những khoảng sân rộng thênh thang và những vườn hoa to như một góc công viên. Tất cả các căn phòng đầu tầng đều rộng gấp đôi các căn phòng khác. Theo như cách người ta hình dung về một cuộc sống chung đầy lý thú thì đó sẽ là nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân trong tầng, đọc sách chẳng hạn, đánh bóng bàn chẳng hạn. Trong những tiểu thuyết Liên Xô được hào hứng dịch và đọc thời ấy thì căn phòng đó sẽ được gọi là Góc Đỏ. Những cái cống lộ thiên chạy xung quanh mỗi ngôi nhà bao giờ cũng khô rang và không một cọng rác vào ngày nắng ráo. Ngày mưa, nước theo đó chảy ồ ồ xuống cống cái. Không bao giờ khu tập thể bị ngập, ngay cả lúc đầu kia thành phố dân chúng bì bõm lội trong nước dâng như lũ trên phố. Những cái ghế cho trọng tài ngồi thổi còi cầm chịch mỗi trận đấu bóng giao hữu giữa cư dân trong khu hay giữa đội bóng của nhà máy với các đội bóng khác trong thành phố luôn được gia cố. Hầu hết mọi nhà đều sống gần như cùng một nhịp ăn, làm, chơi. Cũng có đôi ba gia đình có một nhịp sống khác khiến mọi người vừa nghi ngại vừa ganh tị. Nhưng họ là thiểu số, một thiểu số hãnh diện song vẫn phải tìm mọi cách che giấu mình.

*

Cô gái mới vượt cạn một mình kia không thuộc thế hệ những đứa trẻ đầu tiên có mặt trong khu tập thể. Những đứa trẻ đó, sinh sau ngày hòa bình lập lại, lúc bố mẹ đang phấn chấn vì căn phòng tập thể mới được phân và tất cả có một đặc điểm chung: thường mang những cái tên trùng lặp và người ta phải phân biệt lũ trẻ bằng cách gọi ghép tên người sinh thành ra chúng. Rất nhiều Quyết, Chiến, Thắng, Hòa, Bình, Hồng, Hà, Quang; Minh, Nam, Trường, Sơn… Những cái tên không hề luôm nhuôm, còn nhuốm chút gì đó quê quê, song buổi chiều khi các ông bố bà mẹ cao giọng gọi con về tắm táp cơm nước là thấy đã hừng hực tinh thần thời đại.

Người đàn bà thuộc thế hệ trẻ con đó, thế hệ đã từng chứng kiến mà không hề biết cái phút quyết định sinh tử của cuộc đời cô gái vừa vượt cạn. Lúc cô mới chỉ là một mầm sống…

*

Buổi sáng – trong sương mù hiện ra những lá vàng non đầu tiên

Em có nhớ tình thu ngày xưa?

Ta vẫn nhớ tình thu ngày xưa

Không ai biết tình thu ngày sau

Trong không khí

Một chiếc lá vàng non nhói sáng.

2.

Đêm đã thở một hơi dài mát mẻ vào buổi chiều hè ít gió. Phố lên đèn. Những bóng đèn không có chụp lung lay trên những sợi dây điện chăng dọc ngang thành phố như một tấm mạng nhện khổng lồ. Thế nhưng khu tập thể vẫn âm thầm tối. Vẫn chưa có điện. Những người đàn bà đang chầu hẫu chờ đợi bên mấy cái máy nước công cộng nước chảy bé như đầu đũa rên rỉ. Thỉnh thoảng lại có tiếng ré lên của một bà nào đấy khi bị mấy ông tắm gần đó dội bắn nước vào. Bà gầy nhăng nhẳng than thở:

– Nóng bức thế này mà nhà ăn hôm nay không làm cho chảo nước rau muống luộc cho mát ruột. Cơm chiều mấy đứa nhỏ tha về, nhìn thấy bát canh bí đỏ đã bứ cả cổ. Chan húp trệu trạo được vài ba miếng là buông đũa.

Bóng tối chụp lấy mấy người đàn bà. Tiếng một cô tre trẻ:

– Em dặn con bé đặt nồi chè đỗ đen. Mà quên không đóng lò mùn cưa trước. Cháu nó tự làm, lỏng tay, nồi chè chưa nhừ lò đã sụp. Nó không biết tương ngay đường vào, thế là đỗ bị lại. Còn lạng đường ướt mua vội vàng hôm rồi sợ hết hạn. Đỗ một nơi đường một nẻo. Bỏ thương vương tội, cũng cố húp cho khỏi phí của trời.

– Còn không? Nhà này còn khúc đá. Tôi ủ mùn cưa chưa chảy hết đâu. Bảo nó sang lấy về mà ăn chè. Mùa này chỉ nước chanh hay đỗ đen đá là chơi được. Nóng thế này ăn gì cũng như nhai trấu.

– Không ăn được thì phải nằm. Nằm một lúc chiếu sũng mồ hôi. Bọn trẻ con thì thích lăn trên sàn đá. Nhưng mà chỉ mát được vài ba phút, xong rồi là có thoát được mồ hôi đi đâu đâu. Em bảo chúng nó rải cái chiếu mà không đứa nào chịu nghe.

Lại tiếng bà gầy nhăng nhẳng:

– Ừ, nhà này cũng thế. Chúng nó lăn khắp nhà chẳng màn chẳng chiếu. May mà nóng thế này muỗi cũng sơ tán đi đâu tiệt cả. Sáng dậy bước chỗ nào cũng rin rít bàn chân vì mồ hôi. Ngồi quạt cho con rã cả tay. Vừa đặt lưng nằm thì chồng lại…

*

Tiếng cười vừa phá ra bị ngắt nửa chừng bởi tiếng trẻ con bỏ dở cuộc chơi trốn tìm, ùa ra từ những miệng hầm công cộng chưa được lấp, chạy rình rịch, hố hố há há: “Ra xem bà điên hát. Bà Tam bị điên chúng mày ơi”. Lũ đàn bà buông những cái chậu đầy ụ quần áo đương giặt dở, nhìn nhau trong bóng tối mờ mờ, vặn lưng đứng dậy buông tất cả xoong nồi xô chậu rảo chân theo lũ trẻ về phía cổng. Đám đàn ông quăng gầu, độc quần đùi ướt huỳnh huỵch rẽ đám đàn bà xô nhau chạy trước. Phía ấy, phía cây đa già, vẳng lại một “Điệu ngâm”, rồi “Làn thảm”, rồi Sa lệch chênh, rồi lại cả “Đường cày đảm đang”(*) và “Quan họ”. Loạn xà ngầu. Rõ là cuộc biểu diễn của người hóa dại. Người đàn bà điên vắt vẻo trên chót vót, cười khanh khách, chới với gọi xuống: “Này chị em ơi…”. Điện bật sáng đột ngột. Những người đàn bà vội vã băng ngang phố, tụ lại dưới gốc đa già rướn cổ nhìn, tò mò, kinh ngạc và âu lo. “Đúng là chị Tam. Sao lại thế này trời ơi!”. Tiếng người đàn bà trẻ. Tiếng người đàn bà sồn sồn: “Vừa hồi chiều cô ấy còn đứng chia cơm ở nhà ăn tập thể cơ mà”. Những tiếng xì xào nửa thương cảm nửa ơ hờ lan trong đám người dở quen dở lạ đang phình dần ra dưới gốc cây. ”Thiếu vi ta min A đấy mà. Tôi nói đố có sai. Bây giờ có ông nào trèo được lên sờ nhẹ vào người bà ấy một cái là yên cả”. Tiếng cười ùng ục vang lên như tiếng nước mới đùn ra khỏi ống sau một thời gian dài bị mất. “Thì ông thử trèo lên. Nói thế là đầy mình kinh nghiệm rồi…”. “Mẹ mấy ông này. Nói thật lại tưởng là đùa nhả. Hồi tôi ở bộ đội, đàn bà con gái bị đầy. Tự dưng khanh khách cười nửa ngày không dứt. Tự dưng khóc rũ rượi như bị ma làm. Nằm co quắp cứng đơ. Cứ ông chính trị viên vào đặt tay lên người một cái là thở bình thường, ngủ dậy lại đâm đầu đào bới gỡ bom phá đá như điên…”. Đám người cứ đông dần lên, nhưng dần dần lặng phắc. Chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thì thào: “Đừng làm cô ấy sợ nhỡ nhào xuống thì chết”. Một cô gái trẻ nói với lên như khóc: “Xuống đi chị Tam ơi. Về nhà đi tắm đi… em hứng cho chị hai xô nước đầy rồi. Về nhà hát. Về em quạt tóc khô cho. Về nhà đi mai còn đi làm…”. Người đàn bà vẫn khanh khách cười vẫn vẽo vọt hát từ cái chạc ba cao chót vót, tóc đổ dài bay rờn rợn trong cơn gió đêm vừa mới nổi. Bài hát về một cây trúc xinh đứng một mình vẫn xinh. Bài hát về bèo dạt mây trôi và những nỗi lòng dang dở. “…Đôi ta thương nhớ í i … biết bao giờ… lại nhớ tới người… ra sông lại nhớ tới người chứ xuống sông… xuống sông gánh nước.. í i…”. Đám đông chợt mê đi. Chưa bao giờ họ nghe người đàn bà nhỡ thì này hát. Sâu lắng. Vời vợi. Đượm một nỗi gì giống như là hạnh phúc. Và cảm giác ấy thành quái gở khi người đàn bà thốt nhiên ngưng giữa lời ca, khóc khóc cười cười, không ai để ý người đàn ông vừa tới cùng đồng chí trưởng công an khối.

– Nào bà con ta giải tán. Giải tán! Khẩn trương! Về ngủ mai còn đi làm. Bọn oắt con này… đằng sau quay… chạy!… Nào bà con mình rẽ ra cho chúng tôi làm việc…

*

Đám đông ồn ào trở lại. Người đàn bà hoá dở lại hát váng lên. Trẻ con cứ như cóc nhảy ra rồi lại nhảy vào. Cái giọng Nghệ của anh công an nói bình thường nghe cũng ra khẩn cấp mà chẳng có tác động gì. Thế mà người đàn ông vừa cất tiếng là mọi người xì xào nhỏ dần rồi theo nhau rời gốc cây. Người đàn bà trên cành cao cũng ngần ngừ im tiếng.

Người đàn ông nói giọng Nam Bộ nghe nhỏ nhẹ. Mọi người trong khu tập thể ai cũng biết ông. Độc thân. Phó giám đốc nhà máy. Ở một mình một phòng nhỏ sửa lại từ cái nhà tắm ở tầng một. Dân tập kết mà không bia rượu, không ăn mắm sống. Nhiều khách và nghe nói vợ con còn trong kia. Mấy anh cán bộ tổ chức hành chính, ông bác sĩ rể của nhà máy, mấy người đàn ông năng nổ và đồng chí công an xúm vào nhau, vung tay vung chân rồi đồng loạt quay sang ông Thản:

– Làm thế nào bây giờ anh? Trèo lên thì trèo được. Nhưng sợ nhỡ ra chị ấy hoảng nhảy thẳng xuống đất thì…

Anh công an hộ khẩu khum hai bàn tay làm loa hướng lên người đàn bà dở tính:

– Chị Tam ơi xuống đi, xuống rồi có chuyện gì thì đề đạt với các đồng chí có trách nhiệm. Xuống đi chị… Có gì mà phẫn…

Anh cán bộ tổ chức của nhà máy gạt ngang:

– Sao đồng chí lại nói vậy. Ai làm gì mà chị ấy phẫn. Chị Tam xuống ngay. Có gì thì phản ánh chúng tôi giải quyết!

Người đàn bà điên đung đưa đôi chân, vuốt mớ tóc dài về đằng trước, khe khẽ cười, khe khẽ khóc, rồi lại hát váng lên. Tiếng hát giờ khản đặc. Ông bác sĩ đứng nghiêng người nhìn xuống bàn chân lắng nghe…

*

Ông bác sĩ đến gần ông Thản:

– Anh Thản này! Tôi nghe như chị này giả dại đấy thôi. Nhưng cũng là vì đầu óc căng thẳng lắm. Không biết chuyện gì. Thường ngày ở cơ quan anh chị ấy làm gì… Làm nhà ăn à? Hay là có chuyện chấm mút gì bị vỡ lở…

Người đàn bà điên đã chuyền cành xuống gần chỗ hai người đàn ông đứng, bất chợt cười phe phé, và lại tiếp tục vẽo vọt những lời ca vờn quyến thê thảm. Ông Thản lắng nghe, cố đè nén xuống đáy lòng một nỗi xót thương sâu xa. Ông không biết vì sao người đàn bà lại dở ra như vậy. Chỉ mới chiều nay chị ta còn đứng chia cơm trong nhà ăn. Chị ta bao giờ cũng ý tứ xới cho ông một ga men cơm vơi vơi, nhưng lại gia thêm thức ăn hay chút nước thịt kho vào cái nắp ga men. Chị ta không mấy lúc bắt chuyện với ai. Nhưng chăm làm đúng kiểu một cô nhà quê vừa được thoát ly. Suốt mấy năm rồi chị ta là chiến sĩ thi đua của nhà máy. Cũng cảnh cơm tập thể như ông. Có lần bên bể nước, ông thấy chị ta nhặt mớ rau và vo một rá gạo con, cười ngượng nghịu lúc mọi người trêu chọc về nỗi người làm bếp ăn tập thể lại chê cơm tập thể.

– Dạ… em.. nhà có ông anh họ…

– Thế không phải là ông anh ruột à? Anh liền ruột ấy mà. Nghe phong phanh cô có… Này, cứ tìm cha nào xa vợ mà tấn công áp sát. Tiếc gì cái mác chiến sĩ thi đua. Gỡ gạc lấy đứa con cho cửa nhà đỡ quạnh em ạ. Mới lại phòng khi về già…

Bà có tiếng bỗ bã nhất cười hơ hơ nửa châm chọc nửa thành tâm khuyên bảo. Khi đó ông Thản đã lặng lẽ xách xô nước bước lùi. Lòng ông đau nhói. “Có hẳn đàn bà cứ phải tầm ruồng đàn ông chỉ để kiếm một đứa con?”. Về phòng, ông Thản buông phịch xô nước ngoài cửa, ngồi chết lặng như một gốc cây khô. Ông nhớ đôi môi mềm ấy, làn da nóng ấy, đôi mắt ấy. Hừng hực và lấp lánh trong bóng mờ căn phòng không bao giờ tối hẳn bởi ánh sáng ngọn đèn đầu đường hắt chéo vào. Người đàn bà ấy ông đã bao năm theo đuổi, đã cưới về, đã có với ông hai mặt con trước ngày ông ra đi, đã chỉ nhìn ông ứa nước mắt. Vợ chồng ông buổi đó không nói lời hẹn thề. Nhưng mà ông tin cậy vào những năm chung sống. Sự ngu ngốc của đàn ông! Nhưng có hẳn là như thế! Khi mà khoảng thời gian chia xa đã không phải là hai năm, đã là mười hai năm…

*

Những người đàn ông đứng bối rối và bất lực dưới gốc đa. Ông Thản lên tiếng, quả quyết và điềm đạm:

– Thôi các anh cứ về ngủ mai còn công việc, để tôi đứng đây chờ chị ấy xuống.

Anh công an hộ khẩu trẻ mừng rỡ vì được giải thoát ra khỏi công việc bó tay bó chân này, nhưng cũng có phần lúng túng:

– Vậy thì hay rồi. Tôi về qua đồn một chốc rồi lại nhảo ra. Mà có điều gì gấp rút thì đồng chí chạy qua chỗ tôi…

Phố vắng dần. Vào khuya. Ông xích lô vẫn chực khách trước cổng nhà hộ sinh đã vắt mình lên yên kẽo kẹt đạp đi. Ông Thản đứng lặng lẽ dưới gốc cây, tiếc đã không hỏi ông xích lô hút nhờ một điếu thuốc lào cho bớt cơn thèm một hơi thuốc lá bất chợt khô ran lồng ngực. Gió đêm rờn rợn quẩn trong vòm lá. Người đàn bà điên im lặng, lầm lũi tuột dần xuống. Ông Thản lặng lẽ giơ tay. Người đàn bà đổ nhào vào ngực ông, nức một hơi khan, âm thanh khản đặc:

– Em khổ quá.

Không biết vì sao ông Thản lại nói như mình biết cả:

– Đừng dại dột em ạ. Em không tội tình gì…

*

– Anh bảo em làm sao bây giờ? Không chồng mà chửa. Nhục nhã thân em đã đành. Còn mang tiếng cả nhà máy. Biết làm sao bây giờ.

– Đừng oán hận người ta cô ạ. Có phải là lúc ấy cô cũng đã hạnh phúc rồi không? Đừng băn khoăn miệng tiếng người đời. Trẻ con không có tội gì. Mà nếu cô quyết… thì tôi sẽ trao đổi với ban phụ nữ nhà máy xem có cách nào… Chỉ có điều ta phải cùng nghĩ cho kỹ. Biết đâu đứa trẻ không phải là nguồn cơn khổ sở…

Người đàn bà đổi thế ngồi, vén gọn mái tóc rồi chậm chạp búi lại:

– Anh nói phải. Nếu em bỏ cháu, miệng tiếng người đời em cũng vẫn không ngăn được. Đã chắc gì để mà trông đợi vào duyên muộn. Chỉ có điều em sợ… Nhà máy sẽ không kỷ luật em chứ anh? Anh nói hộ em một câu. Tội nghiệp. Giờ mà em bị đuổi… Đã thoát ly rồi mà phải đâm đầu về quê, ruộng đất vườn tược không, nhục thân em đã đành, cả nhà em nhục. Sinh cháu ra để cháu bị sỉ vả bêu riếu từ trong nhà ra ngoài làng, thà rằng em lại trèo lên cây đâm đầu xuống…

Người đàn bà cố trấn áp nỗi sợ trước cái nhục thứ hai, nếu tính cách trục mầm sống ấy ra khỏi thân mình. Sẽ còn phải lâu lắm kể từ ngày ấy những phụ nữ lỡ làng như chị mới có thể tự do đi vào phòng sinh đẻ có kế hoạch ở các bệnh viện phụ sản, đóng tiền, nhận một cái tích kê, rồi mấy tiếng sau yên tâm ra về trong cảm giác vừa nhẹ nhõm vừa đau đớn vừa cắn rứt. Không có một tờ giấy cam đoan của một người chồng cho phép chị làm điều ấy, chị sẽ phải xin giấy chứng nhận ở cơ quan, sẽ phải chịu đựng đủ kiểu nhìn như muốn lột da rút xương của những người quen người lạ. Chị đã từng biết điều đó, không hẳn là người trong cuộc. Nhưng tuyệt nhiên không phải là kẻ đứng ngoài. Mãi mãi chị không quên nổi buổi chiều ấy, buổi chiều chị vừa tròn mười tám tuổi, buổi chiều chị rơi tõm vào trong nỗi đau đớn không cùng tận của đời đàn bà.

Vì đã nở mấy hôm

vì mưa xuân

và gió xuân

những cánh đào phai

nhẹ nhàng rơi xuống đất

Bên những gốc đào xưa dòng – sông – thời – gian

đi qua đời thật chậm,

như ngừng trôi.

3.

– Ối giời chị Phận. Tưởng chị hôm nay đi chợ Thá. Em đang dở tay làm cỏ. Chị vào nhà… U em trong buồng. U ơi, chị Phận đến chơi đây này.

Người đàn bà kéo nón, múc nắng tạt mặt. Đuôi mắt dài giấu cái nhìn rừng rực và làn môi nhợt nhạt. Thời mỏng mày hay hạt, thời má đỏ môi hồng, thời ngồi trên hè chằm nón thỉnh thoảng nhìn ra sân nắng cười một mình của chị đã tàn héo từ lâu, từ lúc tiễn chồng đi B rồi suýt chết vì đẻ non ngay buổi tối xã làm lễ báo tử một loạt chín anh trai làng. Từ ngày đó, Phận quần quật làm, thôi không chằm nón nữa mà đi buôn nón những ngày việc đồng áng vãn. Chị hay qua nhà Tam, nhìn con em họ vai cứ tròn dần, má cứ ửng dần, tóc cứ bóng dần, thở dài bảo bà Nhị:

– Thím đừng bắt nó lấy chồng sớm. Chả giai làng thì giai thiên hạ. Hiếm gì. Như cháu đây, nói thím đừng cười, đến cái hơi chồng có muốn nhớ cũng không nhớ nổi. Thì thím bảo cưới được có mấy ngày. Người làng người nước cả. Bố mẹ cháu nhận lời thì cháu cũng gật. Biết gì đâu. Chúng cháu chả được như chú thím.

Bà Nhị cười. Bà cũng cảnh vợ liệt sĩ từ khi còn trẻ. Cũng bao đêm nghiến răng nằm không dám mộng, không dám đặt bàn tay lên chính thịt da mình, từ chập tối đã thu vén con dao bầu đặt đầu giường. Nào phải để phòng ai. Phòng chính mình thôi. Nhưng bà biết mình khổ ít hơn người cháu họ của chồng. Ông bà mê nhau thật. Lại nữa bà không vướng bận gì nhiều với gia đình nhà chồng. Ông Nhị con độc, các cụ qua đời sớm cả. Đến tuổi này, nghe cô cháu họ của chồng than vãn, bà Nhị mới giật mình. Giá không thương nhau đến vậy, giá không từng mê nhau đến vậy, đến nỗi sự vui vẻ trang nghiêm goá phụ của bà đã làm nhụt tất cả ý chí tán tỉnh của đàn ông thì chẳng biết bà có giữ mình khó hơn không?

*

Bà Nhị cầm con dao bài rọc lá trầu mà tay cứ run bần bật:

– Việc đến thế rồi hả cháu. Mày định sao bây giờ. Mà sao dại thế, đã chồng đã con rồi, cũng phải biết giữ thân. Nhẽ nào… Ai lại để tới tận giờ mới tính. Vỡ chuyện ra thì mày chỉ có nước chết với nhà nó.

– Cháu chả sợ thím ạ. Ông Trác ông ấy đang ngõi ghế chủ tịch xã, đố dám làm ầm lên. Xấu mặt cháu thì hổ mặt ông ấy thôi mà. Ông ấy rên ầm ầm. Những là tôi tưởng thím lòng gang dạ sắt thờ chồng. Bao nhiêu đàn bà góa đàn bà ế, được cái danh vợ liệt sĩ là hơn thiên hạ đủ đường. Cháu mới bảo thế này, thế thì bác gái có lẽ cũng mong cái danh ấy lắm. Sao ngày ấy bác đẩy nhà em nhập ngũ ở nhà làm ông xã đội trưởng quèn. Bây giờ bác làm phó chủ tịch xã rồi, to chuyện rồi, em mới đến thưa chuyện với bác. Chứ bác vẫn chỉ là ông xã đội, em chẳng dám. Bà vợ ông Trác phủi đít đứng dậy bảo cháu gái đĩ già mồm. Thím xem, cơm no bò cưỡi người ta chửi thiên hạ dễ thế đấy.

– Thế thằng Trác bảo sao?

– Ông ấy đi ngay ra ủy ban, cấp giấy cho cháu đi phá. Cháu đã định liều… Lớn bé gì thì nó cũng là người… Cháu sợ mang tội với giời thím ạ. Nhưng ông ấy nói như van:” Thím ơi, thím làm thế chết tôi chết cả họ nhà này không ai ngẩng mặt lên được. Thím nghe tôi thì tôi coi thím vẫn là người trong nhà trong cửa…”. Cháu ngồi cười thím ạ. Thím xem thời buổi… Giời xa cũng không dám sợ hơn sợ người gần…Chả hiểu ông ấy đả thông bà vợ thế nào mà bà ấy mang ra cho cháu gần trăm bạc với hai thúng gạo nếp với lủng củng những gì gì nữa cháu cũng chả nhòm. Cháu bảo phắt bà ấy mang về.

– Mày định thế thật hả Phận? Cháu ơi người chửa cửa mả. Không dưng động dao động kéo vào người. Mà cái thằng mặt dày ấy là thằng nào?

Chị Phận cười nhợt nhạt:

– Thằng nào mà chả như thằng nào hả thím. Thằng nào lúc ấy mà chả luồn chả cúi chả như trâu húc mả. Thím bảo thời buổi loạn này, thằng nào ở nhà không đui què mẻ sứt chân tay thì bụng dạ cũng toàn rắn rết. Lúc ấy cháu chỉ nắm độc cái ý của nó thôi mà. Có khác gì nhau đâu.

*

Tam không nghe được câu chuyện buồn thảm của mẹ và chị. Bà Nhị gọi cô gái vào, chẳng nói gì nhiều, chỉ dặn dò:

– Chị Phận phải đi bệnh viện. Mày để tất cả đấy cho u. Đi thu xếp quần áo theo chị lên viện xem có đỡ gì được nhau không. Cầm lấy chục bạc này, vài hôm nữa làm xong cỏ vườn thì u lên nếu chị em chưa về được. Có lọ vừng u mới giã hôm kia cũng cầm luôn theo. Mà chị có thèm ăn gì cũng không được mua bán lung tung, chỉ được cơm với thịt rang, cùng lắm thì mua cái bánh giò.

Người con gái vô tư:

– U buồn cười, người ốm mà lại bắt ăn kiêng thế thì nóng ruột chết. Cũng phải tấm mía múi bưởi chứ lại, rồi bát canh khúc cá. Em sẽ mua cho chị. Em có tiền riêng, không cần tiền u em. Mà chị bị gì phải đi viện gấp thế, sao em chả nghe nói trước gì.

Bà Nhị nạt “bé bé cái mồm tôi, mày thì biết cái gì” rồi quay sang cô cháu, nghẹn lời:

– Phải giữ mình con ạ. Sao tao lo quá, lo còn hơn hồi mày đẻ con Ngần. Cố chịu đau chịu đớn kiêng khem cho kỹ rồi về chừa đi cháu ạ.

Phận cúi mặt, nghẹn ngào:

– Thôi nói làm gì trước hả bà. Con đi chuyến này, chả nghĩ đến mình, chỉ những thương con Ngần. Nó quặt quẹo từ ngày mới đẻ. Đã nhà quê, đã mồ côi, lại không xốc vác, mai sau biết làm gì đút miệng.

Tam là người duy nhất trong ba người phụ nữ không nghĩ rằng những lời đó sao mà sái. Nhưng cả bà mẹ và người chị họ cũng không hề nghĩ rằng chỉ hôm sau đã phải để tang nhau.

Người rằng con nhện giăng mùng

Ta biết nói sao

Đêm ta mơ

Dòng sông thành Autobahn

Những chiếc ô tô lao điên cuồng trong tối

Người rằng đò đầy chớ qua

Ta biết nói sao

Thăm thẳm trời xanh, ngày mây trắng

Tuyệt vọng đường về.

Chú thích

* Ca khúc của An Chung

Comments are closed.