Tô Thùy Yên

Vũ Thành Sơn

Li trn tình:

Bài viết này nhằm mục đích tưởng niệm thi sĩ Tô Thùy Yên vừa từ trần, nó có những dữ liệu về năm tháng chưa được kiểm chứng đầy đủ vì thiếu tư liệu. Vì vậy, người viết đề nghị độc giả nên đọc bài viết này như một cảm nhận cá nhân về thơ Tô Thùy Yên hơn là một bài nghiên cứu về ông. Người viết hy vọng sẽ trở lại đề tài này khi đã có đủ trong tay tư liệu.


Có những thi sĩ của chỉ một bài thơ, hay “thi sĩ của những bài thơ hắn đã làm”[*], thậm chí có thể có thi sĩ của cả một dân tộc (Nguyễn Du, chẳng hạn), cho dù cả hai trường hợp này không nhiều. Hầu hết, tôi muốn nói số đông, các thi sĩ thường là thi sĩ của một trường phái hay một dòng thơ, nơi họ có thể là những đại biểu xuất sắc của trường phái hay dòng thơ đó bằng chính những tác phẩm mà họ ghi dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển văn học. Ví dụ khi nói đến dòng Thơ Mới ở Việt Nam, người ta sẽ nhắc đến một Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Huy Cận,…Hay nói đến thơ tự do, người ta không thể không nói đến Thanh Tâm Tuyền mà ảnh hưởng của thơ ông cho đến nay vẫn còn sâu đậm.

Nhưng thi sĩ của một thời đại thì hiếm, rất hiếm; nghĩa là người, với thơ của mình, đã trở thành biểu tượng, người phát ngôn của chính thời đại mình. Tô Thùy Yên chính là một trường hợp hiếm hoi đó.

Thật vậy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tô Thùy Yên không sáng tạo, không lập ngôn cho một trường phái hay dòng thơ cụ thể nào; ngược lại, không ít bài thơ của ông thậm chí còn có thể coi là khá cũ về phương diện hình thức nếu so với Thanh Tâm Tuyền hay nhiều thi sĩ cùng thời. Tuy vậy khi đọc toàn bộ thơ của ông, cái chúng ta dễ dàng bắt gặp xuyên suốt trong đó chính là khuôn mặt, là hơi thở, tiếng nói của một thời đại, một thời đại bi thương nhất, đầy máu và nước mắt nhất trong chiều dài lịch sử dân tộc.

Không chỉ riêng thơ, cả cuộc đời của ông đã hầu như gắn bó máu thịt cùng với thăng trầm của lịch sử một thời đại, từ những mất mát, bi thương trong chiến tranh cho đến những “cơn đau ầm ĩ” lúc đất nước đã hòa bình. Có thể mượn lời của một nhân vật trong vở kịch Suddenly Last Summer của Tennesse William để nói về Tô Thùy Yên, “Đó là điều tôi muốn nói khi tôi nói rằng tác phẩm của một thi sĩ là cuộc đời của thi sĩ – ngược lại, cuộc đời của một thi sĩ là tác phẩm của thi sĩ, ông không thể tách rời chúng.”

Cũng từ một viễn quan đó, chúng ta hoàn toàn có lý do để nói Tô Thùy Yên là thi sĩ của thời đại, “người chép sử tương lai”, như ông gọi.

Hành trình thơ của Tô Thùy Yên trải qua những giai đoạn sáng tác khác nhau rất rõ rệt. Sự phân kỳ trong sự nghiệp sáng tác của ông tương ứng với từng giai đoạn trong cuộc đời cá nhân và điểm cần nhấn mạnh ở đây nữa là, nó phản ánh từng giai đoạn phát triển lịch sử, xã hội nhất định của miền Nam Việt Nam.

Một cách khái quát giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tô Thùy Yên tương ứng với thời kỳ sau cuộc di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc năm 1954 và nền Đệ nhất Cộng Hòa Nam Việt Nam đang trong thời kỳ xây dựng nền tảng, cũng là giai đoạn tạp chí Sáng Tạo, một trong những tạp chí văn chương đầu tiên ở miền đất tự do. Những người làm văn chương tự do nói chung và nhóm Sáng Tạo nói riêng, đang ở vào giai đoạn khám phá, xây dựng một nền văn chương mới, tự do, nhân bản, đề cao sáng tạo cá nhân. Chúng ta dễ dàng bắt gặp trong giai đoạn sáng tác này của Tô Thùy Yên những bài thơ tự do, mới mẻ về ngôn ngữ, đề tài, viết về tình yêu, phận người, về sứ mệnh của thơ, của thi sĩ. Đó là giai đoạn của Thi sĩ, Thân phn thi sĩ, Cánh đồng Con nga Chuyến tàu, Ltn phong tình yêu, Tdo…, trùng hợp với thời kỳ Tôi không còn cô độc của Thanh Tâm Tuyền.

Cô đơn bng Thượng đế,

Yếu đui như linh hn,

Làm sao tôi trèo lên

Vc thm t bn tho

Trng im lìm giá băng.

(Thân phận thi sĩ)

Khi tình hình chính trị, xã hội của Nam Việt Nam bắt đầu có những biến động bắt đầu từ những năm 60, thơ Tô Thùy Yên chuyển sang một giai đoạn khác. Không còn những câu hỏi về sứ mệnh của văn chương, của thi sĩ; không còn những nghi vấn trừu tượng về thân phận, tình yêu mà trong thơ của ông, người ta bắt gặp đã có những trăn trở, khắc khoải về thời cuộc, về tương lai phía trước.

Hãy đọc lại bài thơ tiêu biểu dưới đây của ông mở màn cho giai đoạn này để nhận diện lại lịch sử của một thời đại biến động.

TÔI LÊN TIẾNG

Hãy ra nhìn máu chy ngoài đường

PABLO NERUDA

Tôi gt đầu trước mt ái tình

Như mt loài c ngoan vâng li gió dy

Kìa máu chy ngoài đường

Kìa máu chy

Tôi ra gia công trường ct tiếng kêu oan

Nhân loi ngây thơ đời đời chu ti

St đỏ cày nhăn trán mn màng

Lúa đầy đồng người gt thiếu ăn

Chúng nó đòi th tiêu thi sĩ

Tôi là thi sĩ tôi yêu

Chúng ta góp tay đẩy đời đi tròn

Hi nhng người ch dám khóc trong gic mơ

Tôi đáp li bình minh tui tr

Được nhìn mt tri sung sướng thay

Chúng ta cười trên môi bng hu

Trong mi bài thơ phi có nhng danh t

Cách mng hoà bình t do nhân đạo

Ngun đây thì bin cũng gn

Chúng ta yếu hèn chúng ta thng trn

Tôi chào mng thế k ra giêng

Bui chiu đỏ

Không khí đầy hơi th khó khăn

Chúng nó hành hình th tiêu ám sát

Tôi là mt người là mt đám đông

Dấu vết của giai đoạn sáng tác trước vẫn còn nhưng chân dung của một giai đoạn lịch sử bắt đầu được ghi tạc, không phải bằng niên biểu thời gian và số liệu, mà bằng những đường nét chính của nó: bạo lực, bất công, áp bức, nô lệ, thủ tiêu, ám sát… và thủ phạm cũng bị điểm mặt: chúng nó. Chiến tranh chưa xuất hiện, nhưng bóng ma của chiến tranh đã thấp thoáng đâu đó rất gần. Cần nói thêm một chút về bối cảnh bài thơ ra đời: bài thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Sáng Tạo vào những năm cuối cùng của thập niên 50, có lẽ cũng cùng một thời kỳ với bài thơ Hãy cho anh khóc bng mt em nhng cuc tình duyên Budapest (1956) của Thanh Tâm Tuyền. Hai bài thơ đều có cùng một không khí bạo lực, cùng khung cảnh diễn ra trên các đường phố, và chúng nó, một lần nữa cùng bị chỉ mặt.

Chỉ đến năm 1959 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 15 phát động chiến tranh tại miền Nam Việt Nam, và đến năm 1963 khi Tô Thùy Yên tham gia quân đội, chiến tranh chính thức xuất hiện và mới bắt đầu lộ diện qua các sáng tác của ông.

Tiếp tế khó đôi ln phi lc

Trên người bn gc đạn mươi viên.

Di tn khó sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bn nín rên.

Người chết my ngày chưa ly xác,

Thây sình, mt nát, lch mương tanh

Sông cái nước men b sóng sánh.

Cn xa cây vướng sáng mơ màng.

Áo quan phong quc k anh lit.

Nim thiên thu đầm c xe tang.

Quê xa không tin đường đưa tin,

Nghĩa tn sơ sài, đám lnh tanh.

Thêm mt chút gì như hi h,

Người thân chưa khóc ráo thâm tình

(Qua sông)

Đến lúc này không còn là bạo lực diễn ra trên các đường phố nữa mà chiến tranh. Chiến tranh đã đến xóm, làng và máu không chỉ chảy ngoài đường. Cả bài thơ không tìm thấy được một chữ máu nhưng mùi tanh lợm của nó đã nhiễm độc cả không khí bài thơ, từ dòng đầu cho đến dòng cuối. Chiến tranh với sự khốc liệt tàn bạo của nó, trong thơ Tô Thùy Yên, lạ lùng thay, lại mang một vẻ nhẫn nhịn, cam chịu phi thường; bởi với thi sĩ, chiến tranh, nhìn từ phía những người trực tiếp tham chiến, dù ở bất kỳ một bên chiến tuyến nào, đều không do họ lựa chọn. Họ bị xô đẩy vào cái cỗ máy giết người đó như những nạn nhân.

Ta t hi vì sao,

(Còn ngươi, có bao gi ngươi t hi?)

Và ta t tr li.

(Có bao gi ngươi t tr li?)

Chúng ta khác nào cánh qut phi cơ

Phi qut, phi qut

Ch vì nó phi qut.

Ta thương ta yếu hèn.

Ta thương ngươi kh kho.

Nên c hai cùng cam phn quay cung,

Nên c hai cùng mc đường Lch S,

Cùng mê sa mt con đĩ thp thành.

(Chiều trên phá Tam Giang)

Tô Thùy Yên tham gia cuộc chiến không phải vì lòng căm thù, vì một mục đích giành chiến thắng bằng mọi giá, mà ông can dự với tất cả lòng bi phẫn, với những câu hỏi hoài nghi không thể tìm thấy lời giải đáp từ lịch sử. Ông nhìn đối phương bên kia chiến tuyến với một sự đồng cảm sâu xa, sự thương cảm chỉ có ở con người lương thiện dành cho nạn nhân bị xô đẩy vào giết chóc bởi những tham vọng điên cuồng. Tình cảm nhân đạo giữa người với người đó cũng như những uẩn khúc, dằn vặt không nguôi về kiếp người trong vòng xoáy của định mệnh theo ông suốt cuộc đời còn lại, từ lúc thua trận, vào tù và sống tự do những ngày tháng cuối cùng.

Ví du ngươi bn rng ta

Như tiếng hét

Xé hư không bt im,

Chuyn cũng thành vô ích.

Ví du ngươi gc

Vì bom đạn bt dung,

Thi th chng ai thâu,

Nào có chi đáng k.

Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng,

Ví du các vic ngươi làm, các vic ta làm

Có cùng gom góp li,

Mt đất này đổi khác được bao nhiêu?

Ngươi há chng thy sao

Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cn?

(Chiều trên phá Tam Giang)

Quả thật, một cuộc chiến đã giết chết hàng triệu, triệu con người từ các phía thì đó là một cuộc chiến hoàn toàn vô nghĩa, hoàn toàn phi nghĩa mà không có một thứ chính nghĩa nào, dù cao cả đến mấy, có thể biện hộ cho hành động thảm sát ấy. Hãy gọi đích danh nó: một cái máy xay thịt người.

Thi sĩ không kêu gào Giết! Giết na!, mà chỉ với một vài nét điểm giản dị, chiến tranh đã hiện ra như một bi kịch lớn của con người.

Ta cht cho nhau git rượu sót,

Tưởng đời sót chút thiếu niên đây.

Gi ct quân, đưa tay bt,

Ước cõi âm còn gp để say.

(Anh hùng tận)

Lời thơ trong những bài thơ về chiến tranh của Tô Thùy Yên như một lời tâm tình, giản dị và chân thành nhưng khung cảnh càng mộc mạc, quê mùa, chiến tranh càng phô bày ra hết cái khốc liệt, phi nhân của nó. Tài hoa của ông là ở đó, ở việc sử dụng những ngôn ngữ giản dị, đôi lúc cô đọng đến mức tối giản, để bóc trần sự vật. Có lúc lời thơ như lời đối thoại bộc trực, không mỹ từ, không hình ảnh, không đẽo gọt như thường thấy trong những bài thơ khác.

Những bài thơ như Chiu trên phá Tam Giang, Qua sông, Anh hùng tn, Ngn gió lthường sti… thực sự là một bạch thư về cuộc chiến tranh Việt Nam được nhìn từ phía con người. Cuộc chiến tranh ấy đã kết thúc nhưng cho đến nay nó vẫn còn bị bao phủ trong tấm màn huyền thoại, dị sử, vẫn còn được diễn giải nhằm mục đích lũng đoạn, lợi dụng. Đó là điều trớ trêu nhất của cuộc chiến này: chiến tranh đã chấm dứt mà lịch sử của nó lại chưa thể kết thúc, vẫn còn là một cuộc chiến khác hiện hành trên phương diện tường thuật, ký sự, diễn giải được phát động từ các mưu toan chính trị. Chính vì vậy hơn lúc nào hết, nó cần phải được bạch hóa, phải được nhìn nhận đúng bản chất của nó. Đó là công việc của nhiều bên, và không phải chỉ của một thế hệ nhưng trong khi chờ đợi, bằng thơ của mình, Tô Thùy Yên đã cung cấp cho chúng ta và các thế hệ mai sau một ánh sáng chân thật khác từ vị trí của một người trong cuộc.

Sau năm 1975, khi chiến tranh hai miền Nam – Bắc đã chấm dứt, Tô Thùy Yên đi tù ba lần, tổng cộng 13 năm. Kinh nghiệm tù đày sau chiến tranh đã đem đến cho thơ ông một trường cảm xúc mới mẻ về thân phận con người và thời cuộc, mở đầu cho giai đoạn sáng tác thứ ba. Đó là giai đoạn của những bài thơ Thc gic trong bit giam, Mùa hn, Tàu đêm, Ta v,…

Cũng như trong chiến tranh, trong lao tù, Tô Thùy Yên cũng bộc lộ một thái độ cam chịu số phận một cách đáng kinh ngạc. Chỉ than thở, buồn cho kiếp người. Tuyệt nhiên người đọc không thấy trong những bài thơ ấy một chút ý thức phản kháng, đấu tranh với bạo quyền.

Ta phi dám bt cn, phi tp coi thường

Nhng huyn vng linh lon thn trí.

Bao gi m ca?

Bao gi?

Lch s dường như đã ngt l

Sau nhng liên hi vt vã điên cung

Ta tưởng tượng nhng bn binh ngã năm ngã by,

Đám đông lng l

Rng thưa dn

Có nh trong này ch cháy rut gan?

Ta nhìn lên nhng dòng ch trên tường

Viết bng gch, bng than và hình như bng c máu

Nhng phn n, quyết tâm, nguyn cu, ký thác, than van,

Ngày tháng năm, tên họ…

(Thức giấc trong biệt giam)

hoặc

đây, địa ngc chín tng sâu,

C ging nòi câm lng gc đầu,

Cn chết hàm răng, a máu mt,

Chung xing nhưng chng dám nhìn nhau.

(Mùa hạn)

Như một thứ nhật ký, chúng ta tìm thấy trong đó dấu vết của một chế độ lao tù khắc nghiệt.

Bước ti, chân không đè đá sc,

Vai trn chín rn gánh oan khiên,

Nước khe, cơm độn, thân tàn rc,

Sng chng khôn, cu được thác thiêng.

Đám chmi, y trang xúng xính,

Súng nghênh ngang, tiếng hét phàm phu,

(Mùa hạn)

Trong lao tù, thay vì nuôi dưỡng hận thù, thi sĩ mơ mộng và hy vọng.

Tt cri đây sẽ đổi thay.

Đổi thay tqung m, mm cây,

Đổi thay cmt người tăm ti,

Nhng bt chàm xưa được xóa trôi.

(Mùa hạn)

Hay có phải đấy mới chính là cốt cách của thi sĩ, như ông tự nhận trong bài Thân phận của thi sĩ?

Chng bao gi danh vng

Mc đôi cánh lang thang.

Triết lý dy cn răng.

Tôi kit sc, kit sc

Cuc đời, cuc đời ơi.

Sau 13 năm trong chốn lao tù, ông được trả tự do và năm 1993 Tô Thùy Yên sang Mỹ bắt đầu một đời sống lưu vong. Có ý kiến cho rằng thơ của ông trong giai đoạn này không còn đặc sắc như những sáng tác trước năm 1975 cho dù cố gắng làm mới ngôn ngữ. Có lẽ nên đánh giá giai đoạn sáng này ở một góc nhìn khác, không phải là một tiếp nối có tính cách tuyến tính, như một cấu trúc bất biến, của những giai đoạn trước trong nỗ lực làm mới thơ. Ở giai đoạn sáng tác sau cùng, cần được coi như một giai đoạn độc lập, ở đó vấn đề hình thức, phong cách đã không còn là mối bận tâm của Tô Thùy Yên nữa. Thơ của ông có phong thái thanh thoát, tự do; có những bài thơ chỉ một câu, hai câu, ba câu, lắp ghép, cắt dán. Sự đặc sắc chính là ở chỗ đó. Tương tự như trường hợp Thanh Tâm Tuyền với Thơ ở đâu xa, với tập thơ đó Thanh Tâm Tuyền đã là một Thanh Tâm Tuyền khác, không còn của một thời Liên đêm mt tri tìm thy, Tôi không còn cô độc. Sự độc đáo của Thanh Tâm Tuyền là ở khí vị, ở sắc thái diễn đạt ngôn ngữ theo phong cách mới của những vần thơ làm trong điều kiện tù tội, không giấy bút mà chỉ có công cụ duy nhất là trí nhớ.

Ở giai đoạn sáng tác sau cùng này chiến tranh và tù đày, những hoài nghi về sự vận động của thời đại không còn là trăn trở của Tô Thùy Yên nữa, ông đã bỏ lại để trở về với những ưu tư siêu hình của giai đoạn đầu.

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế…

Bát Nhã Ba La Mt Đa

Đi. Đi qua. Đi qua na. Đi qua na na.

(Hành giả âu sầu)

Thảng hoặc ông có nhìn lại quá khứ thì ông nhìn với con mắt tỉnh thức của một người đã giũ bỏ.

Nhà ta xưa nghe nói chng còn,

Di ch đời ta xưa mt theo

Đã thân rơm, chc đâu là ch cui.

Gió qua, đức đủ gi mình chăng?

Dưới chân ta, đất nào chng đất võng,

Đời quy gây chao đảo tht thn.

Thôi hãy mng còn đứng được trên đó,

C sc gi thăng bng,

Lm ln, trán rn đẫm.

Phước thay, nhng đau đớn ma sát

Đã chng làm lòng ta xơ chai.

(Nỗi mình lần giở)

Điều ông tìm kiếm bây giờ là một sự giải thoát, giải thoát khỏi những trói buộc của kiếp nhân sinh.

Thế gii nhng ba ngàn,

Trước gi qua được my?

Quê nhà nghe nói có,

Ch du không tìm ra.

Con vượn non xa khóc o nh.

Còn ta ln chuyến, nén mà đi

Sc già, đến lúc phi b bt,

B li bên đường cái bóng ta.

(Thấm thoắt đời ta)

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, Tô Thùy Yên đã thực hiện chuyến đi cuối cùng của đời mình, một chuyến đi không hoãn được. Thi sĩ, tình nhân cuồng nhiệt của trần gian đã ra đi, nhưng tình yêu ấy vẫn không vì thế mà trở nên nguội lạnh.

Nht định ngươi s vn yêu đến git nước mt cui

Tô Thùy Yên, người chép sử đã từ giã trần gian khổ lụy này, nhưng nơi đây nhân loi cùng qun không yên nghỉ” vẫn còn cần đến những người chép sử tương lai để tạc tượng những bi thương, tang tóc của một thời đại chưa thể nào một lần khép lại để vĩnh viễn trở thành quá khứ.

Tng biết my thi kinh

Quá kh chng siêu thoát

[*] Tô Thùy Yên trả lời phỏng vấn của Phan Nhiên Hạo.

Comments are closed.