Tag: Tô Văn Trường

  • Cái gốc vẫn là con người

    Tô Văn Trường

     

    Đội ngũ cán bộ ta, nhất là cán bộ cao cấp, hẳn ai cũng thuộc lòng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém.” Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, người sáng lập Đảng và Nhà nước Dân chủ Cộng hoà còn thiết tha căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.”.

    Nhưng vì sao các thế hệ sau, ở cấp nào cũng vậy, dù có bằng cấp, chứng chỉ cao hơn hẳn thế hệ lãnh đạo đầu tiên, nhưng cả đức và tài, từ tâm đến tầm hình như đều thua cha anh một khoảng cách xa đến thế? Do đâu mà việc vun sai gốc trở nên phổ biến, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng để “lò rực cháy” như thời gian vừa qua? Có chỉ ra đúng căn nguyên việc này thì mới chữa được bệnh. Đó mới là cái gốc của vấn đề.

    Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa

    Để tóm tắt cho dễ hiểu, chúng ta tạm thời quy định là việc đánh giá con người và giai đoạn giống như việc chấm thang điểm tuần tự từ 0, 1… tới 10 ở nhà trường phổ thông, chứ không mơ hồ, cảm tính như ở ta theo kiểu “Yêu nhau cau sáu bổ ba/Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.

    Có nhà khoa học thế hệ đàn anh đã từng băn khoăn đặt câu hỏi: Vì sao Nhật Bản và Cao Ly cũng kế thừa văn hóa Trung Quốc mà họ giỏi hơn ta? Trong một lần đến thăm Thư viện quốc gia Trung Quốc, nhà khoa học ấy đã… toát mồ hôi khi phát hiện ra nguyên nhân, gốc gác! Vốn là, Việt Nam ta cũng như hai nước Nhật Bản và Cao Ly đều từng là những chư hầu của các đời hoàng đế Trung Hoa, cho nên đều đã có những đợt du học ồ ạt tới thiên triều để “khuân” kiến thức về cho nước mình.

    Cắc cớ là Nhật Bản và Cao Ly đã miệt mài du học vào đúng thời Hán Cao Tổ là thời rất cấp tiến, đổi mới để đưa Trung Hoa vươn tới cực thịnh. Thầy nào, trò nấy, họ “rinh” về cả cái không khí hừng hực, rộn rã của nước Trung Hoa đang chuyển mình! Còn thời các nho sĩ Việt Nam khăn gói ồ ạt đổ sang học hỏi thiên triều lại đúng vào cái thời nhà Tống là thời kỳ toàn những nho gia chỉ giỏi ngâm vịnh thơ phú mà chẳng làm được trò trống gì cho ra hồn. Cho nên, đến tận bây giờ dân Trung Quốc vẫn quen mỉa mai với câu “đồ Tống nho” để dè bỉu bọn hủ nho hợm hĩnh.

    Ân và oán phải rạch ròi. Chúng ta nên học cái hay và tránh cái dở của họ. Nước ta tiếp nhận nền văn hóa Trung Hoa và kế thừa nhiều thành tựu rạng rỡ trong nền văn hóa nhân loại, nhưng cũng có những thứ bảo là rác rưởi cũng chẳng oan như “trí phú địa hào – đào tận gốc, tróc tận rễ” hay cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp…

    Tôi đã đến Trung Quốc nhiều lần, rất ngạc nhiên là hạ tầng cơ sở của quốc gia hơn tỷ dân ấy từ lâu đã đồng bộ, tiện nghi và hợp lý đến ngỡ ngàng, mà có lẽ còn rất lâu nữa Việt Nam mới theo kịp. Thể chế của họ cũng như ta, nhưng quy hoạch nhân sự, ít nhất ở cấp cao, không bị rơi vào tình trạng “đốt đuốc tìm người”, “nước đến chân mới nhảy”, toàn để “thủng lưới vào phút bù giờ” như ta.

    Đừng “chụp mũ” bằng những cụm từ ngô nghê, trừu tượng

    Tôi không biết ai là người đầu tiên đưa ra khái niệm “lỗi hệ thống” ở nước ta, nhưng thấy có nhiều người sử dụng đã thành thói quen cửa miệng. Tuy nhiên, từ góc nhìn triết học, không có khái niệm nào như vậy. Thay vào đó, triết học thường sử dụng khái niệm “hệ thống sai” để chỉ ra rằng một hệ thống không hoạt động đúng theo nguyên tắc hoặc mục đích được đề ra. Ví dụ nếu một động cơ hơi nước được thiết kế để đốt trong thì đó là một hệ thống sai về nguyên lý thiết kế.

    Một khi đã xác định được nguyên nhân thì quản trị quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp để cải thiện hệ thống. Điều này có thể bao gồm sửa đổi quy trình, tái cấu trúc tổ chức, hoặc thậm chí là tái thiết kế toàn bộ hệ thống nếu cần. Quản trị quốc gia không chỉ là việc giải quyết vấn đề một lần mà còn là việc duy trì và cải tiến hệ thống theo thời gian, điều đó đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về cách thức hoạt động của hệ thống và khả năng giải quyết các vấn đề hệ thống một cách thông minh và hiệu quả.

    Khái niệm “quy hoạch cán bộ” chỉ là một khâu, một quy trình trong công tác nhân sự. Muốn có nhân sự tốt thì không thể chỉ bám vào quy hoạch cán bộ mà phải dựa trên nền tảng dân chủ, tuyển chọn nhân tài có cạnh tranh, đào tạo, thử thách, rèn luyện, đối thoại thì mới có tính biện chứng, tránh “hôn nhân cận huyết”. Triết học có nói đến việc xem xét nhân sự không chỉ là việc lựa chọn và sắp xếp cán bộ trong một tổ chức, mà còn là việc hiểu biết về bản chất của con người, về cách thức họ hoạt động và tương tác trong môi trường làm việc, cũng như về cách thức họ có thể đóng góp vào mục tiêu tổng thể của tổ chức.

    Tôi vẫn nhớ mãi lời cố giáo sư Hoàng Tuỵ – cây đại thụ, nhà toán học nổi tiếng của Việt Nam – đánh giá: Nếu chất lượng lãnh đạo ở một thế hệ là A thì ở thế hệ tiếp liền theo không vượt quá tA với 0<t<1, cho nên sau k thế hệ sẽ không vượt quá t^k A (t lũy thừa k của A). Vì t^k tiến dần rất mau tới 0, chẳng hạn với t=0,8 thì sau 2 thế hệ chất lượng đã không vượt quá 0,64 A rồi. Có lẽ chính vì vậy mà kể từ Cách mạng tháng Tám, thế hệ đầu tiên được sàng lọc, lựa chọn qua hoạt động thực tiễn có chất lượng rất cao, nhưng đến thế hệ này thì đã tiệm cận đến giá trị thấp hơn rất nhiều lần.

    Tự diễn biến – tự chuyển hoá

    Nhiều vị lãnh đạo ở Trung ương và địa phương khi lên diễn đàn giáo huấn thường phê phán quan điểm “Tự diễn biến, tự chuyển hoá” nhưng không hiểu nội hàm triết học của cụm từ này. Dù tự diễn biến hay chuyển hóa, tốt hay xấu cho đất nước mới là điều quan trọng. Nước nào, chế độ nào, thời kỳ nào mà chẳng có “chuyển hóa” và cần phải “chuyển hóa” mới tiến lên được! Thành thử mấy cụm từ, mấy khái niệm chẳng có tội tình gì ấy trở thành những cụm từ và khái niệm mang ý tiêu cực, bị dùng để đe dọa và khép tội những công dân có trách nhiệm.

    Trước hết, nên làm rõ hơn “tự diễn biến, tự chuyển hóa “ là thế nào trước khi phê phán. Chúng ta phải thừa nhận, con người luôn sống theo thói quen, nên tự đổi mới, nhất là đổi mới tư duy là không dễ. Khó, thậm chí rất khó, nhưng không phải không làm được. Thực tế, nhờ tự đổi mới tư duy, tức “tự chuyển biến, tự chuyển hóa”, bắt đầu từ những người lãnh đạo cao cấp nhất, chúng ta mới có Nghị quyết Đại hội Đảng VI (1986) đưa đất nước phát triển cho đến nay.

    Đổi mới của Đảng từ 1986 thực chất là tự chuyển hóa về tư duy kinh tế, chấp nhận kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường thay cho quan điểm ngự trị trước đó là xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác-Lênin xóa bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất và Nhà nước quản lý nền kinh tế theo kế hoạch pháp lệnh.

    Với tư duy đổi mới, lãnh đạo Đảng đứng đầu là Tổng Bí thư Trường Chinh đã dũng cảm tổ chức viết lại Văn kiện Đại hội Đảng khóa VI, chuyển hóa phương thức quản lý kinh tế, đem lại chuyển biến tích cực cho nền kinh tế và cho đất nước nói chung. Đấy là thực tế chứng minh hùng hồn, là thước đo minh chứng cho việc tự chuyển hướng, tự diễn biến theo chiều hướng tích cực là cần thiết. Đường lối phát triển phù hợp quy luật phát triển của sự vật đã đưa nước ta vượt qua cơn khủng hoảng được toàn dân ta và bạn bè trên thế giới ghi nhận.

    Tư duy nhiệm kỳ và tách nhập

    Từng có vị Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ đã trả lời chất vấn trên diễn đàn Quốc hội: “Ai có tư duy nhiệm kỳ thì người đó không xứng đáng với vị trí của mình”. Thực chất, nhiệm kỳ là một khái niệm để chỉ thời gian chứ bản thân nó không phải là tiêu chí để đánh giá là xấu hay tốt. Xấu hay tốt trong một nhiệm kỳ hay một giai đoạn đối với cán bộ được giao trọng trách hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất, năng lực của người đó đã để lại dấu ấn gì với ngành hay địa phương, chứ sao lại đổ lỗi cho thời gian được?

    Có lẽ khi dùng cụm từ “tư duy nhiệm kỳ”, người ta thường hiểu theo cái nghĩa tiêu cực mà lâu nay xã hội đã gán cho cụm từ ấy là “chỉ nghĩ ngắn hạn, không có tầm nhìn”. Có người “tư duy nhiệm kỳ” theo kiểu chỉ cốt làm sao hoàn thành nhiệm kỳ của mình một cách yên ổn, không nghĩ đến việc xây dựng nền móng cho phát triển lâu dài. Có người đề ra những kế sách rất hoành tráng chỉ cốt để đánh bóng tên tuổi của mình, mặc cho dân và những người kế nhiệm gánh hậu quả. Có người tranh thủ vơ vét cho hết, cho nhanh mọi quyền lợi trong nhiệm kỳ của mình, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Hay trong nhiệm kỳ này, việc sáp nhập một số đơn vị cấp xã theo hai tiêu chí cơ bản là dân số và diện tích đã thực sự làm nhiều địa phương rối loạn, không chỉ vì phá vỡ văn hoá lịch sử làng xã truyền thống mà còn làm đảo lộn các loại giấy tờ liên quan đến hành chính và cuộc sống của người dân.

    Tư duy, hành động theo nhiệm kỳ gây thiệt hại cho dân, cho nước như thế mà chỉ bị đánh giá là “không xứng đáng” và xử lý theo kiểu “cần rút kinh nghiệm” thì làm sao khắc phục được “tư duy nhiệm kỳ”?

    Ai không dám làm, đứng sang một bên

    Thoạt nghe câu này có vẻ chuẩn xác, nhằm chấn chỉnh, răn đe những người được giao nhiệm vụ nhưng lừng khừng do dự, không dám làm vì sợ trách nhiệm. “Không dám làm” là khái niệm hết sức mù mờ và chứa đầy cảm tính, không hề phù hợp trong cơ chế pháp quyền, trong khi nhiều quy định còn chưa rõ ràng, chồng chéo nhau và chứa nhiều nội dung vô lý lại không được chú tâm giải quyết, nên dù có người muốn làm nhưng cũng không biết phải làm thế nào cho đúng. Người ta không định chữa căn bệnh từ gốc rễ, nhưng lại muốn chấn chỉnh từ những triệu chứng quá mơ hồ mà ai hiểu sao cũng được, nên dễ bị lạm dụng, tùy ý thay đổi trắng đen theo “khẩu vị” cá nhân.

    Không nên nêu vấn đề nước đôi “nhà nước pháp quyền” và “dám nghĩ dám làm” vào thời điểm này. Trước đây, vào thời kỳ đầu đổi mới, khi nhiều thể chế cũ chưa kịp thay đổi thì “dám nghĩ, dám làm” hay “phá rào” có thể được khuyến khích. Còn bây giờ, việc quan trọng nhất thuộc đúng chức trách Nhà nước phải làm là xây dựng hệ thống luật pháp hợp lý và kiểm tra đôn đốc bộ máy, cán bộ phải làm đúng – đó là việc cần làm ngay.

    Trong một nhà nước pháp quyền, không cần đặt ra yêu cầu “dám” hay “không dám”, vì như thế vô hình trung ngầm chấp nhận rằng quy định chưa minh bạch cho nên cán bộ cần phải “dám”, đồng thời phải chấp nhận hên xui, may rủi! Yêu cầu như thế tức là giải quyết theo cảm tính và giải quyết phần ngọn, chứ không phải phần gốc là bộ máy pháp quyền.

    Tham vọng quyền lực

    Tham vọng quyền lực cũng thế! Nếu người ta tham vọng (dịch nôm ra là “mong muốn” – nghe có vẻ nhẹ hơn) quyền lực để được đóng góp nhiều nhất cho đất nước thì tốt chứ sao! Chỉ ghét là ghét cái đám quan chức “mũ ni che tai”, “gió chiều nào che chiều ấy” để bám giữ quyền lực mà thôi! Với cái đội ngũ cán bộ chiến lược phần lớn như vậy, lại thêm một đội tham mưu xu nịnh kiểu “Hòa Thân” nó phỉnh đủ thứ… thì đất nước đi đến đâu?

    Khi đám đông ở trạng thái hỗn loạn, để ổn định và phát triển, ta cần đến một nhà độc tài, một nhà nước chuyên chính. Ngược lại, trong một xã hội độc tài, chuyên chính, để phát triển ta lại cần một nền dân chủ. Đây là “hai pha” của một chu kỳ phát triển, không có tốt và xấu. Tham vọng quyền lực là bản năng, cũng không có tốt và xấu, chỉ có yếu và mạnh. Muốn đánh giá một xã hội hoặc một con người tốt hay xấu, đúng hay sai, ta cẩn hiểu đúng tình trạng của đối tượng đánh giá.

    Tuy nhiên, nếu tham vọng quyền lực với nghĩa là khát khao nắm quyền nhưng theo nghĩa tiếm quyền – nghĩa là không có tính chính danh được nhân dân và pháp luật thừa nhận thì đó là tham nhũng quyền lực. Đây là tội tham nhũng tàn ác nhất, đẻ ra toàn bộ mọi tham nhũng khác, và gây ra cho đất nước nhiều tổn thất nhất so với bất kỳ tội tham nhũng nào khác.

    Chủ nghĩa cá nhân

    Về “chủ nghĩa cá nhân”, từ điển Larousse tiếng Pháp (tài liệu định nghĩa được các nhà khoa học tôn trọng, thậm chí coi là chuẩn mực) giải thích như sau:

    – Theo nghĩa thông thường, chủ nghĩa cá nhân là khuynh hướng tự khẳng định mình không phụ thuộc vào những người khác.

    – Khuynh hướng coi trọng giá trị và quyền của cá nhân cao hơn giá trị và quyền của các nhóm xã hội.

    – Về triết học: lý thuyết đặt ưu tiên vào cá nhân, được coi là nền tảng của tất cả các giá trị hoặc được coi là thực tế xác thực duy nhất và là nguyên tắc cơ bản để giải thích các hiện tượng tập thể.

    – Về xã hội học: phương pháp luận nhằm phân tích các hiện tượng tập thể như hệ quả của tập hợp các hành động, các niềm tin và thái độ cá nhân.

    Còn ở ta, cho đến bây giờ, “chủ nghĩa cá nhân” chỉ được hiểu theo nghĩa xấu dẫn đến cản trở sự phát triển của cá nhân.

    Hồ Chí Minh đã nói: “Phải có tự do tư tưởng. Mọi người được tự do phát biểu ý kiến kể cả ý kiến trái với cái chung. Những ý kiến trái chiều đó phải được tôn trọng, đưa ra tranh luận đối chiếu với thực tế, như thế là cùng nhau đi tìm chân lý.”

    Đất nước chỉ có thể phát triển khi những người có trách nhiệm không né tránh những vấn đề được coi là cấm kỵ, mạnh dạn đặt lên bàn những vấn đề gay cấn để công khai thảo luận nhằm tìm ra đối sách.

    Vận động luôn là thuộc tính cơ bản của mọi dạng vật chất, chuyển hóa là kết quả tất yếu của vận động. Suy cho cùng cái “thói quen” (như Lênin nói) và tư duy nhiệm kỳ vẫn còn hằn sâu trong nếp nghĩ của không ít người có thẩm quyền.

    Tố chất của người lãnh đạo

    Nguyên khí đi từ cái gốc của vấn đề là tìm được người hiền tài và đặt đúng vị trí của họ. Các tiêu chí đề ra để chọn hiền tài hiện nay dường như mới chỉ tập trung vào việc chọn người có đạo đức (được hiểu là không có lỗi), trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trung thành với Đảng. Cả ba tiêu chí này đều không phải là tiêu chí của “người tài”, dù đó có thể là những tiêu chí của “người tốt” với Đảng, song chưa hẳn đã là tốt cho đất nước, càng khó có thể là người tài mà đất nước đang cần, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, hay như Lênin từng viết: “Nhiệt tình cộng với dốt nát sẽ thành phá hoại”. Vả lại, “Sông sâu còn có kẻ dò / Nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Thực tế xử lí một số cán bộ vừa qua cho thấy nhiều đồng chí có quá trình thăng tiến rất đáng ngưỡng mộ, lên bục phát biểu chỉ đạo hay hơn cả nghệ sĩ gạo cội hoá ra chỉ thuộc diện “chưa bị lộ” thôi.

    Trong bối cảnh hiện nay, hơn bao giờ hết người dân càng mong muốn lãnh đạo cấp cao phải thực sự là người có các tố chất sau:

    – Hiểu đúng, đánh giá đúng thực trạng chính trị – kinh tế – xã hội và văn hóa của Việt Nam, vị trí và hoàn cảnh đất nước trong bức tranh chính trị – kinh tế – xã hội toàn cầu.

    – Có tư tưởng cải cách và dân chủ, đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc lên trên hết để định hướng đúng con đường và mô hình phát triển xã hội, đề ra được những quyết sách đúng và kịp thời.

    – Có khả năng tập hợp quần chúng và thu phục nhân tâm, biết trọng dụng người hiền tài, biết tổ chức và hành động kiên quyết, khéo léo phù hợp với văn hoá Việt.

    – Có tri thức, đủ khả năng tiếp thu các kiến thức mới về quản trị quốc gia của thời đại.

    Giữ chữ tín với dân

    Hãy ngẫm tích bên Tàu về niềm tin của dân chúng với chính quyền qua việc Thương Ưởng “di mộc lập tín”.

    Sau khi được Tần Hiếu Công trọng dụng, Thương Ưởng lập ra pháp luật, nhưng không công bố ngay lập tức. Trước tiên, ông làm một việc kỳ lạ. Ở cửa phía Nam đô thành nước Tần (khi ấy là Lịch Dương), ông cho người cắm một cây gỗ và dán thêm một cáo thị nói rằng: “Ai có thể đem cây gỗ này từ cửa thành phía Nam sang phía Bắc, ta sẽ thưởng 10 nén vàng”.

    Sau khi cáo thị được dán ra, có rất nhiều người đến xem nhưng không có ai hành động gì, vì đã lâu rồi chẳng ai còn tin vào triều đình nữa. Một sự việc hết sức đơn giản sao lại được thưởng nhiều như thế? Mọi người cho đây là một việc lừa bịp như bao lần lừa bịp khác. Thương Ưởng nghe nói không có ai chuyển cây, ông đưa ra đề nghị mới: “Được rồi, đổi 10 nén vàng thành 50 nén vàng”. Sau đó có người dừng lại chỗ cáo thị nói: “Xưa nay nước Tần chưa bao giờ thưởng lớn thế này! Nhưng tôi cũng muốn thử một chút”. Người đó chuyển cây từ cổng Nam sang cổng Bắc. Lúc này Thương Ưởng đã chờ ở cổng Bắc, thấy cây được chuyển đến, ông mới nói rằng: “Người này thật là một thần dân tốt. Lập tức thưởng cho anh ta 50 nén vàng. Ta muốn qua việc này để tuyên bố: Từ nay, triều đình đã nói là làm.”. Câu chuyện này đã khiến đô thành nước Tần náo động vì số tiền được thưởng lúc đó quá lớn.

    Thông qua sự việc này, Thương Ưởng muốn truyền đến bách tính một thông điệp rất rõ ràng: “Pháp luật là tôi định ra, dù nó có chỗ hoang đường hay sai lầm thế nào, nhưng tôi đã nói là làm”. Đây là việc gọi là “di mộc lập tín”, thông qua việc chuyển cây mà xác lập sự tín nhiệm của người dân nước Tần đối với ông, cũng chính là lòng tin của dân chúng đối với chính quyền vậy!

    Điểm lại một việc nóng hổi vừa mới diễn ra năm nay, còn quan trọng hơn chuyện “di mộc lập tín” hàng nghìn lần là giáo dục mà giật mình. Theo chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo của Nghị quyết 29, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 88 và Luật Giáo dục, quy định: “Thực hiện xã hội hoá việc biên soạn sách giáo khoa; có một số sách giáo khoa cho mỗi môn học”. Bộ GDĐT đã huy động nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện quy định này, xoá bỏ cơ chế độc quyền, tạo ra cuộc thi đua nâng cao chất lượng sách giáo khoa, có lợi cho người dạy, người học. Nhưng có không ít lãnh đạo vẫn khăng khăng đòi quay trở lại cơ chế độc quyền, “dọn cỗ một món”. Không hiểu động cơ của các vị ấy là gì, nhưng rõ ràng là bất tín với dân. Người xưa đã nói: “Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” (Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người). Một lĩnh vực được coi là quốc sách hàng đầu mà chủ trương, pháp luật có thể thay đổi tuỳ tiện như vậy thì hậu quả sẽ thế nào?

    Lời kết

    Ngay từ thời phong kiến, trong một xã hội mà vua là chủ, chứ không phải dân, thiên tài Nguyễn Trãi đã viết: “Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước”. Qua hàng nghìn năm, ở tất cả các nước, chế độ phong kiến càng ngày càng bộc lộ những hạn chế của nó, mà hạn chế lớn nhất là kìm hãm sự tiến bộ của quốc gia và nhân loại nên đã được thay thế bằng chế độ dân chủ, trước tiên là ở phương Tây, rồi dần dần lan sang các khu vực khác.

    Ở nước ta, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của thực dân tồn tại ngót 100 năm và chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm để xây dựng một nước cộng hoà dân chủ. Nhưng thực dân Pháp quay trở lại, rồi đế quốc Mỹ can thiệp đã thổi bùng ngọn lửa chiến tranh suốt 30 năm, khiến dân chủ khó bề thực hiện. Có lẽ thói quen thời chiến kéo dài đã hạn chế dân chủ ngay cả khi non sông đã thống nhất, cuộc sống hoà bình đã được tái lập trên cả nước. Chỉ từ khi Đổi mới, dân chủ mới từng bước được thực hiện, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, rồi lan toả dần sang các lĩnh vực khác với những mức độ khác nhau.

    Đại hội XI của Đảng đánh dấu một bước tiến khi đưa yêu cầu “dân chủ” lên hàng đầu trong mục tiêu “xây dựng xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các phát biểu của TBT Tô Lâm gần đây về những công việc cần thiết chuẩn bị cho Đại hội Đảng khoá XIV như đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quan tâm đến phát triển kinh tế xã hội, đặt quyền lợi của đất nước và nhân dân lên trên hết được người dân rất quan tâm và hy vọng.

    Từ xưa đến nay, yếu tố quan trọng nhất trong xây dựng và phát triển của đất nước chính là con người. Con người sinh ra thể chế và thể chế lại tạo nên con người. Đây là mối quan hệ nhân quả. “Hiền tài” luôn là “nguyên khí” của quốc gia, là nguồn tài nguyên và động lực to lớn để đưa đất nước tiến lên. Có khơi được dòng nguyên khí thì đất nước mới có thể thay đổi và hùng cường.

  • Tưởng nhớ  nhà khoa học của nông dân

    Tô Văn Trường
    Năm 1983, khi tôi đang theo học chương trình Master ở Viện Kỹ thuật Á Châu (AIT) Bangkok Thái Lan, lần đầu tiên được gặp mặt Giáo sư tiến sĩ Võ Tòng Xuân cùng đi với ông Bảy Khai Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ đến thăm AIT. Từ đó, đến nay hai anh em gặp nhau hàng chục lần để bàn thảo về những công việc chung cùng quan tâm đến việc phát triển kinh tế xã hội của nước nhà, đặc biệt là lĩnh nông nghiệp.
    Mới đây nhất, GS Xuân nhắn tin đồng tình chia sẻ với tôi về quan điểm đánh giá kênh đào Funan Techo của Campuchia tác động đến Đồng bằng sông Cửu Long, không ngờ đó là những thông tin cuối cùng của GS. (more…)

  • Câu chuyện quốc sách hàng đầu

    Tô Văn Trường

    Sau khi tôi viết bài “Từ chuyện thi vào lớp 10”, nhiều bạn đọc quan tâm chia sẻ và đề nghị nên viết tiếp bài về các bất cập liên quan đến toàn bộ lĩnh vực được Đảng và Nhà nước luôn coi là quốc sách hàng đầu.

    Việc coi giáo dục là quốc sách hàng đầu thể hiện sự tiếp nối truyền thống tôn sư trọng đạo của cha ông và tầm nhìn chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ gần 70 năm trước: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (Lời phát biểu tại Lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, ngày 13-9-1958).

    Để đánh giá kết quả thực hiện quốc sách hàng đầu này, đã có nhiều báo cáo tổng kết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ. Bài viết ngắn này không có tham vọng trình bày lại những kết quả đó mà chỉ nêu lên quan điểm cá nhân về một vài vấn đề có ý kiến trái chiều trong dư luận.

     

    Trăm dâu đổ một đầu tằm?

    Tôi có cảm tưởng những đánh giá đầy đủ, cân bằng, khách quan về ưu điểm và hạn chế trong phát triển giáo dục chủ yếu chỉ thể hiện ở báo cáo của các cơ quan nhà nước, còn dư luận thì thường thiên về chỉ trích những yếu kém, tiêu cực trong ngành. Thậm chí, không ít ý kiến khái quát non từ một vài hiện tượng cụ thể để phủ nhận sạch trơn và đổ lỗi cho ngành Giáo dục.

    Bây giờ, nếu phỏng vấn bất kỳ một bậc ông bà, cha mẹ nào về con cháu của họ thì hầu hết đều khen con khen cháu mình ngoan ngoãn, thông minh, tài giỏi. Nhưng nếu phỏng vấn họ về giáo dục thì rất nhiều người buông lời chê trách. Liệu đánh giá mâu thuẫn như vậy có công tâm?

    Thông thường, đổ lỗi cho người bao giờ cũng dễ hơn nhìn nhận trách nhiệm của mình. Phải chăng nhiều người đổ tội cho giáo dục để rũ bỏ trách nhiệm làm cha mẹ, làm người lớn của mình? Còn các nhà quản lý đổ hết tội cho giáo dục để vừa rũ bỏ trách nhiệm quản lý vừa để hướng dư luận vào… cái bị bông. Nhưng như vậy thì còn đâu là phương châm ứng xử “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” mà cha ông từng dạy nữa!

    Tôi có người bạn là một giáo sư danh tiếng của ngành giáo dục kể lại có lần lấy taxi để đi đám hiếu. Lái xe là một người cởi mở. Ngồi trên xe, thấy một số bạn trẻ vừa điều khiển xe máy vừa đọc tin nhắn, anh ấy rất bất bình và bảo “Tất cả là do giáo dục. Lẽ ra, phải giáo dục các cháu từ bé.”.

    Vị giáo sư khả kính chia sẻ với sự bất bình của anh lái xe nhưng đặt câu hỏi: “Thực ra, không có nhà trường nào không dạy các cháu những điều tốt. Nhưng vì sao càng lớn, người ta càng xa rời những điều tốt đẹp ấy? Các hiện tượng tham lam, độc ác, cư xử thiếu văn hoá,… tràn lan là do đâu?”. Cuối cùng, cả anh lái xe và vị giáo sư đều đi đến thống nhất: “Giáo dục ở trường lớp quan trọng nhưng không phải là tất cả. Phải có sự kết hợp của giáo dục gia đình, giáo dục xã hội, giáo dục bằng pháp luật và sự gương mẫu của người lớn, người trên thì mới mong tạo ra được một xã hội tốt đẹp.”.

    Nhớ lại năm 1975 khi nước nhà mới thống nhất, tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm mẹ sau 21 năm xa cách. Điều làm tôi ngạc nhiên là các cháu học sinh từ nhỏ đến lớn khi nói chuyện rất lễ phép, luôn khoanh tay và thưa dạ. Ra đường, tôi thấy xe cộ lưu thông trên đường thành phố và đường liên tỉnh rất nề nếp, không giống như ở Miền Bắc. Nhưng chỉ sau đó một thời gian, quay trở lại Thành phố thì tôi thấy giao thông cũng hỗn độn như ở Hà Nội và ở Miền Bắc mình. Vậy, lỗi là do ai? Lỗi nào là của ngành Giáo dục, lỗi nào là do các ngành liên quan không làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật, buông lỏng kỷ cương?

    Tôi lại nhớ thời còn nhỏ, trên đường đi học, mỗi khi loa phát thanh công cộng vang lên bản Quốc ca thì từ đám học trò tiểu học chúng tôi đến người lớn đang đi bộ đều đứng nghiêm như đang làm lễ chào cờ. Bây giờ thì điều đó tôi chỉ thấy khi sang Thái Lan làm việc. Buổi sáng sớm đi trên đường, khi nghe nhạc hiệu chào cờ, khách bộ hành đều dừng chân hoặc đi chậm lại, nhiều lái xe dừng xe để nghiêm trang chào cờ (mặc dù chẳng có lá cờ nào trước mặt họ). Khi đi ngang qua các đền thờ, chùa chiền, tượng đài anh hùng, nhiều người dân đều chắp tay lễ. Khi lên ô tô buýt, tàu điện, hầu hết mọi người đều im lặng và tự nguyện nhường chỗ cho người già, phụ nữ, trẻ em và người tàn tật. Khi xếp hàng tại ATM, mọi người luôn đứng cách người rút tiền khoảng 1m hoặc tại vạch ngăn cách theo đúng quy định. Khi ăn tại nhà hàng, hầu hết mọi người đều không ồn ào, không vứt giấy bừa bãi và tự giác mang bát đĩa đã sử dụng vào nơi tập trung, v.v.

    Tôi sang Lào cũng thấy văn hoá giao thông ở Lào chẳng khác gì châu Âu. Thành phố Viêng Chăn có hơn 1 triệu người và trên 900.000 phương tiện giao thông, trong đó xấp xỉ 400.000 ô tô. Nhưng đi trên đường phố không bao giờ nghe thấy tiếng còi. Đến ngã tư hoặc những chỗ có vạch kẻ cho người đi bộ sang đường, lái xe bao giờ cũng đi chậm lại và dứt khoát nhường khách bộ hành sang đường rồi mới đi tiếp.

    Tại sao người dân mấy nước láng giềng Đông Nam Á duy trì được nếp sống đẹp như vậy mà ta thì chỉ ngày xưa mới có? Lỗi là ở các thầy cô hay ở nhà quản lý?

    Đạo đức xã hội xuống cấp thì từ gia đình đến trường học, cơ sở đào tạo giáo viên và nơi sử dụng người tốt nghiệp cho đến nhà quản lý đều có trách nhiệm. Cứ nói riêng về bệnh thành tích và sự suy đồi của đạo đức nghề nghiệp ở tất cả các ngành thì gốc rễ của nó là ở đâu? Giáo dục là thủ phạm hay nạn nhân? Có lẽ chỉ những nhà quản lý trung thực mới cho được câu trả lời xác đáng.

     

    Bắt mạch 5 căn bệnh kinh niên

    Nhiều người thường so sánh giáo dục Việt Nam với các nước phát triển và đặt câu hỏi rất hồn nhiên: “Vì sao chất lượng giáo dục nước ta thua xa họ?”. Nói thật là so sánh như vậy thì không khác gì so tiện nghi của nhà trọ với khách sạn 5 sao, tiện nghi của chỗ ngồi trên máy bay giá rẻ với khoang hạng nhất (First Class).

    Tôi chỉ lấy một số liệu về đầu tư cho giáo dục để chúng ta có cái nhìn thực tế hơn: Mỹ là một trong những quốc gia có ngân sách giáo dục cao nhất thế giới, chiếm khoảng 5,4% GDP năm 2023, tức là gần 1.600 tỉ USD (khoảng 40.000.000 tỉ VND). Ở một đất nước phát triển hàng đầu thế giới, giáo dục có cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên chất lượng cao như vậy mà mỗi năm nhà nước còn đều đặn rót thêm số kinh phí gấp gần 130 lần kinh phí ngân sách nhà nước Việt Nam đầu tư cho giáo dục (năm 2023: 306.128 tỉ VND) thì đủ hiểu giáo dục có điều kiện bảo đảm chất lượng như thế nào.

    Đánh giá công bằng, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, giáo dục Việt Nam cũng đã đạt được nhiều kết quả tốt. So với xếp hạng về kinh tế (thường ở thứ hạng trên dưới 150/191 quốc gia và vùng lãnh thố), kết quả xếp hạng của giáo dục (thường ở thứ hạng trên dưới 50/191 quốc gia và vùng lãnh thố) rất đáng khích lệ.

    Tuy nhiên, nói cho đúng, giáo dục và cách quản lý giáo dục của ta cũng còn nhiều hạn chế cần phải được nhanh chóng khắc phục. Từ những biểu hiện cụ thể, theo tôi, có thể nêu thành 5 căn bệnh kinh niên như thế này:

    1. Nền giáo dục Việt Nam cơ bản vẫn là một nền giáo dục ứng thí: học để đi thi, chứ không phải học để rèn luyện, phát triển bản thân.

    Có thể nói đây là căn bệnh di truyền từ hàng nghìn năm trước, chưa có cách gì khắc phục.

    Chính vì học chỉ để thi lấy bằng nên lí thuyết nhiều, thực hành kém và quanh năm phải học thêm, gây quá tải. Cũng vì học chỉ để thi nên hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu là dạy học trên lớp, chưa coi trọng việc tổ chức cho học sinh thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động vui chơi, thể thao, văn nghệ,… Phương pháp giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục còn chưa chú trọng phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh.

    Gần đây, theo Nghị quyết 29 của Trung ương, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã bắt đầu chuyển từ định hướng tiếp cận nội dung (dạy học sinh BIẾT) sang định hướng tiếp cận năng lực (dạy học sinh LÀM). Tuy nhiên, từ tâm lý xã hội trọng bằng cấp hàn lâm hơn trọng người thạo nghề đến áp lực thi cử và cách tuyển chọn, sử dụng người lao động, hầu hết các trường vẫn lo cung cấp cho học sinh nhiều kiến thức để ứng phó với những kỳ thi hơn là dành thời gian rèn luyện cho các em phát triển toàn diện về phẩm chất và năng lực.

    Ngay các trường dạy nghề cũng “ôm” luôn việc dạy chương trình phổ thông và mở hệ liên thông để đáp ứng nhu cầu có bằng cấp đại học cho học sinh.

    Ở đại học, một số ngành bám sát nhu cầu của thị trường lao động và gắn với đơn vị sử dụng lao động đã đổi mới chương trình, phương thức đào tạo, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo và bảo đảm sinh viên ra trường có việc làm. Tuy nhiên, đại học cũng là lĩnh vực đang mắc bệnh ứng thí trầm trọng. Việc tuyển sinh chủ yếu dựa vào kết quả thi viết. Chất lượng đào tạo, kể cả sau đại học, ở không ít cơ sở rất đáng phàn nàn.

    2. Giáo dục Việt Nam vẫn chưa có tính mở như yêu cầu của Nghị quyết 29.

    Cách quản lí giáo dục chưa thoát khỏi mô hình quản lý tập trung quan liêu bao cấp, “cầm tay chỉ việc” nên không phát huy được vai trò tự chủ của nhà trường và tính tích cực, sáng tạo của giáo viên.

    Ngay trong việc lựa chọn sách giáo khoa phổ thông, mặc dù Nghị quyết số 88 của Quốc hội trao quyền cho giáo viên, phụ huynh học sinh và cơ sở giáo dục nhưng ở hầu hết các địa phương, quyền này chưa được thực hiện. Nếu không kể đến chuyện “vận động hậu trường” thiếu lành mạnh ở một số nơi thì theo tìm hiểu của tôi, hầu hết các tỉnh thành đều yêu cầu các trường lựa chọn sử dụng một bộ sách giáo khoa cho dễ chỉ đạo, quản lý. Ngay ở cơ quan ban hành Nghị quyết 88, lãnh đạo và một số đại biểu cũng đòi hỏi Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn một bộ sách giáo khoa “chuẩn” cho cả nước, y hệt kiểu ăn “gạo mậu dịch” thời bao cấp.

    Trong khi đó, ở các nước phát triển và ngay ở Việt Nam trước năm 1975, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ ban hành chương trình, còn sách giáo khoa là do các tổ chức, cá nhân biên soạn theo chương trình để huy động được các nguồn lực (trí lực, tài lực) trong xã hội nhằm đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng sách giáo khoa, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước.

    3. Giáo dục Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động.

    Ngành Giáo dục được giao nhiệm vụ thực thi quốc sách hàng đầu và được người dân cả nước kỳ vọng nhưng có hai yếu tố quyết định để thực thi quốc sách là nhân lực (người) và tài lực (tiền) thì đều không được quyền quyết định. Từ việc sử dụng kinh phí đến tuyển dụng, sử dụng cán bộ, giáo viên đều do Uỷ ban Nhân dân địa phương quyết định, ngành Giáo dục tuy có thể tham mưu nhưng tiếng nói rất ít trọng lượng. Các trường thì càng không thể có ý kiến gì.

    Những yếu kém hôm nay là kết quả của một nền giáo dục mà những người quản lý không có tư duy chiến lược. Giáo dục bất cập đến đâu thì… chạy theo giải quyết đến đó, cho nên tất cả thành vá víu. Nhìn lại tất cả chủ trương phân luồng, phân ban, thi cử,… đều thấy cái dấu ấn của sự “chạy theo” này! Ngay gần đây, chắc nhiều người còn nhớ: Dưới áp lực của dư luận, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã được chỉ đạo bổ sung một môn học bắt buộc vào chương trình cấp trung học phổ thông – cấp học định hướng nghề nghiệp – khiến cho chương trình nặng thêm và cơ hội lựa chọn môn học theo định hướng nghề nghiệp của học sinh bị thu hẹp lại.

    4. Giáo dục Việt Nam luôn ở trong tình trạng “đói kinh niên” vì thiếu tiền.

    Từ năm 2013, Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã yêu cầu mức chi cho giáo dục và đào tạo hằng năm tối thiểu phải đạt 20% ngân sách nhà nước. Điều này cũng đã được quy định trong Luật Giáo dục.

    Tuy nhiên, theo dõi số liệu trong các báo cáo của Quốc hội và Chính phủ suốt 11 năm qua, có thể thấy mức Quốc hội chuẩn chi cho giáo dục thường chỉ đạt 13 – 15 %, trừ năm 2021 đạt 17% (https://giaoduc.net.vn/buc-tranh-ngan-sach-giao-duc-qua-nhung-con-so-2-post240824.gd). Cũng cần nói thêm là số kinh phí 20% ngân sách theo luật định không phải chỉ dành cho các cấp học, trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học mà còn dùng để chi cho hệ thống các trường chính trị được tổ chức từ cấp huyện trở lên và các trường của lực lượng vũ trang. Phần chủ yếu của số kinh phí này là để chi lương và các khoản chi thường xuyên; tỉ lệ chi cho đầu tư phát triển rất thấp.

    Về đến các địa phương, mức chi còn thấp hơn nữa. Báo Thanh Niên cho biết: “Báo cáo kế hoạch dự toán ngân sách cho Giáo dục và Đào tạo năm 2022 của 63 tỉnh, thành cho thấy chỉ khoảng 50% địa phương bảo đảm tỷ lệ chi cho hoạt động giảng dạy và học tập tối thiểu, trong đó một số địa phương đạt trên 20%. Các địa phương khó khăn không bảo đảm tỷ lệ chi chuyên môn tối thiểu, trong đó có những địa phương dưới 15% trong tổng chi ngân sách cho Giáo dục và Đào tạo, gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chung của ngành.” (https://thanhnien.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-phan-lon-de-tra-luong-chi-cho-chuyen-mon-khong-dam-bao-1851510453.htm).

    Việc thiếu sự hỗ trợ đầy đủ từ ngân sách nhà nước và mức thu học phí có tính chất tượng trưng, cào bằng cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lạm thu. Bên cạnh đó, việc thiếu kinh phí xây dựng trường lớp cũng dẫn đến tình trạng sĩ số lớp học ở đô thị quá đông và hiện tượng “chạy” cho con em vào một số trường có cơ sở vật chất khá, chất lượng giáo viên tốt phổ biến ở nhiều địa phương.

    5. Chất lượng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục yếu cũng là một căn bệnh kinh niên.

    Từ hơn nửa thế kỷ trước, thế hệ tôi đã lưu truyền những câu cửa miệng như: “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, Sư phạm bỏ qua”, “Chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm”,… Có khoảng vài năm, do Nhà nước có chính sách miễn học phí cho sinh viên sư phạm, các trường sư phạm đã thu hút được khá nhiều sinh viên giỏi, nâng cao chất lượng đầu vào. Nhưng rồi dần dần chính sách miễn học phí cũng mất tác dụng thu hút sinh viên giỏi vì ra trường khó tìm việc làm, mà giả sử có việc làm thì lương thấp, áp lực xã hội cao và khó có triển vọng thu nhập thêm (trong khi bác sĩ, dược sĩ, kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng,… hoàn toàn có thể mở phòng mạch, phòng thuốc, công ty xây dựng,… hoặc làm thêm cho những đơn vị này để tăng thu nhập). Chất lượng đầu vào thấp, đương nhiên ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.

     

    Kê đơn, bốc thuốc thế nào?

    Từ những phân tích ở bên trên, tôi xin đề xuất một số giải pháp như sau:

    1. Cải cách căn bản phương pháp đánh giá và các kỳ thi, trước hết là thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đầu cấp, tuyển sinh đại học. Việt Nam mình đang quá chú trọng vào kết quả thi viết. Trong khi đó, ở nhiều nước phát triển, người ta không chỉ dựa vào kết quả thi cử mà còn xem xét nhiều yếu tố khác khi xét tuyển học sinh vào các trường học, đặc biệt là ở cấp đại học, như: hoạt động văn hoá, thể thao; hoạt động xã hội; năng lực giao tiếp; bài luận cá nhân; tài năng đặc biệt; thư giới thiệu;… Nhờ vậy, học sinh không phải chịu áp lực quá lớn để đạt được điểm số cao trong các kỳ thi mà có thể phát huy được những ưu điểm và sở trường của bản thân phù hợp với yêu cầu làm việc sau khi tốt nghiệp. Việc phát triển quá mức số trường, số ngành đại học trong thời gian qua tuy có thoả mãn được nhu cầu học lên đại học của thanh niên nhưng đang làm giảm giá trị của trình độ đại học và mất dần sự hấp dẫn đối với các bạn trẻ.

    2. Thực hiện một nền giáo dục thật sự mở. Về mặt quản lý, cần trao quyền và trách nhiệm tuyển dụng, sử dụng nhân sự, sử dụng kinh phí cho người đứng đầu và hội đồng trường, bao gồm trường phổ thông, trường mầm non. Về chuyên môn, cần chấm dứt kiểu chỉ đạo “cầm tay chỉ việc”, để giáo viên được chủ động tổ chức hoạt động giáo dục vừa phù hợp với chương trình vừa phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện dạy học của mình. Học sinh cần được lựa chọn nội dung học tập theo chương trình; ở cấp trung học phổ thông, học sinh được quyền lựa chọn môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp của mỗi em.

    3. Trao quyền và trách nhiệm quản lý nhân sự và kinh phí cho ngành Giáo dục. Bất kỳ một thay đổi nào về chủ trương, chính sách đối với giáo dục cũng cần được cân nhắc kĩ lưỡng và quyết định trên cơ sở các quy định của pháp luật, tránh tình trạng dùng quyền lực để bẻ cong chính sách.

    4. Chính phủ và Quốc hội bảo đảm kinh phí dành cho giáo dục tối thiểu đạt 20% ngân sách nhà nước. Các địa phương và bộ ngành dành kinh phí cho giáo dục ít nhất bằng mức trung ương đã phân bổ; không sử dụng kinh phí này cho bất kỳ hoạt động nào khác. Người đứng đầu các cơ quan nói trên phải chịu trách nhiệm nếu phân bổ, sử dụng kinh phí cho giáo dục thấp hơn mức quy định. Cần tăng dần kinh phí cho giáo dục theo đà phát triển kinh tế của đất nước để dần dần bảo đảm tăng mức chi cho đầu tư.

    5. Đổi mới việc tuyển sinh và sử dụng cử nhân sư phạm: Tuyển sinh căn cứ vào nhu cầu nhân lực của các địa phương cụ thể. Bảo đảm bố trí việc làm cho tất cả sinh viên sư phạm ra trường.

     

    Thay lời kết

    Chữa bệnh cho Giáo dục cũng giống như chữa bệnh cho người. Có bắt đúng bệnh thì mới kê đơn, bốc thuốc hiệu quả được. Nhưng chữa bệnh kinh niên phải phối hợp nhiều loại thuốc, nhiều phương pháp để vừa trị bệnh vừa bồi bổ cho cơ thể có sức đề kháng. Điều quan trọng nhất là người bệnh phải quyết tâm chữa bệnh, từ đó không ngại dùng thuốc, không ngại thay đổi nếp sống cho phù hợp với yêu cầu chữa bệnh.

  • Kênh đào Funan Techo Campuchia và bài học hợp tác khai thác sông Mê Kông

    TS. Tô Văn Trường

    Sự quan ngại về kênh đào Funan Techo thể hiện qua phát biểu của một số chuyên gia tại cuộc họp ở Cần Thơ là cần thiết nhưng cần tránh phóng đại.

    Sau khi dự án kênh đào Funan Techo của Campuchia được phổ biến tại cuộc họp ở Cần Thơ ngày 23/4/2024, quan ngại của các chuyên gia tại cuộc họp rất đáng hoan nghênh. Phản biện khoa học cần lên tiếng nhưng muốn tiếng nói được lắng nghe, có trọng lượng cần phải có cơ sở khoa học và thực tế.

    Một số bài báo vừa qua, có tựa đề “giật gân” như: Campuchia đào kênh Funan Techo sẽ đảo lộn hệ sinh thái miền Tây; Kênh đào Phù Nam – Techo có thể lấy mất đến 50% lượng nước của sông Mekong; Kênh đào Funan Techo có thể đẩy Campuchia rời xa Việt Nam về phía Trung Quốc làm cho người dân hoang mang và lãnh đạo cũng băn khoan, lo lắng, trăn trở.

    1. Xuất xứ các thông tin về tuyến giao thông thủy nội địa Funan Techo

    Ngày 8/8/2023, Campuchia gửi thông báo cho Ban thư kí Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) về Dự án đường thủy nội địa Funan Techo. Một số thông tin về tuyến kênh:

    – Dài x rộng x sâu của tuyến kênh: LxBxH = 180 km x 50m x 4,7m;

    – Có 3 âu kiểm soát mực nước và lưu lượng tuyến giao thông (LxBxH: 135x18x5,8 m); Lưu lượng lớn nhất bình quân ngày qua âu là 3,6 m³/s.

    clip_image002

    Minh họa vị trí tuyến giao thông thủy Funan Techo và vị trí 3 khóa âu

    2. Tiềm năng nguồn nước sông Mê Công và tiềm năng nước về ĐBSCL

    Tiềm năng nguồn nước sông Mê Công

    Lưu vực sông Mê Công có diện tích khoảng 795.000 km², chảy qua địa phận của 6 quốc gia: Trung Quốc, Myanma, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam với chiều dài dòng chính là 4.800 km, tổng lượng dòng chảy hàng năm vào khoảng 475 tỷ m³. Sông Mê Công xếp thứ 21 trên thế giới về diện tích lưu vực, thứ 12 về chiều dài và thứ 8 về tổng lượng dòng chảy.

    TT

    Tên quốc gia

    Diện tích trong lưu vực (km²)

    % so với tổng diện tích lưu vực

    % so với tổng diện tích mỗi quốc gia

    % dòng chảy đóng góp

    1

    Trung Quốc

    165.000

    21

    16

    2

    Myanma

    24.000

    3

    2

    3

    Lào

    202.000

    25

    97

    35

    4

    Thái Lan

    184.000

    22

    36

    18

    5

    Campuchia

    155.000

    20

    86

    18

    6

    Việt Nam

    65.000

    9

    20

    11

     

    Tổng diện tích:

    795.000

    100

    Tổng dòng chảy năm:

    475 km³

    Tổng hợp thông tin về diện tích và đóng góp dòng chảy từ các quốc gia trên lưu lưu vực sông Mê Công

    Phân bố dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long

    Phân bố dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long bình quân giai đoạn từ 1995 đến 2020 qua Tân Châu và Châu Đốc vào khoảng 12.450 m³/s ứng với tổng lượng 394,2 tỷ m³; lưu lượng bình quân tháng nhỏ nhất là 3.114 m³/s với tổng lượng 8,1 tỷ m³/tháng.

    clip_image004

    Phân bố lưu lượng dòng chảy Mê Công về ĐBSCL hàng năm qua Tân Châu và Châu Đốc

    3. Đánh giá tác động của tuyến giao thông thủy nội địa Funan Techo

    Xây dựng kịch bản:

    Để xem xét ảnh hưởng trong trường hợp bất lợi nhất, vượt ra ngoài thông báo của phía Campuchia, thì tác động của tuyến kênh Funan Techo như thế nào?

    – Trường hợp 1: Nếu kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m³/s.

    – Trường hợp 2: Các âu mở tự do liên tục cả mùa lũ lẫn mùa kiệt (không kiểm soát lưu lượng qua âu như thông báo của Campuchia là 3,6 m³/s).

    – Trường hợp 3: như trường hợp 1 (các âu mở liên tục) kết hợp cấp nước nông nghiệp ở các tỉnh Kandal, Takeo, Kampot và Kep.

    Theo tính toán thủy lực, và kinh nghiệm của tôi về lưu vực sông Mê Công, thông qua tìm hiểu địa hình, các khu vực canh tác phía Tây Nam của Campuchia, thì diện tích có thể lấy nước tưới từ tuyến kênh Funan đạt khoảng 60.000 đến 80.000 ha tương đương với lưu lượng tưới gia tăng ước khoảng 50-70 m3/s.

    Vì thế, đối chiếu với lượng dòng chảy của sông Mekong, những người có chuyên môn về thủy văn và thủy lực nghe thông tin bình luận đào kênh Funan Techo sẽ lấy mất khoảng 50% lượng nước của sông Mekong về phía Việt Nam và đảo lộn hệ sinh thái miền Tây là hoàn toàn “võ đoán”.

    Kết quả mô phỏng thủy lực tóm tắt như sau:

    – Nếu Campuchia triển khai dự án và vận hành tuyến kênh theo thiết kế đã được thông báo cho Ủy hội sông Mê Công quốc tế: Kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m³/s so với tiềm năng nguồn nước sông Mê Công về đồng bằng qua Tân Châu và Châu Đốc là 12.450 m³/s thì tác động của dự án đến ĐBSCL của Việt Nam là không đáng kể.

    – Tuy nhiên, trong trường hợp 2 và 3 khi các cống để mở hoàn toàn cho nước trên kênh chảy tự do ra cảng Kep, kết hợp tưới thì dự án sẽ gây tác động đáng kể tới chế độ dòng chảy và lượng phù sa về ĐBSCL, đồng thời làm gia tăng diện tích xâm nhập mặn vào sâu trong đồng bằng. Với mục tiêu phục vụ mục đích giao thông thủy và nếu kết hợp phục vụ mở rộng diện tích tưới như tôi đã phân tích ở trên thì dự án sẽ có khả năng làm giảm lượng nước trên sông Hậu từ 5-13% trong mùa khô, từ 2-6% trong mùa mưa. Đồng thời khả năng lưu lượng trên sông Tiền sẽ bị giảm từ 2-4% trong mùa khô, từ 1-3% trong mùa mưa.

    – Sự sụt giảm lưu lượng dòng chảy về Việt Nam sẽ gây gia tăng xâm nhập mặn sâu hơn trên cả sông Tiền và sông Hậu, phạm vi lớn hơn và sớm hơn (xảy ra ngay tháng 12 và tháng 01 hằng năm). Đồng thời, lượng phù sa về ĐBSCL vốn đã suy giảm những năm gần đây do các đập trên thượng lưu của Trung Quốc sẽ tiếp tục bị giảm do việc triển khai Dự án. Ngoài ra, sự sụt giảm lưu lượng, mực nước cũng sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, làm giảm không gian sinh tồn của hệ sinh thái nước ngọt.

    – Do gia tăng xâm nhập mặn sâu với phạm vi lớn hơn và sớm hơn, có thể trùng với thời điểm cấp nước cho vụ Đông Xuân của vùng ĐBSCL, ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất của người dân, tác động đến ngành sản xuất lúa gạo của vùng.

    Giải pháp và bài học từ hợp tác khai thác sông Mê Công

    Để có thêm thông tin, trong khuôn khổ Hiệp định sông Mê Công 1995, Việt Nam hoàn toàn có quyền kiến nghị phía Campuchia hợp tác, cung cấp bổ sung thông tin với Ủy hội quốc tế sông Mê Công và Việt Nam, về: i) Qui trình vận hành 3 khóa âu; ii) Mục đích khác của tuyến kênh như phục vụ sản xuất nông nghiệp, diện tích cụ thể tưới bao nhiêu ha; iii) Kết nối tuyến kênh với hệ thống sông kênh rạch hiện hữu nơi tuyến kênh giao thông thủy cắt qua; iv) Giải pháp đảm bảo an toàn khi có sự cố xảy ra.

    Khi đó, các tác động bất lợi do tuyến kênh gây ra sẽ được tính toán đầy đủ và kiến nghị giải pháp giảm thiểu. Việc phối hợp giữa hai quốc gia trên tinh thần hợp tác sẽ càng củng cố thêm quan hệ giữa hai nước láng giềng cùng ở hạ nguồn lưu vực sông Mê Công ứng phó với các ảnh hưởng bởi các hoạt động phát triển thủy điện và nông nghiệp phía trên hạ lưu sông Mê Công từ phía Trung Quốc làm dòng chảy lũ giảm, phù sa và nguồn lợi thủy sản giảm, dòng chảy kiệt, trái qui luật.

    Không gì tốt hơn là để chính các chuyên gia người Campuchia thuyết phục các nhà chức trách của họ. Nên thành lập nhóm nghiên cứu chung giữa MRCS, Việt Nam và Campuchia. Kết quả các bên sẽ thống nhất quan điểm đánh giá tác động dự án và các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi đáp ứng yêu cầu của các cấp có thẩm quyền cả Việt Nam và Campuchia.

    Tôi có bài học kinh nghiệm rất đắt giá và thực tế là cuối thập niên 90 phía Campuchia phản ứng phê phán Việt Nam đào kênh đắp bờ ở Đồng Tháp Mười gây dâng mực nước làm ngập lụt phía Campuchia. Tôi cho mời ba chuyên gia người Campuchia sang Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam ngồi cùng nhau tính toán kiểm nghiệm mô hình thủy lực với chuyên gia Việt Nam. Hồi ấy, chưa có bộ mô hình MIKE thông dụng của Đan Mạch, chúng tôi đã chủ động cấp cho bạn phần mềm mô hình VRSAP của cố PGS – Anh hùng Lao động Nguyễn Như Khuê (kể cả chương trình nguồn). Kết quả tính toán mô phỏng cho thấy độ dâng mức nước do tác động của đắp bờ kênh phía Việt Nam không đáng kể và có giải pháp giảm thiểu. Chính các chuyên gia người Campuchia khi về nước đã thuyết phục lãnh đạo nước họ, nên mọi sự kết thức có hậu.

    Điều cần rút ra từ các thông tin gây hoang mang dư luận vừa qua cho thấy: i) Các cơ quan chuyên môn của Việt Nam cũng đã có những đánh giá ban đầu dựa trên những thông tin mà bạn chia sẻ cung cấp cho các cơ quan cấp trên, những kết quả tính toán bổ sung cho thấy trong các trường hợp bất lợi thì tác động của tuyến kênh là không lớn; ii) Một số bài viết trước những vấn đề nhạy cảm nhưng lại tiếp cận các nguồn tin thiếu tin cậy, thiếu kiểm chứng, giật tít không đúng sự thực, làm đẩy dư luận đi trái với mục đích quan hệ láng giềng hữu nghị Việt Nam – Campuchia cũng như những cam kết thỏa thuận trong hợp tác ở Ủy hội sông Mê Công của các nước trên lưu vực trong đó có Việt Nam và Campuchia.

    Sự quan ngại về kênh Funal Techo thể hiện qua phát biểu của một số chuyên gia tại cuộc họp ở Cần Thơ là cần thiết nhưng cần tránh phóng, đến khi các số liệu được minh chứng qua tính toán và thực tế sẽ làm mất uy tín không chỉ của cá nhân mà cả quốc gia.  

    Thay cho lời kết

    Tuyến giao thông thủy nội địa Funan Techo của Campuchia nằm hoàn toàn trên đất Campuchia được xem là quyền lợi khai thác phát triển, phù hợp với lợi ích hợp tác và phát triển của nước bạn. Campuchia đã thực hiện thông báo trước, thông tin về dự án theo Hiệp định Mê Công 1995, mặc dù lưu lượng mà họ dự kiến qua tuyến kênh là rất nhỏ.

    Giả thiết rằng, dự án giao thông thủy nội địa Funal Techo của Campuchia sau khi xây dựng được giám sát thực hiện đúng như thông báo của Campuchia tới Ủy hội sông Mê Công thì việc mất đi một lượng nước 3,6 m³/s là rất nhỏ so với tiềm năng dòng chảy sông Mê Công. Nếu tuyến kênh này sử dụng đa mục tiêu là kết hợp gia tăng sản xuất nông nghiệp dọc theo tuyến giao thông thủy Funal Techo thì ảnh hưởng của việc mất đi lượng nước sẽ lớn hơn, tuy nhiên cũng không đáng kể so với tiềm năng nguồn nước sông Mê Công.

    Hơn nữa, các tác động này là hoàn toàn có thể giảm thiểu thông qua hợp tác Ủy hội sông Mê Công, giám sát và kiểm soát lượng nước chảy qua các cửa van theo thông báo của Campuchia.

     

    Ngày nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đặc biệt là Ủy ban sông Mê Công Việt Nam cần nâng cao vai trò của mình, phối hợp chặt chẽ với Ban Thư ký Ủy hội sông Mê Công quốc tế, Campuchia và các quốc gia thành viên Ủy hội để thúc đẩy thực hiện nghiên cứu về tác động của Dự án; đồng thời, đề xuất các biện pháp giảm thiểu, giám sát tác động của dự án kênh đào Funan Techo và các phát triển thượng nguồn nói chung để hỗ trợ sát thực hơn công tác quản lý khai thác nguồn tài nguyên nước của lưu vực sông Mê Công vững bền vì lợi ích chung của cả lưu vực.

    Nguồn: https://nongnghiep.vn/tri-thuc-nong-dan/kenh-dao-funan-techo-campuchia-va-bai-hoc-hop-tac-khai-thac-song-me-kong-d383989.html

  • Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh

    Tô Văn Trường

     

    Nhiều người hỏi tôi bình luận về bài báo đăng trên Tuổi Trẻ “Chủ tịch UBND tỉnh Đắc Nông lo mắc nợ dân về vì quy hoạch bô xít”.

     

    image

    Đoàn công tác Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm tra thực tế tại khai trường khai thác bô xít ở xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’Lấp, Đắk Nông – Ảnh: TRUNG TÂN (Tuổi trẻ)

     

    Cái gì đến sẽ đến vì đã được người dân và nhiều nhà khoa học cảnh báo từ khi chủ trương khai thác bô xít Tây Nguyên, đặc biệt là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết thư khuyên can gửi lãnh đạo Đảng và Chính phủ.

    Đúng là đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Ngẫm suy tài nguyên được xem là  nguồn vốn quý của quốc gia nhưng không phải là vô hạn. Tình trạng khai thác lãng phí, thiếu quy hoạch càng làm cho nguồn vốn này mau cạn kiệt. Ăn vào vốn tài nguyên là con đường kiếm tiền nhàn hạ nhất, nhanh nhất nhưng đó cũng là nguyên nhân gây nên những hậu quả không ai lường hết được. Càng ngày, mọi người càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của khoa học công nghệ và vai trò tư vấn phản biện của các nhà khoa học trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược, nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất là những vấn đề liên quan đến tài nguyên và môi trường.

    Ngay từ năm 2009-2010, nhờ có phản biện xã hội, người dân mới biết được thực trạng tình hình của đất nước. Dự án bô xít Tây Nguyên là một dự án gây chia rẽ sâu sắc nhất trong lòng người dân Việt Nam, đặc biệt giữa “chức sắc” và nhân sĩ, trí thức. Cảm nhận được sự bất an, nguy hiểm và tìm cách đổ lỗi cho người chủ trương đóng tàu. Bằng chứng là Thứ trưởng Bộ Công thương Lê Dương Quang  phát biểu: “Chuyển nhà máy xuống bờ biển về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế thì đưa xuống biển là hợp lý nhất. Nhưng Bộ Chính trị yêu cầu để trên Tây Nguyên vì không chỉ là yếu tố kinh tế mà còn là yếu tố xã hội. Để nhà máy trên đó giúp phát triển Tây Nguyên. Chính vì thế hiệu quả kinh tế không cao và giờ thêm khảo sát, thuê tư vấn xem xét lại, tính thêm phương pháp thải khô thì chưa biết sẽ tác động đến hiệu quả thế nào, chắc chỉ tác động xấu đi thôi…” (Tuổi trẻ ngày 25/10/2010).

    Nhớ lại, ngay từ năm 2009 -2010  tôi đã viết một loạt khoảng chục bài phản biện và trả lời phỏng vấn của báo chí liên quan đến dự án bô xít. Có lần ba chuyên gia Trung Quốc đề xuất xin gặp riêng nhưng tôi khước từ.

    1.     Phản biện xã hội và dự án bô xít Tây Nguyên (Tô Văn Trường)

    2.     Các lỗ hổng bất cập của dự án bô xít Tây Nguyên (Tô Văn Trường)

    3.     Bùn đỏ trông người lại ngẫm đến ta (Tô Văn Trường)

    4.     Bùn đỏ Hungary thảm hoạ và dự đoán (Tô Văn Trường)

    5.     Các lỗ hổng trong thiết kế bùn đỏ Tây Nguyên (Tô Văn Trường)

    6.     Dừng dự án bô xít Tây Nguyên được và mất (Tô Văn Trường)

    7.     Lại nói về dự án bô xit Tây Nguyên (Tô Văn Trường)

    8.     Dự án bô xít Tây Nguyên và lối ra rẻ nhất cho đất nươc (Tô Văn Trường)

    9.     Lời cuối cho bô xít Tây Nguyên (Tô Văn Trường)

     

    Đánh giá dự án bô xít Tây Nguyên

    Bô xít trong quy hoạch của 33 khoáng sản đã được Thủ tướng phê duyệt là không căn cứ vào nhu cầu tiêu dùng alumina của nền kinh tế, chỉ dựa trên ý thích của TKV xuất khẩu alumina (Al2O3) rẻ tiền, lợi nhuận thấp. Càng không tính đến bài toán về "chi phí cơ hội" khi chế biến sâu sản lượng 1,3 triệu tấn Al2O3 alumina hiện có.

    Việc chế biến sâu alumina Al2O3 bằng công nghệ điện phân nhôm nhập khẩu từ Trung Quốc (bằng sử dụng điện cực âm làm từ graphit, vừa lạc hậu, vừa ô nhiễm môi trường) như được đề xuất trong dự án của Trần Hồng Quân cũng chỉ mới sản xuất được NHÔM THÔ, và chắc chắn không có hiệu quả kinh tế vì chi phí điện rất cao (nếu "nhóm lợi ích" không được mua điện của EVN với giá <1200 đ./kWh).

    Nói chung, quy hoạch phát triển theo tư duy rất ấu trĩ.

    Hiện nay, thế giới đang loại bỏ việc sử dụng điện cực âm graphit vì phát thải carbon. Còn mở rộng khai thác bô xít như quy hoạch đưa ra sẽ tiếp tục xâm hại môi trường đất trên Tây Nguyên.

    Nhu cầu về nhôm trên thế giới trong thời gian gần đây tăng bình quân 6%/năm. Giá nhôm kim loại giai đoạn 2013÷2065 sẽ tăng tăng bình quân 1,09%/năm.  Tiềm năng quặng bô xít (chứa nhôm) trên thế giới dự báo sẽ cạn kiệt sau năm 2085.

    Công nghệ sản xuất nhôm ngày càng được hoàn thiện trong tất cả các khâu theo hướng nâng cao hiệu quả và ngày càng thân thiện với môi trường. Cụ thể là trong khai thác bô xít nâng cao tỷ lệ thu hồi quặng nguyên khai, giảm tỷ lệ tổn thất quặng tinh, giảm chất thải quặng đuôi, hạn chế tối đa diện tích chiếm đất của bãi thải quặng đuôi.

    Trong sản xuất alumina, chuyển từ công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô”; giảm tiêu hao nhiệt; áp dụng công nghệ “lò tầng sôi” thay cho lò trống quay; giảm tiêu hao xút; nâng cao hiệu suất phân hủy; hoàn thiện quy trình phân lập aluminat-bùn đỏ; thải bùn đỏ ra môi trường với tỷ lệ chứa xút thấp nhất; xử lý, chế biến tổng hợp bùn đỏ để thu hồi các kim loại quý bằng lò “Magma” hoặc bằng công nghệ florua.

    Trong điện phân nhôm, giảm tiêu hao điện năng; áp dụng các máy điện phân tiên tiến có hiệu suất dòng tối đa; loại bỏ dần điện cực carbon; áp dụng công nghệ cực âm khô được làm ướt; áp dụng công nghệ cực dương trơ; áp dụng công nghệ clorua; tiến tới không có phát thải. Trong tinh chế nhôm kim loại, áp dụng công nghệ lò chùm tia điện tử để sản xuất nhôm có độ tinh khiết cao. Trong sản xuất các hợp kim nhôm, hướng tới sản xuất các vật liệu (từ nhôm và từ ô xít nhôm) có hàm lượng công nghệ cao. Trong tái chế nhôm, áp dụng các qui trình tuần hoàn ít chất thải; nâng cao chất lượng nhôm kim loại được tái chế (đáp ứng 30% tổng nhu cầu nhôm).

    Về thời gian: Trong quy hoạch chung về khoáng sản của Việt Nam đã được phê duyệt (Quyết định số 866/QĐ-TTg, ngày 18/7/2023), lĩnh vực bô xít đã được “vẽ” ra với qui mô và tiến độ rất không khả thi.

    Về không gian: Việc tổ chức phát triển ngành công nghiệp nhôm ở Việt Nam có rất nhiều bất cập cơ bản về lựa chọn địa điểm xây dựng, cho đến nay vẫn không thể khắc phục được, và sẽ làm giảm tính cạnh tranh của ngành công nghiệp nhôm.

    Về qui mô: Chi phí đầu tư của các dự án alumina được lựa chọn quá lớn theo cảm tính, trong khi các dự án điện phân không được triển khai và không triển khai được. TKV vẫn là nhà xuất khẩu nguyên liệu thô cho công nghiệp nhôm của các nước.

    Về công nghệ: Việc sản xuất alumina theo quy trình Bayer từ bô xít Tây Nguyên của Việt Nam rất thuận lợi (do hàm lượng silica SiO2 khá thấp), dễ làm, được triển khai bằng các thiết bị lạc hậu (lỗi thời), nhưng của nhà thầu không có kinh nghiệm cung cấp. Vì vậy, hiệu quả của các dự án bị giảm đi đáng kể, rất thấp và không tương xứng với chất lượng quặng.

    Dự án điện phân nhôm được triển khai tại Nhân Cơ cũng hội tụ đủ các bất cập về địa điểm, qui mô, lựa chọn công nghệ, nhà thầu, v.v. Đặc biệt, nếu sử dụng điện lưới theo cơ chế thị trường, dự án điện phân nhôm Trần Hồng Quân có nguy cơ sẽ trở thành “dự án thứ 13” của Bộ Công thương.

    Khuyến nghị

    Cần tổ chức tổng kết một cách thực chất, bài bản, và đặc biệt phải khách quan đúng theo kết luận của Bộ Chính trị trong Thông báo số 245-TB/TW ngày 24/4/2009 về việc “cần đánh giá toàn diện, tổng thể và khách quan về hiệu quả kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường, an ninh, quốc phòng… của hai dự án bauxite thí điểm”

    Trên cơ sở đó, cần soạn riêng “Quy hoạch phát triển tổng thể công nghiệp nhôm của Việt Nam”. Trong đó, phải thực sự tính đến các yếu tố: chính trị-xã hội; kinh tế-tài chính; khoa học-công nghệ; hợp tác quốc tế, v.v. để phát triển có hiệu quả và phát triển bền vững ngành công nghiệp nhôm của Việt Nam.

    Phải ưu tiên tính đến nhu cầu về “không gian sinh tồn” của dân tộc: Trong tương lai, do biến đổi khí hậu, khi nước biển dâng, cần hạn chế tối đa các nguy cơ về bùn đỏ và nguy cơ chiếm dụng đất ngày càng lớn trên Tây Nguyên.

    Lựa chọn địa điểm triển khai các dự án một cách khoa học, có tính đến bài toán vận tải (cung ứng các nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ/xuất khẩu các sản phẩm đầu ra) và bài toán về cung cấp năng lượng (điện năng).

    Phát triển công nghiệp nhôm với qui mô phù hợp, nhưng phải đồng bộ các khâu từ khai thác quặng bô xít, điện phân nhôm đến sản xuất các sản phẩm từ nhôm (đúc, cán, hợp kim, v.v.).

    Chỉ đưa ra thị trường các sản phẩm nhôm có giá trị gia tăng cao (thị trường “ngách”) để xuất khẩu và/hoặc để phát triển tại Việt Nam ngành sản xuất vật liệu công nghệ cao từ nhôm.

    Hạn chế các dự án có qui mô lớn, nhưng không đồng bộ, không có chế biến sâu đến sản phẩm kim loại. Không cấp phép mở rộng sản xuất alumina nếu chỉ để xuất khẩu nguyên liệu thô;

    Trong phê duyệt, cấp phép và đấu thầu triển khai các dự án nhôm cần sử dụng các hội đồng tư vấn độc lập và mang tính phản biện. Nội dung đánh giá phải cụ thể và toàn diện các vấn đề: tính khả thi về tài chính kinh tế; tính khả thi về công nghệ kỹ thuật; tính khả thi về môi trường sinh thái.

  • Phải an dân mới được lòng dân

     Tô Văn Trường

     

    Có lần tôi nghe báo chí tường thuật Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi nói chuyện với đại biểu cử tri ở Hà Nội có câu nói rất chí lý: “Được lòng dân là được tất cả” làm tôi nhớ lại ba sự tích xưa kia đã được ghi vào sử sách.

    (more…)

  • Cần hiểu và sử dụng đúng các khái niệm pháp luật

    Tô Văn Trường

    Theo dõi cuộc tranh luận hiện nay về việc giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức biên soạn một bộ sách giáo khoa (SGK), tôi thấy nhiều ý kiến rất xác đáng, thuyết phục nhưng cũng có những ý kiến hình như thoát ly khá xa các quy định và khái niệm pháp luật.

    (more…)

  • Bình luận về Dự án giao thông thủy Funan – Techo nối sông Mekong với biển ở Campuchia

    Tô Văn Trường

    Chuyên gia độc lập tài nguyên nước và môi trường

    Thông tin chung của Dự án

    Theo thông tin từ Ban Thư ký Ủy hội sông Mekong, Ủy ban sông Mekong Campuchia đã gửi thư số CNMC 731/23 ngày 08/8/2023 về việc thông báo Dự án đường thủy nội địa “Kênh Funan-Techo”. Dự án thực hiện thành 02 đoạn. Đoạn đầu có điểm tại dòng suối tự nhiên Preak Takeo nằm ở quận Kien Svay và kết nối với dòng suối tự nhiên Preak Ta Ek tại huyện Saang tỉnh Kandal. Đoạn thứ 2 bắt đầu tại dòng tự nhiên Preak Ta Hing tại Koh Thom tỉnh Kandal và kết nối với dòng suối đã có của tỉnh Takeo, Kampot và Kep. Đoạn thứ nhất của dự án nằm trên dòng nhánh Mekong, đoạn thứ hai nằm trên phần phụ lưu sông Bassac (cùng là dòng nhánh Mekong). Mục đích của dự án để vận tải và kết nối giao thông thủy nội địa. Dự án khởi động xây dựng vảo năm 2024, hoàn thành năm 2027 và đi vào hoạt động năm 2028.

    (more…)

  • Đúng là vãi với con số thống kê!

    Tô Văn Trường

    Tôi đã có số bài viết phân tích về các phương pháp thống kê của Việt Nam còn nhiều vấn đề phải suy ngẫm, điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ nói về sự “méo mó” đáng sợ liên quan đến con số thống kê khi người ta giật tít trên báo và dựa vào con số công bố của cơ quan nhà nước. Bạn đọc rất ngạc nhiên khi báo Dân Trí có tít: “Hơn 210 nghìn tỷ đồng đổi mới chương trình, sách giáo khoa”, tác giả Huyên Nguyễn, thứ Bảy 23/09/2023.[*]

    (more…)

  • Không thể đổi mới bằng tư duy cũ

    Tô Văn Trường

    Hồi tôi còn nhỏ, cả nhà chỉ có một chiếc xe đạp cà tàng để bố tôi đi làm hàng ngày. Chiếc xe đã tróc sơn nhưng được cả nhà nâng niu như báu vật. Mỗi lần, chiếc săm cũ xì hơi thì bố tôi lại loay hoay tháo bánh, tháo săm đem ra ông thợ đầu phố. Những miếng vá ngày càng chằng chịt nhưng cũng không thể mua săm mới. Bởi vì cả miền Bắc lúc ấy chỉ có một nhà máy duy nhất (quốc doanh) làm xe đạp và một nhà máy duy nhất (cũng quốc doanh) làm săm lốp. Cũng như cái xe, săm lốp là mặt hàng phân phối, không phải ai cũng được mua; và ngoài cơ quan hành chính, nơi bố tôi công tác, bình bầu rồi phân phối cho, đố mua ở đâu được!

    (more…)

  • Đừng quay lại ‘độc quyền’ sách giáo khoa

    Tô Văn Trường

    Vấn đề sách giáo khoa là một mớ bòng bong, đi một chặng đường dài rồi vẫn trong tình trạng “đi mắc núi, ở lại mắc sông”!

    Theo phản ánh của báo chí, chiều 27/7/2023, tại buổi làm việc của Đoàn giám sát của Quốc hội về thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông (GDPT) với Chính phủ, đã xuất hiện những ý kiến trái chiều về việc đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức biên soạn một bộ SGK “của Bộ”.

    Có đại biểu cho rằng vẫn cần phải có một bộ SGK do Bộ biên soạn như quy định tại Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội khoá XIII.

    Còn theo đại biểu Trần Văn Lâm, trước hết, cần đánh giá và xác định lại quan điểm sử dụng SGK trong chương trình mới. Nếu coi SGK chỉ là một tài liệu dạy học thì cần cởi mở hơn trong biên soạn SGK, để thị trường tự quyết định; học sinh sử dụng sách nào cũng được, không cần thống nhất trong toàn trường, toàn tỉnh. Nhưng nếu vẫn xem SGK là căn cứ quan trọng để dạy học như trước thì nên chăng cần quay lại có một bộ SGK thống nhất.

    (more…)

  • Thưa bà Bộ trưởng Y tế, bà phải làm gì đi chứ!

    Tô Văn Trường

    Người dân thấu hiểu: vượt lên những đau thương và mất mát, năm 2021 đã cho chúng ta những bài học xương máu về quản trị quốc gia từ đại dịch COVID-19.

    Một dân tộc cường thịnh, trước hết hãy nhìn vào sức mạnh của ngành y tế và sự thụ hưởng về chăm sóc sức khoẻ của người dân. Do đó, chúng ta cần có một triết lý về y tế. Quả thực là vô cùng khó đối với những việc có liên quan đến tính mạng, niềm tin, sức khoẻ con người, mà lại không thể cưa đứt đục suốt theo cơ chế thị trường.

    Nền y tế của Việt Nam phục vụ cho ai, theo tiêu chuẩn nào, ai là người trả tiền? Quyền lợi chăm sóc sức khỏe giữa người nghèo và người giàu khác nhau chỗ nào? Người có chức quyền, có quan hệ và người dân bình thường có công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế? Nếu đã không công bằng thì nên phân cấp như thế nào? Chính sách giữa y tế công và y tế tư khác nhau ra sao? Cơ sở khoa học lý luận nào cho sự khác biệt đó? V.v.

    Có lần tôi tiếp xúc với cán bộ y tế của một bệnh viện ở Thái Bình, được biết ngay cả việc xét nghiệm máu cũng hạn chế vì thiếu hoá chất. Về xét nghiệm máu, theo tôi biết các máy xét nghiệm hầu như đều được các hãng bán rất rẻ. Vấn đề là máy của hãng nào sẽ dùng hóa chất của hãng đó. Các bệnh viện, hay sở y tế không thể mua hóa chất từ chính hãng. Họ phải mua qua các đại lý (đại lý cấp 1, hay cấp 2). Đấu thầu thì các đại lý đấu với nhau. Do đó tình trạng thông thầu là rất cao.

    Một kết quả xét nghiệm chính xác đòi hỏi các yếu tố: thiết bị, hóa chất và kỹ thuật. Bộ Y tế không có bất cứ đơn vị hay bộ phận nào đánh giá, kiểm tra các yếu tố trên tại các bệnh viện.

    Cử tri vẫn còn nhớ một đại biểu Quốc hội, cũng là Giám đốc một bệnh viện từng phát biểu: “Những khó khăn trước đây như thu nhập nhân viên y tế thấp, mua sắm, đấu thầu trang thiết bị, thuốc… đến nay không được cải thiện mà còn tệ hơn bao giờ hết", “…đi đâu cũng vướng, làm gì cũng có thể sai, bởi hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh.”

    ‘Cán bộ y tế rất hoang mang vì làm gì cũng có thể sai’  – https://vnexpress.net/can-bo-y-te-rat-hoang-mang-vi-lam-gi-cung-co-the-sai-4470608.html

    "Hiện nay nhiều người cho rằng, bây giờ làm việc gì cũng sợ sai, làm xong rồi cũng không biết có sai hay không, sai cũng không biết sai chỗ nào và thậm chí không làm gì cũng có thể dẫn đến sai phạm."

    ‘Bây giờ làm gì cũng sợ sai, thậm chí không làm gì cũng có thể sai phạm’  – https://thanhnien.vn/bay-gio-lam-gi-cung-so-sai-tham-chi-khong-lam-gi-cung-co-the-sai-pham-post1464676.html

    “…chậm thanh toán đã gây tổn thương đến tinh thần của lực lượng tuyến đầu khi tham gia chống dịch”

    Đại biểu Quốc hội: Chậm thanh toán phòng chống dịch Covid-19 do sợ sai, sợ trách nhiệm?  – https://thanhnien.vn/dai-bieu-quoc-hoi-cham-thanh-toan-phong-chong-dich-covid-19-do-so-sai-so-trach-nhiem-post1539918.html

    Sau hai năm thí điểm, tất cả bệnh viện trong nhóm thí điểm đều từ chối tiếp tục tự chủ toàn diện. Bệnh viện lỗ, không có tiền đầu tư thiết bị, thu nhập thấp, cán bộ y tế chuyển sang bệnh viện tư… là các lý do chính được đặt ra.

    Bệnh viện ‘đồng thanh’ từ chối tự chủ toàn diệnhttps://tuoitre.vn/benh-vien-dong-thanh-tu-choi-tu-chu-toan-dien-20221018222929722.htm

    …tự chủ hiện nay không phải tự chủ đúng nghĩa, chỉ tự chủ trên danh nghĩa, giao tự chủ cho các bệnh viện nhưng lại "trói chân, trói tay họ lại, quẳng xuống sông rồi bảo anh tự bơi đi" – vậy thì làm sao họ có thể bơi được?

    Không thể tự chủ bệnh viện trên danh nghĩahttps://laodong.vn/xa-hoi/khong-the-tu-chu-benh-vien-tren-danh-nghia-1114377.ldo

    Vậy mà có vẻ như dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh sẽ được thông qua trong vài ngày tới vẫn còn quá nhiều vướng mắc.

    …Dự thảo quy định các bệnh viện tự chủ được tự chủ trong tổ chức nhân sự, tài chính, song lại nói “theo quy định của pháp luật” mà không rõ là luật nào.

    …Dự thảo luật nói cho phép các bệnh viện tự chủ chi đầu tư và chi thường xuyên được quyền làm một số việc như xác định giá, tổ chức bộ máy, nhân sự… song “đọc kỹ vào từng điều khoản của dự thảo thì thấy các quyền này gần như không thực hiện được”.

    Vẫn loay hoay với giá khám, chữa bệnhhttps://thanhnien.vn/van-loay-hoay-voi-gia-kham-chua-benh-post1539753.html

    Tức là vấn đề nóng vẫn còn nóng, bao nhiêu vướng mắc vẫn còn đó. Bởi vì theo luật mới, làm việc gì cũng vẫn có thể là sai phạm! Luật mới nói là “mở” nhưng vẫn “thòng” theo điều kiện “trói” bởi những luật khác. Như thế này thì làm thế nào ngành y tế có thể cải thiện tình hình được? Thưa bà Bộ trưởng Y tế, bà phải làm gì đi chứ!!!

    Người dân qua theo dõi, nhận thấy tự chủ đã được thí điểm, nhưng có cũng như không, vì chỉ trao quyền hình thức, có được quyết gì đâu? Nếu có quyết, mà bị phát hiện ra sai sót thì bị xử luôn (ví dụ như ở bệnh viện Bạch Mai). Thảo luận dự luật khám chữa bệnh sửa đổi nhiều ý kiến rất xác đáng, nhưng Bộ trưởng Y tế không có chuyên môn nghiệp vụ, làm sao mà biết tiếp thu? Cơ chế làm luật trao cho cơ quan soạn thảo quyền được tiếp thu hay không tiếp thu.

    Đến lượt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền trình ra các ý kiến của mình và các đại biểu Quốc hội đồng tình bấm nút, ngoại trừ một số đại biểu Quốc hội có trình độ và bản lĩnh, bởi thế khá nhiều luật của ta làm ra chưa “ấm chỗ” đã phải sửa đổi!

    Xin có mấy câu thơ thay cho lời kết của bài viết này:

    MẤT BÒ MỚI LO LÀM CHUỒNG

    Ai sống chỉ bằng lương?

    Thường dân – Họ tự kiếm

    Quan chức – Cũng khá hiếm

    Ngoài lương, phải làm thêm

     

    Muốn gia đình ấm êm

    Với nguồn thu chính đáng

    Hỏi cả trong, ngoài Đảng

    Có mấy người, thử xem?

     

    Không bổng lộc đi kèm

    Thì “cạp đất" mà sống?

    Hỏi đâu là lỗ hổng

    Trong cơ cấu hiện hành?

     

    Chỉ những vị "hiền lành"

    Mới không thấy điều ấy

    Công bằng sao lại vậy

    Muốn sống, phải tự lo?

     

    Ngành y tế "mất bò"

    "Mới lo làm chuồng" đấy

    Cũng như Giáo dục vậy

    Chẳng khác gì nhau đâu

     

    Quốc hội bàn còn lâu

    Việc nóng chưa thấy nguội

    Ngành chủ quản bối rối

    Thế thì dân mất nhờ!!!

  • Nan giải về bài toán hòa giải dân tộc

    Tô Văn Trường

    Trong mọi vận động và phát triển của xã hội cũng như các thành phần của xã hội luôn tồn tại mâu thuẫn ở quy mô khác nhau về lợi ích, cần có nhu cầu giải quyết. Tùy theo mức độ mâu thuẫn và cách ứng xử mà việc giải quyết mâu thuẫn có thể được sử dụng là biện pháp bạo lực (ở quy mô lớn là chiến tranh) hay phi bạo lực được gọi là giải pháp hòa giải.

    Bản chất của hòa giải là giải pháp bảo đảm quyền lợi vật chất và tinh thần của mỗi bên mâu thuẫn dựa trên sự tôn trọng những chuẩn mực pháp lý, đạo đức, văn hóa xã hội đã được thừa nhận hay quy định để giải quyết mâu thuẫn. Để thực hiện được hòa giải thực sự đối với những sự việc đã xảy ra và hậu quả không mong muốn đang tồn tại cần phải nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá, hàn gắn các vết thương, thấy được các lỗi lầm, sai sót, đó là xét đúng sai của việc đã rồi, để không lặp lại quá khứ.

    Trong thực tế đã có nhiều người và tổ chức bàn về hòa giải, hòa hợp. Trong khi chủ quyền đất nước vẫn còn đang bị xâm lấn, nền kinh tế đất nước vẫn nghèo khó và đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng bởi nạn tham nhũng… mà chỉ bàn hòa giải bằng những từ kêu gọi hoa mỹ về hòa hợp dân tộc, đó chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch sáo mòn. Hay hòa giải chỉ bảo đảm lợi ích tức thời cho một nhóm nhỏ (nhóm lợi ích) mà làm tổn hại đến lợi ích dân tộc và tương lai thì đó là sự vô trách nhiệm đồng nghĩa với tội ác, còn tệ hại hơn câm lặng nhiều lần.

    Nói theo ngôn ngtrong toán học, hòa giải là loại bài toán không dễ giải (loại NP-hard). Chừng nào người dân còn chưa được hưởng quyền tự do dân chủ thực sự, chừng nào 61 người ký tên vào bản thư ngỏ, chắc chắn còn là nguyện vọng của nhiều trí thức đảng viên có tâm huyết với đất nước, còn được liệt vào danh sách đen, chừng nào xã hội nhiều mặt còn không được tử tế như xưa và chừng nào ngay trong nội bộ phe thắng cuộc cũng còn chưa hoà giải được, thì đừng nói chi đến hoà giải với bên thua cuộc.

    Hòa giải dân tộc chỉ có được khi chính dân tộc này tự vượt lên được chính mình để thay đổi chính mình. Một khi có được Việt Nam của hòa giải dân tộc, đấy sẽ đúng là một Việt Nam của người Việt Nam với tất cả ý nghĩa cao đẹp nhất, như khi nó đã trở thành ước nguyện và hành động của mọi tầng lớp xã hội để làm nên Cách mạng Tháng Tám.

    Nhà triết học giáo dục Mỹ John Dewey từng nói: “Một gam kinh nghiệm tốt hơn một tấn lý thuyết”. Với lịch sử chiến tranh triền miên, sự đô hộ của nhiều chế độ đế quốc phong kiến và hơn 40 năm thống nhất đất nước của dân tộc ta thì cần phải thêm vào đó sự trải nghiệm mới thấy hết được sự cần thiết của vấn đề hòa giải dân tộc. Theo tôi hiểu, kinh nghiệm hay trải nghiệm hai từ này nhiều người vẫn lẫn lộn là một! Bởi vì “kinh nghiệm”, có thể lấy (vay mượn) từ người khác, làm sao sánh được với “trải nghiệm” – trả giá bằng chính cuộc đời mình, của cả một thế hệ!

    Viết bài “nhạy cảm” này, dễ đụng chạm, nhưng vào đúng dịp năm hết, tết đến, con người ta dễ xuề xòa, chín bỏ làm mười, “đại xá” cho nhau. Người xưa thường nói “lạt càng mềm thì buộc càng chặt”, và “nói ngọt lọt đến xương” cho nên có “rào” (với vua, quan) và “đón” với cả bên “thắng” và bên “thua” cuộc (thực ra là cả hai bên đều thua, mỗi bên thua một phách mà thôi!).

    Trong mâm ngũ quả ngày tết, trên ban thờ tổ tiên đầy ắp trái cây màu xanh, màu vàng mươn mướt thì sẵn nhưng vào dịp tết xưa hơi hiếm trái cây màu đỏ nên có người còn mạnh tay ghim vào, điểm xuyết cả mấy trái ớt đỏ au, roi rói cho rộn ràng, đa sắc. Ớt là cái tên dân dã để chỉ cái trái cay xé lưỡi, còn tên chữ nghĩa của nó là “phản biện” đấy, cay nhưng không thể thiếu nó trong các mâm cơm, nhất là ngày tết.

    Một vài bài học lịch sử về hòa giải, hòa hợp

    Lịch sử nhân loại cũng như ở nước ta lưu truyền nhiều lắm những sự kiện – bài học lịch sử về hòa giải, hòa hợp đã đem lại động lực bảo đảm sự bình yên phát triển của xã hội, và cũng không ít sự kiện không tận dụng được sức mạnh của hòa giải đã gây ra bao đau khổ, tàn phá ở nhiều nước và cả nhân loại.

    Kể về câu chuyện thời nhà Trần sử xanh còn ghi lại: Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã có mối hiềm khích từ rất lâu, do mâu thuẫn chi tộc (dòng chính, dòng thứ) và bất hòa cá nhân, ai ai cũng đều biết, kể cả binh tướng. Giữa lúc binh hùng tướng mạnh của đế quốc Nguyên Mông đang lăm le ào tới như thác đổ chỉ trong ngày một, ngày hai… Quốc gia lâm nguy, ngàn cân treo trên sợi tóc – trong / ngoài bê bối, rối như canh hẹ!

    Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”. Trần Quang Khải cũng nói: Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho” (Đại Việt Sử ký Toàn thư).

    Cuộc tắm gội lịch sử đó diễn ra ở ngay mũi thuyền, ba quân tướng sĩ đếu thấy, như trút được gánh nặng, toàn quân đều nức lòng đánh giặc giữ nước. Ôi, những gáo nước thơm thiêng liêng xối xuống đã làm trôi tuột đi những mối hận riêng tư, những vết mờ không đáng có trong lịch sử, giúp cho xã tắc có một sức mạnh quật cường hơn cả những ngọn sóng thần, nhấn chìm tan tác lũ sói lang xâm lược xuống đáy sông! Những cái cọc vô tri vô giác trên sông Bạch Đằng vẫn còn đó, lập lờ dưới dòng linh giang như nhắc nhở những ai còn nghĩ tới nợ nước thì hãy khép lại thù nhà nhỏ nhoi cho khỏi mang lỗi với tổ tông!

    Sau khi đánh bại quân Nguyên, các quan dâng lên vua Trần Nhân Tông tài liệu về những người từng đầu hàng giặc, xin xử lý, thì nhờ có vua anh minh, nhìn xa, trông rộng, chủ trương hòa giải, nên không đọc mà ra lệnh đốt hết tài liệu để yên lòng người.

    Cũng chưa lâu lắm, mới chỉ ở thời Hậu Lê trong hoàn cảnh đất nước đã đánh đuổi được ngoại xâm, chỉ vì mâu thuẫn lợi ích của các Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đã gây ra cuộc chiến phân tranh kéo dài hàng trăm năm. Nếu hòa giải và hòa hợp được sử dụng, chắc chắn lịch sử nước nhà đã có được một cơ hội phát triển tốt đẹp hơn nhiều.

    Thập niên 30, Hoàng đế Nhật Bản chinh phục Mãn Châu và thành lập Mãn Châu Quốc. Hai vị lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Nhật, đã chủ động từ bỏ lý tưởng của mình, để ủng hộ Hoàng đế Nhật. Họ cho rằng phải làm như thế vì lòng yêu thương những người thân trong gia đình, ý thức coi mình là người của nhân dân, và thay đổi lại ý thức hệ vì lợi ích của dân tộc. Từ đó, phong trào Đảng Cộng sản Nhật Bản suy yếu hẳn đi như ngày nay chúng ta đều biết.

    Sau Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh sử dụng các nhà trí thức và giới tư sản của chế độ thuộc địa, cả vua Bảo Đại, nhờ thế có nguồn lực nhân tài và tài chính mà xây dựng chính quyền và kháng chiến. Rõ ràng mục tiêu của Hồ Chí Minh là đoàn kết toàn dân tộc vì độc lập tự do của tổ quốc.

    Sau 1954, mặc dù Hồ Chí Minh còn sống, nhưng bị chi phối bởi hai phe nhất là Trung Quốc (ai thắng ai, cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, v.v.) nên tư tưởng dân tộc bị phai nhạt dần, còn đấu tranh giai cấp đã chen vào, nên việc hòa giải giữa người kháng chiến với nguời vùng địch chiếm gặp trở ngại, mang màu sắc phân biệt, kỳ thị kéo dài.

    Lạm bàn về hòa giải

    Bản chất sự xáo trộn, xâm hại trong lịch sử cho rằng nhóm người này, sắc tộc này hơn các sắc tộc khác, tự cho mình quyền xâm hại. Đấy là nguồn gốc của chiến tranh, xung đột, mâu thuẫn, quan điểm chính trị lỗi thời cần xóa bỏ. Ngày nay, không quốc gia nào, dân tộc nào được phép coi mình là thượng đẳng, không đảng phái chính trị nào tự cho mình là duy nhất, là đạo đức là văn minh. Thừa nhận vô điều kiện sự bình đẳng, sự tồn tại của các quốc gia sắc tộc, các đảng phái khác là nhận thức chính trị hiện đại, phù hợp với chuẩn mực con người văn minh trong thế giới ngày nay. Đấy là tín hiệu tốt đẹp đầu tiên và nguyên tắc của sự hòa giải.

    Người dân vẫn còn nhớ năm 1975, sau ngày thống nhất đất nước, hào khí chiến thắng của cả dân tộc cùng với cơ sở vật chất, cơ chế sản xuất theo xu thế thị trường ở miền Nam đã đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1976 đạt mức kỷ lục là 16,8%. Thời kỳ đó, giá như Việt Nam chúng ta nhớ đến vị danh tướng Napoléon của Pháp, người không biết sợ là gì. Khi được hỏi: “Điều gì làm ngài sợ nhất?”, ông nói: Sợ nhất là sau khi chiến thắng làm ru ngủ con người, quên đi những thiếu sót, khuyết điểm, không cẩn trọng để bước vào cuộc chiến mới”. Tiếc thay, lịch sử lại không có hai từ “giá như”!

    Miền Nam đã trải qua sóng gió của hợp tác hoá và cải tạo kinh tế tư bản, tư doanh. Các chương trình đưa dân thành thị đi phát triển các vùng kinh tế mới, cùng với một số biện pháp sai lầm trong quản lý kinh tế đã tách người lao động và quản lý ra khỏi tư liệu sản xuất, thực sự chuyển nền kinh tế thị trường sang kinh tế chỉ huy bao cấp, đã triệt tiêu mọi động lực khuyến khích người lao động. Riêng năm 1980, nước ta phải nhập lương thực đến 1,6 triệu tấn. Kết quả phần lớn các mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra đều không đạt được. Mức tăng trưởng kinh tế tụt xuống chỉ còn 2,9% vào năm 1980 so với chỉ tiêu là 13%. Xuất khẩu chỉ bằng 20-25% nhập khẩu. Năm 1984, khoảng 75% dân số sống dưới mức nghèo đói. Lạm phát lên đến mức đỉnh điểm năm 1986 là 774,7%.

    Khủng hoảng kinh tế và chính sách cải tạo làm lòng dân bất an, bế tắc, nhiều người dân ở miền Nam khác ý thức hệ, cùng quẫn, đã phải tìm mọi cách đi vượt biên, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng ngoài biển khơi, do thiên tai, cướp biển. Cha mất con, vợ mất chồng, tang tóc đau thương của “thuyền nhân” là bài học đắt giá để lại hậu quả đau đớn, rất tệ hại. Nên nhớ rằng vết thương lớn trong tâm thức khó phai hơn nhiều so với nỗi đau mất mát trong chiến tranh.

    Ngày nay, thế hệ người Việt chịu di chứng nặng nề của chiến tranh, có lớp con cháu thành đạt ở xứ người. Họ đã vượt qua mọi khó khăn trở ngại, cuộc sống tôi luyện họ, học tập và lao động trưởng thành khiến người dân các nước sở tại khâm phục, ngưỡng mộ sự nhẫn nhục, cần cù sáng tạo, vươn lên khẳng định vai trò vị thế của mình trong xã hội văn mình. Hay nói cách khác, bằng tình yêu Tổ quốc họ đã tự hòa giải chính bản thân mình.

    Thế hệ người Việt ở xứ người, đáng trân trọng biết bao khi vẫn duy trì vốn văn hóa Việt, vẫn hướng con cháu về quê hương đất nước. Họ lao động miệt mài không chỉ vì mưu sinh bản thân mà còn nghĩ đến những người thân ở quê hương xứ sở, những bà con ruột rà còn chịu nhiều khó khăn thiệt thòi về kinh tế, giáo dục, y tế lạc hậu, v.v. Chỉ tính riêng từ năm 1991 đến nay, nguồn tiền kiều hối gửi về Việt Nam vượt 90 tỉ đô la Mỹ, riêng năm 2014 ước tính khoảng 12 tỉ đô la, là phao cứu sinh cho nhiều doanh nghiệp, là nguồn tài chính quan trọng cho nhiều gia đình để góp phần ổn định và phát triển kinh tế của đất nước.

    Muốn hòa giải với những người gọi là “thua cuộc” ở xứ người, trước hết phải có tâm thức thực sự văn minh đối với ngay cả những người “thắng cuộc” ở trong nước, kể cả với những người thân của kiều bào.

    Trong cuộc chiến vừa qua, ở một góc nhìn khác, tất cả chúng ta đều là kẻ “thua cuộc”. Chúng ta đã bị các cường quốc lợi dụng đẩy vào cuộc chiến tranh bằng xương, bằng máu và bằng thịt của người Việt để thực hiện các ý đồ tranh dành quyền lực và ảnh hưởng. Dân tộc bị chia rẽ nên mới cần hòa giải.

    Nước Pháp đô hộ Việt Nam cả thế kỷ, người Mỹ đổ bom đạn, gây bao đau thương chết chóc trên cả hai miền nước ta. Mọi chính sách hòa giải đến từ nhà nước nhưng vai trò đi tiên phong rất quan trọng từ các cựu binh Pháp và Mỹ hối lỗi thực sự gặp sự tha thứ chân thành của người dân Việt Nam.

    Ngẫm suy, nỗ lực của hai nhà nước Việt-Trung cùng lời lẽ hoa mỹ, tốt đẹp lớn gấp nhiều lần đã làm với Mỹ nhưng thử hỏi người dân Việt Nam hiện nay “dị ứng” với Trung Quốc hay Mỹ? Cần nhớ rằng, không nhà nước nào có thể thay thế được suy nghĩ của người dân Việt Nam trong lĩnh vực hòa giải.

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 đến nay đã hơn 30 năm, nhà nước Trung Quốc và Việt Nam đã tốn bao công sức, hành động, lời lẽ tuyên truyền tình hữu nghị 4 tốt và 16 chữ vàng để hòa giải nhưng đến nay kinh tế càng lệ thuộc vào Trung Quốc, đảo biển vẫn bị xâm chiếm gặm nhấm từng ngày. Sự xâm lấn của Trung Quốc thể hiện qua từng bữa ăn, quần áo mặc của người dân, bản tin thời sự, lễ nghi nhà nước, v.v.

    Kinh nghiệm lịch sử cho thấy Việt Nam muốn hòa bình, hòa giải với Trung Quốc nhưng để có hòa giải đó thì trước hết, Trung Quốc phải từ bỏ chính sách bá quyền, bành trướng đối với Việt Nam, nói một đằng làm một nẻo. Ai cướp đoạt, lấn chiếm Mục Nam Quan, thác Bản Giốc và vùng rộng lớn ở biên giới phía Bắc của Việt Nam? Ai đã cướp Hoàng Sa, Gạc Ma và giết hại hàng vạn chiến sĩ đồng bào ta trong chiến tranh biên giới 1979 mà ngày nay vẫn đang tiếp tục lấn chiếm xây sân bay trên đảo Chữ Thập ở Trường Sa của ta?

    Hòa giải bằng hành động thực tế và tôn trọng nguyên tắc bình đẳng

    Ai cũng kêu là mấy chục năm rồi sao chưa hòa giải được. Mặc dù đường lối thì luôn tuyên bố hòa giải, nhưng thực tế thì còn chưa làm được nhiều. Muốn hòa giải thì phải biểu hiện ra thành những hành động thực tế. Người dân chỉ cần nhìn vào đường lối, chỉ thị của Đảng, Chính phủ để đánh giá thiện chí của nhà cầm quyền.

    Đúng là không thể nói hòa giải khi thiếu một môi trường, một thể chế chính trị – xã hội dân chủ, tôn trọng sự khác biệt và đa dạng để từ đó mà tạo ra nguồn sinh lực bền bỉ và dồi dào. Khi chưa có một thể chế như vậy thì mọi sự hòa giải dân tộc đều chỉ là gượng ép, khiên cưỡng và làm rạn nứt thêm khối đoàn kết dân tộc.

    Nhớ lại, đầu thập niên 90, từ Thái Lan tôi đi Mỹ tham dự hội thảo, gặp đoàn đại biểu từ trong nước do GSTS Trần An Phong làm trưởng đoàn. Trong lúc hội thảo, bên ngoài khá đông kiều bào trương biểu ngữ hô to “đả đảo cộng sản”! Giờ giải lao, tôi ra gặp đoàn biểu tình trò chuyện, trao đổi về một số vấn đề hai bên cùng quan tâm. Với thái độ thân thiện, chân tình, đối thoại, tôi nhận thấy ở họ nhất là thế hệ trẻ rất quan tâm đến vận nước.

    Tuy nhiên, một số người đã phải bỏ nước ra đi vì chống cộng sản, không hề nguôi ngoai hận thù này, và coi chừng nào còn chế độ đã đánh bại họ chừng đó không thể có hòa giải. Ngày nay, vẫn còn nhiều người coi Bùi Tín, Cù Huy Hà Vũ chỉ là những người nửa đường đứt gánh và quay sang chống Cộng, người như Điếu Cày, thì họ cố quàng vào cổ ông cái cờ vàng. Một cách nghĩ cực đoan như vậy thật khó dẫn tới đoàn kết dân tộc được!

    Những người vẫn coi 30 tháng 4 năm 1975 là ngày giải phóng miền Nam, vẫn coi những người tỏ thái độ chống Trung Quốc bành trướng xâm lược dưới nhiều hình thức, trong đó có biểu tình không bạo động, là phản động, vẫn coi việc bắt giam những người phản đối những hành động mà họ coi là không dân chủ, không hợp hiến, là đúng, vẫn gọi những người đã phục vụ trong chính quyền Nam Việt Nam là Ngụy, cách nghĩ của họ không hề khác trước khi Trung Quốc nổ súng đánh ta, thì làm sao có thể dẫn tới đoàn kết dân tộc được!?

    Nếu có được đoàn kết dân tộc, những người Việt Nam một thời khác biệt về chính kiến sẽ góp sức mình cho một Tổ quốc Việt Nam cường thịnh, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ là diaspora như người Do Thái. Làm thế nào để chúng ta có được sự đồng thuận đó? Quả bóng đang ở trong chân lãnh đạo Việt Nam trong nước.

    Cụ thể như những chương trình truyền hình. Cần đưa vào đó thân phận, cuộc sống không chỉ của bên thắng cuộc, mà cả bên kia nữa. Họ đã có thân phận như thế nào sau mấy chục năm hòa giải. Hòa giải ngay trong cách nói nữa. Trong các chương trình truyền hình, những nhân vật lên nói vẫn có cách nói còn thể hiện sự phân biệt. Trong những chương trình phim, văn nghệ, những nhân vật trong đó vẫn thể hiện sự phân biệt, và cả sự kỳ thị. Đó mới chỉ là một ví dụ nhỏ thôi. Còn nhiều điều diễn ra trong cuộc sống. Nếu để cho những người “thua cuộc” được lên tiếng, được biểu lộ quan điểm thì sẽ đẩy nhanh sự hòa giải bởi vì sẽ khó có thể hòa giải khi mà hai bên không giãi bày, không đối thoại, không thể hiện hết suy nghĩ của mình, nếu bên kia không lắng nghe, không thấu hiểu.

    Vấn đề hòa giải dân tộc, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã rất sâu sắc và nhân văn khi khơi dậy vấn đề “hòa giải dân tộc” bằng cách đề nghị thay thế từ “giải phóng” bằng từ “thống nhất” cho ngày 30 tháng 4. Ông là chính khách đi tiên phong trong vấn đề này với câu nói nổi tiếng “Ngày 30 tháng tư có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn”. Ai cũng hiểu rằng nếu không thống nhất được lòng dân thì dân tộc Việt sẽ không bao giờ ngóc đầu lên được.

    40 năm trôi qua, mỗi khi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu và nước mắt Việt ở cả hai phía, người ta mới nhận ra cái vô nghĩa và hậu quả dai dẳng khủng khiếp của nó. Nhà thơ Bảo Sinh có cái nhìn rất dân gian và sâu sắc:

    Kìa trong Hán Sở tranh hùng,

    Quân kỳ ca khúc trùng trùng khắp nơi

    Trông gần chính nghĩa sáng ngời

    Nhìn xa chỉ thấy lũ người giết nhau

    Hòa giải là vấn đề còn rất nan giải. Có chuyên gia, trí thức Việt kiều danh tiếng, luôn quan tâm đến vận nước, nói thẳng rất đáng suy ngẫm nguyên văn như sau: “Tôi cho rằng sẽ không bao giờ có hòa giải. Những người cộng sản nói hòa giải thực chất là kêu gọi qui hàng, trước đây qui hàng thì được bỏ tù không bị giết. Còn bây giờ qui hàng là hợp tác những gì mà họ cho hợp tác. Sau nội chiến về chính sách kỳ thị ở Nam Phi, Tổng thống Mandela đã cho điều tra tội ác nhưng không để xét xử, và không cho phép xét xử người phạm tội trước đó, mà chỉ làm rõ trắng đen. Sau nội chiến ở Mỹ, Tổng thống Lincoln tuyên bố và ra luật cấm trả thù, mọi người đều được đối xử ngang nhau. Ở Việt Nam thì chính sách trả thù là rõ ràng. Và cho đến bây giờ vẫn chỉ với một đảng, dựa vào cái gọi là “đấu tranh giai cấp” nhằm loại trừ dựa vào lý lịch thì dù ông Võ Văn Kiệt có tốt bụng cũng không thể có hòa giải. Họ chỉ tha chết, tha tù, chứ không thể làm người bình thường.

    Ngẫm suy, muốn cho người khác hiểu mình thì cách tốt nhất vẫn là hành động. Nói sáo rỗng và lý thuyết suông sẽ chẳng thuyết phục được ai. Cải cách thể chế và thực hiện dân chủ vẫn là con đường tốt nhất để dẫn đến “hòa giải dân tộc”. Ngạn ngữ có câu “một gam thực tế có giá trị hơn một tấn lý thuyết”.

    Chỉ có hành động thực sự và tôn trọng sự thật mới mong cứu vãn được tình thế và lấy lại được lòng tin. Đừng u mê, lú lẫn trong đám hỏa mù của sự ích kỷ và lừa gạt của các thế lực ngoại bang. Hãy sáng suốt hành động vì chính mình và dân tộc mình! Vấn đề “hòa giải dân tộc” là một trong những nền tảng cơ bản của nước Việt để xây dựng một quốc gia phát triển hùng mạnh, có đầy đủ khả năng đối đầu với các thách thức nhiều mặt của thời đại.

    Trong tiểu thuyết Dòng đời cách đây 10 năm, ông Nguyễn Trung, một sĩ phu Bắc Hà (nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã nêu ra nhiệm vụ của cả nước mình về hòa giải dân tộc, cốt truyện cũng nói lên tinh thần này, phần nào làm rõ trong kháng chiến chống Mỹ còn có một cuộc nội chiến ác liệt. Truyện nêu rõ việc xé đôi đất nước và xé lòng mỗi người dân Việt ta. Đây là lần đầu tiên trong một tiểu thuyết ở nước ta dưới thời nay dám nêu lên vấn đề nội chiến, phúc đức bảy mươi đời là truyện dày quá (4 tập, khoảng 1500 trang) nên thoát được kiểm duyệt. Tôi hiểu và chia sẻ với tác giả Nguyễn Trung về hòa giải dân tộc trong tâm khảm của ông lớn quá mức chịu đựng, đến nỗi gần như phát ốm mỗi lần đụng chạm đến vấn đề này. Bởi vậy, ông vừa chia sẻ, vừa thương cảm chân thành khuyên tôi, đừng mất công sức, thời gian đụng đến đề tài “Hòa giải dân tộc” vì nó vô vọng trong thể chế hiện nay.

    Thay cho lời kết

    Khi xã hội còn tồn tại hay nảy sinh mâu thuẫn, hòa giải luôn là giải pháp khắc phục ít bị tổn thương nhất. Con đường đi đến hòa giải còn rất gian nan nhưng là cần thiết và bức xúc, cần có thiện chí của cả hai bên nhưng chủ yếu quả bóng đang ở trong chân lãnh đạo Việt Nam ở trong nước và nhìn rộng hơn, đấy còn là vấn đề được đặt ra ở quy mô thế giới chứ không chỉ trong nội bộ nước ta.

    Hòa giải không phải là tự xưng tụng, nhắc đến chiến thắng của mình một cách cao ngạo. Hòa giải là vấn đề tự thân và tình cảm, tâm thế thì phải chân thành, khiêm nhường. Bản chất của hòa giải hiện nay không còn là ý thức hệ, không còn là chiến tranh thắng thua mà bản chất vướng nhất của sự hòa giải nằm chính trong xã hội chúng ta đó là sự yếu kém, tụt hậu về kinh tế xã hội so với khu vực. Quyền và vai trò của người dân đối với nhà nước và xã hội vẫn bị giả tạo. Nhu cầu cơ bản, trong xã hội của người dân vẫn bị coi thường, xem nhẹ. Dân Việt vốn rất xứng với cái danh xưng “ngàn năm văn hiến”, vậy mà giờ đây suy thoái đủ đường – từ lời ăn tiếng nói cho tới cách hành xử. Về bản chất, tất cả những vấn đề bất cập nói trên đã ngăn trở sự hòa giải.

    Điều đau đáu lớn nhất đối với bà con Việt kiều là mong đất nước phát triển, người dân được hưởng càng sớm, càng tốt, càng nhiều các thành tựu văn minh của loài người như các nước phát triển trên thế giới.

    Cầu mong cho đất nước này sẽ mãi không có chiến tranh và cũng không có “kẻ thua, người thắng” và xin mượn lời ông Nguyễn Trung để kết luận bài báo này: “Hòa giải dân tộc chỉ có được khi chính dân tộc này tự vượt lên được chính mình để thay đổi chính mình và một khi có được Việt Nam của hòa giải dân tộc, đấy sẽ đúng là một Việt Nam của người Việt Nam với tất cả ý nghĩa cao đẹp nhất, như khi nó đã trở thành ước nguyện và hành động của mọi tầng lớp xã hội để làm nên Cách mạng Tháng Tám.”

  • Vũ khí quan trọng nhất bị bỏ quên

    Tô Văn Trường

    Người ta thường nói tới “Sự thông minh của trái tim”, chính vì cái tâm đó làm nền mà Việt Nam đã đánh thắng những đế quốc mạnh nhất, vì đã tìm ra những phương án thông minh để chiến thắng, mà chính tiến sĩ Henry Kissinger (đã từng làm việc cho ba đời Tổng thống Mỹ) phải thú nhận. Trong nhiều lĩnh vực chúng ta đã làm được như vậy, nhưng phải thành thực nói rằng, gần đây, chữ tâm đó đang nhạt dần và bị bỏ quên.

    Hầu hết khi phân tích chiến lược, người ta sử dụng phương pháp phân tích SWOT (Strength-Weakness-Opportunity-Threats: Mạnh, yếu, cơ hội và thách thức). Nhìn rộng ra của một đất nước thì vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người, hệ thống thể chế thuộc về nội lực, còn thời cơ và thách thức chính là ngoại lực. Nội lực đúng là toàn bộ nguồn lực bên trong, sẽ được bổ sung tự nhiên hay tổn thất đúng qui luật tùy thuộc vào hiệu quả vận hành tương tác với nguồn lực bên ngoài. Vũ khí quan trọng nhất chính là nội lực trong suốt thời gian dài vì nguyên nhân chủ quan và khách quan đã bị bỏ quên.

    Ngày trước sách Tam Quốc nói Tôn Quyền có địa lợi, Tào Tháo có thiên thời, Lưu Bị chỉ có nhân hòa mà cũng ngang ngửa và có thiên hạ chia ba!

    Những yếu tố làm nên nội lực, ngoài các thành tố cơ bản là trục, là cốt lõi của vấn đề thiên địa, nhân, còn có một số những tác nhân chi tiết cấu thành tuy nhỏ và chỉ là những kết cấu phụ trợ, nhưng những giá trị quyết định thì lại hoàn toàn không nhỏ nhoi chút nào!

    Nội lực thì gồm nhiều thứ nhưng có lẽ cơ bản nhất vẫn là con người và thể chế gắn những con người đó với nhau. Tài nguyên tất nhiên là một phần của nội lực nhưng không phải là cái quan trọng nhất. Ở các nước OECD thì 80% tài nguyên của họ là con người. Thiên thời là một cái gì đó khách quan gồm cơ hội hoặc thách thức.

    Hiện nay thiên thời, chỉ còn rất ít người mơ hồ về cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội mà là bộ mặt và tham vọng thật của Trung Quốc không còn che giấu được nữa; là sự lên ngôi của lợi ích dân tộc (không phải là lợi ích giai cấp nữa, mà nó đang biến tướng thành lợi ích nhóm).

    Có ý kiến cho rằng nội lực của Việt Nam, phần cứng là tài nguyên thiên nhiên, phần mềm là con người hay nói cách khác nội lực Việt Nam chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

    Theo thiển nghĩ của người viết bài này, phần mềm có lẽ là tư tưởng chi phối xã hội và hệ thống thể chế gắn kết xã hội, văn hóa… như một hệ điều hành (ví dụ như thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự hoặc tam quyền phân lập). Lâu nay, ta dùng các hệ điều hành cũ kỹ, lạc hậu (làm chủ tập thể, kinh tế quốc doanh là chủ đạo, đất đai là sở hữu toàn dân, tư duy nhiệm kỳ, chuyên chính vô sản…), và càng sửa càng hỏng để vận hành đất nước nên mới ra nông nỗi này. Chỉ có nhóm người đặc quyền, đặc lợi nhờ hệ điều hành ấy mới muốn níu giữ nó vì rời nó ra là họ khó sống. Do vậy tham nhũng, đạo đức giả và thủ cựu mới liên minh lại với nhau tạo ra thế lực gọi là “tư bản đỏ” rất mạnh.

    Đừng quên rằng, chính Tổng Bí thư Trường Chinh, kiến trúc sư của Đổi mới khi phát biểu tại Đảng bộ Hà Nội 19/10/1986 đã chỉ rõ Lãnh đạo đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn. Nguyên nhân là do tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, trái quy luật khách quanđã mắc sai lầm lại bảo thủ, trì trệ, không dũng cảm sửa chữa…” (Văn kiện Đảng toàn tập; tập 47, trang 270).

    Để đấu tranh chống bá quyền, bành trướng, cũng là chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới, Việt Nam phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Có ý kiến khác nhau, có mâu thuẫn nội bộ là một tất yếu khách quan, có tính quy luật nhưng nếu để kéo dài thực trạng đó một cách không bình thường thì dẫn đến phá vỡ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khi nội bộ vững vàng, đoàn kết thành một khối thì các thế lực thù địch không thể khuất phục được ta để thực hiện chính sách bá quyền, bành trướng.

    Thiên thời còn là cơ hội để nước ta vào TPP (Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương), sự quan tâm của Mỹ đến Biển Đông (tất nhiên trước hết là vì lợi ích của Mỹ và đồng minh) vì nước Mỹ có quá nhiều thứ phải quan tâm, là quan hệ ngày càng tốt đẹp với Nhật Bản và ASEAN cũng đang có thái độ dứt khoát hơn.

    Việt Nam không thể dựa vào tài nguyên thiên nhiên để phát triển được vì tài nguyên khoáng sản của nước ta rất nhỏ bé, manh mún, không có khoáng sản nào có lợi thế để cạnh tranh có hiệu quả (nhập khẩu còn rẻ hơn khai thác), trừ than, dầu, khí, nước ngọt, cát, đá, sỏi và đất. Than, dầu khí thì sắp hết (30 năm nữa là đóng cửa bể than Quảng Ninh). Nước ngọt 70% phụ thuộc nguồn nước đầu nguồn xuất phát từ cao nguyên ở Vân Nam của Trung Quốc (hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long). Đất, chủ yếu là nông nghiệp, phụ thuộc thiên nhiên, nguồn tưới phụ thuộc nước ngọt của các hệ thống sông cũng không phải nhiều. Ngay cả đá vôi làm xi măng, trữ lượng khai thác được và có hiệu quả (gần các nhà máy xi măng, dễ khai thác, dễ vận chuyển chẳng hạn) cũng chỉ có khoảng 2 tỷ tấn. Còn lại chỉ làm đá rải đường. Tài nguyên sinh học (flora & fauna) cũng nhỏ bé, lại đang ngày càng “teo” đi nhanh chóng.

    Thế giới, nhiều nước phát triển mà không có tài nguyên khoáng sản như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Công, v.v. Hà Lan đã không duy trì được vị trí đứng đầu thế giới về phát triển công nghệ điện tử chỉ vì ỷ lại quá nhiều vào dầu ở biển Bắc (bây giờ thua xa Nhật Bản và Hàn Quốc). Cái gọi là “Căn bệnh Hà Lan” ngày xưa cũng chính là “Lời nguyền của tài nguyên khoáng sản” ngày nay.

    Cái chủ yếu để phát triển đất nước chính là nhân. Phải có nhân hòa thì mới có nội lực, nhưng làm thế nào để có nhân hòa? Cái này, tiền nhân ta đã có tấm gương của vua Trần Nhân Tông về tập hợp lòng dân trong chống giặc, và hòa giải, đoàn kết dân tộc sau thắng giặc để làm nên một Đại Việt hùng cường.

    Nước Nhật, người Nhật họ chẳng hề được ưu đãi chút nào từ cái thiên và địa, họ chẳng hề mảy may ca thán về những rủi ro, bất hạnh. Nước Nhật không có rừng vàng, biển bạc, chỉ có sức mạnh từ lòng yêu nước và tự trọng của con người là đáng kể. Đầu hàng Mỹ và chịu nhận Mỹ làm đồng minh ngay sau khi thua trận đại chiến thế giới lần thứ hai là một quyết định sáng suốt của Nhật Hoàng, với sự ưng thuận của toàn bộ nội các Nhật, và việc không truy cứu trách nhiệm Nhật Hoàng trước chiến tranh cũng thông minh không kém, từ cả phía người Nhật và người Mỹ. Nội lực của người Nhật chính là tự cường. Người xưa thường bảo “thân làm tội đời, trời chẳng làm tội ai”!

    Bàn về cái nhân, là thứ “nhân định” mà chúng ta hoàn toàn có thể tạo lập được. Cũng chỉ xin nêu ra những cái khiếm và những cái khuyết để có thể cùng hè nhau mà khắc phục. Để có được nội lực thì trước hết phải chuyển hướng nhận thức của từng người, thoát khỏi óc nô lệ – nô lệ vào cái dốt, cái yếu kém, cái viển vông, mơ hồ và cả nô lệ vào học vấn, vì cái gì cũng có giới hạn, chỉ có sự ngu dốt là vô giới hạn!

    Sau khi giàn khoan HD 981 rút đi, tình hình tương đối yên ắng, truyền thông trở lại những công việc quen làm. Vạch đường đi tới cho 5 hay 10 năm không phải khó lắm. Khó nhất là phải đạt được bằng cách nào như Mác nói đại ý “Thời đại này khác thời đại trước không phải sản xuất ra được cái gì mà là dùng cái gì để sản xuất”. Bây giờ thì mở rộng ý tưởng ấy là hợp tác với ai để có vốn, công nghệ, nguyên liệu để sản xuất và bán cho thị trường nào. Đó là nhiệm vụ chính trị số một. Xác định ta, bạn, thù (nếu buộc phải làm, không làm thì không được) thì cũng phải trên cơ sở đó mà xác định. Còn chuyện bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt chế độ mà quốc gia nào cũng phải làm chứ không chỉ có ta. Chúng ta đang hội nhập thế giới tư bản mà xem tư bản là kẻ thù thường xuyên thì chuyện ta xác lập quan hệ đối tác chiến lược ai tin? Ta mà còn không tin thì làm gì “cả hai ta” đều có “niềm tin chiến lược”. Đây là nhược điểm số một của ta hiện nay mà ai cũng thấy và mỗi “một ai” đấy sẽ khai thác theo ý đồ của họ để làm giàu, làm mạnh cho họ, nhất là “bạn vàng” và kế tiếp là “kẻ thù dễ thương”, còn ta thì sẽ cầm hai “ống tre” đứng như trời trồng mà cười ngất!

    Đa phần giới được ăn học thì mắc bệnh “hàn lâm” thì chỉ chăm nhằm vào những cái đích rất cao siêu, rất oách như kỹ thuật na-nô, những thứ siêu việt mà giới khoa học thế giới đang ồn ào trong khi nội hàm năng lực, hoàn cảnh và phương tiện đều thiếu thốn và yếu kém khiến lâm vào cảnh bóng đè, tự mình đè mình, chẳng ai đè mình cả. Sao không moi đầu, vắt óc nhắm vào những thứ thật bình thường, bình dị như hạt lúa, củ khoai, con cá… xem có cách nào cho tốt hơn, cho bà con nông dân được nhờ những thứ bình thường mà chẳng tầm thường chút nào. Vậy nên, có người đã nói theo kiểu “cười ra nước mắt”: cái sự khoa học ở xứ ta đang trở thành khóa hóc (!) – chẳng mở được gì cả, đặc biệt là khoa học về lĩnh vực chính trị xã hội. Giống hệt như đứa trẻ thơ, ấu trĩ tự mình túm chặt tóc, giật, đau và khóc – càng đau, càng túm chặt hơn, giật mạnh hơn và… khóc thét lên!

    Hiện tượng có đoàn mà không có kết ở ta đang tràn lan khắp mọi lĩnh vực, mạnh ai nấy làm, giống như bàn tay xòe ra, bẻ ngón nào gãy ngón nấy, chẳng chịu cụm lại thành nắm đấm cho đủ sức mạnh và vững chắc. Ở xứ người, càng đông càng mạnh, ở ta thì thì ngược lại!? Chỉ gắng sức từng bộ phận mà không có sự phối hợp đồng bộ, tổng thể thì bị… chuột rút (vọp bẻ) cũng là lẽ đương nhiên!

    Nhân hòa ở nước ta, thời nay thì chưa có và còn là cái phải nỗ lực mới có được. Mâu thuẫn giữa lợi ích nhóm và lợi ích của đa số nhân dân là rất gay gắt, có thể trở thành đối kháng (như vụ Văn Giang). Mâu thuẫn giữa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc” trong cuộc chiến thống nhất đất nước. Mâu thuẫn về quan điểm “thoát Trung”, giữa những người muốn cách tân đất nước và những người thủ cựu.

    Lênin nói: “Đào xuống, lật ra, xới tung lên những hàng chữ dày đặc đủ thứ lý thuyết, ta sẽ thấy đằng sau đó lồ lộ hiện ra cái gốc quyền lợi trơ trọi, thô thiển!”.

    Ở Việt Nam cần có anh hùng cái thế giải quyết các mâu thuẫn này để tạo ra nhân hòa thì mới có nội lực.

    Hai thứ đầu tiên là thiên và địa vốn dĩ là những thứ nằm ngoài “nhân định”, nên chỉ có thể lựa theo, nương theo quy luật hoàn toàn khách quan của nó để mà thích nghi, để mà tạo lợi thế cho mình hoặc hạn chế tác hại, không thể can thiệp, tác động vào được. Thật nực cười, suốt bao nhiêu năm qua người ta chỉ quen dùng những cụm từ nông cạn, hạn hẹp và duy ý chí như “phòng chống bão lụt”, cả loài người này đã bao giờ chống được chưa (!?) và thiên tai đâu chỉ là bão và lụt (còn động đất, núi lửa, sóng thần, hạn hán, sa mạc, v.v.). Vậy, đúng ra phải là “phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai”!

    Thay cho lời kết

    Đất nước và con người là yếu tố cơ bản của nội lực. Chúng ta đều nói rất nhiều về “lỗi hệ thống” và tính lạc hậu của thể chế hiện tại, nhưng nói cho cùng thì hệ thống và thể chế đều do con người tạo ra. Vì vậy, nếu để Việt Nam phát huy được nội lực thì mỗi người Việt Nam, mà đầu tiên là các nhà lãnh đạo phải quyết tâm vượt qua chính mình chứ không phải ngồi chờ thể chế thay đổi. Đành rằng con người là quyết định, song đó là con người phải có trí tuệ, có ý chí, và anh ta phải có tự do. Chỉ có như vậy mới thực sự có nội lực.

    Lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, đất nước giàu mạnh là trên hết. Thể chế là mảnh đất và môi trường để nội lực phát triển. Suy cho cùng nội lực phải bắt nguồn từ nguyên khí quốc gia. Nếu không biết sử dụng hiền tài, thì sẽ không tạo ra được nội lực cho đất nước.

  • Tại sao bắt buộc công nhân Việt Nam phải học tiếng Trung Quốc?

    Tô Văn Trường

    Vừa qua, báo Việt Nam Express (6/5, 2022, https://e.vnexpress.net/news/economy/chinese-speakers-in-demand-as-factories-expand-4459711.html) cho hay một số công ty Trung Quốc tại Việt Nam đòi hỏi công nhân muốn được vào làm nhà máy thì phải biết tiếng Trung Quốc (tiếng Hán).  Điều này làm một số công nhân Việt Nam gặp trở ngại khi xin việc làm ở đây. Đây là chuyện Trung Quốc muốn làm chủ yếu để dùng áp lực kinh tế và phần mềm ảnh hưởng tác động đến chính trị và phần cứng.

    Bài viết này tóm tắt các kinh nghiệm ở các nước khác và trình bày một số lý do tại sao Chính phủ Việt Nam nên can thiệp, không nên để chuyện này xảy ra.

    Thoạt nhìn thì vấn đề này tuỳ thuộc vào lãnh vực tư nhân, không phải nơi mà Chính phủ cần can thiệp.  Nhưng ở đây lại có các yếu tố khác quan trọng:

    Thứ nhất, và trước mắt, một nhà máy sản xuất tại Việt Nam do đầu tư trực tiếp nước ngoài thì phải tuân theo các quy định của luật Việt Nam, mà trong đó ngôn ngữ chính thức vẫn là tiếng Việt.  Nếu có những bất đồng về ngôn ngữ thì ban quản lý của nhà máy phải đứng ra thuê thông dịch viên tiếng Trung để dịch ra tiếng Việt.  Đây là điều mà tất cả các nước khác đã làm và Trung Quốc cũng làm như vậy. Ngay ở Việt Nam, các nước như Mỹ, Nhật và Đại Hàn cũng thuê thông dịch viên. Và doanh nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc hay doanh nghiệp Trung Quốc ở nước ngoài cũng phải hành xử như vậy.

    Thứ hai, Trung Quốc là một nước lớn ở bên cạnh Việt Nam cho nên có những vấn để tế nhị về chủ quyền quốc gia mà chúng ta phải luôn luôn đặt ra.  Không thể chỉ vì cái lợi trước mắt về kinh tế mà để xảy ra những vấn đề ảnh hưởng đến độc lập tự do sau này. Làm sao mà biết được là Trung Quốc  dùng quyền lực kinh tế để ép buộc người dân nước khác phải làm theo mình thì sẽ dẫn đến những khống chế khác hay không?

    Thứ ba, một trong những mục đích chính của các nhà máy Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam là để lấy danh nghĩa là hàng hoá được sản xuất ở Việt Nam – “Made in Vietnam” – hầu tránh thuế nhập cảng khẩu cao của Mỹ hay các nước Châu Âu.  Vậy thì doanh nghiệp Trung Quốc cần Việt Nam hay chỉ có Việt Nam cần họ? Đó là chưa kể chuyện dùng tiếng Trung Quốc trong các nhà máy sẽ có thể dẫn đến tình huống các nước nhập cảng khẩu những hàng này sẽ cho rằng là hàng hoá Việt Nam không chính thức được làm tại Việt Nam.

    Thứ tư, chỉ có Chính phủ mới có quyền đứng ra bảo vệ quyền lợi của công nhân trong vấn đề này và phải có chính sách rõ ràng từ trung ương. 

    Do đó, chuyện đầu tiên Chính phủ cần làm là Bộ Công Thương và Bộ Kế hoạch & Đầu tư phải cùng hợp tác để xác định tỷ số tối thiểu của công nhân Việt Nam trong một nhà máy Trung Quốc trước khi sản phẩm của nhà máy đó có thể được công nhận là làm tại Việt Nam.  Nếu lúc đầu chưa có thể đạt đến tỷ số này thì cần phải có một kế hoạch rõ ràng – một “road map” để đưa tới kết quả này sau một thời gian tối đa (chẳng hạn 5 năm).

    Đây là một trong các đòn bẩy quan trọng nhất để tiến tới sản xuất với giá trị gia tăng cao hầu đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Tiếp theo, Chính phủ cùng với chính quyền địa phương như Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải phối hợp để thảo luận với các xí nghiệp Trung Quốc và giải thích cho họ mục đích chính đáng của Việt Nam, cũng như yêu cầu họ bãi bỏ các điều kiện vô lý về ngôn ngữ này. Đồng thời, Chính phủ cũng nên yêu cầu Ủy ban Nhân dân các lập ra một đội ngũ ở các địa phương thực hiện thanh tra, kiểm tra thường xuyên để theo dõi kết quả, vì nếu không thì phía Trung Quốc sẽ có thể đồng ý, nhưng rồi bỏ qua, không thi hành.

    Có nhiều người nghĩ là làm như vậy sẽ làm cho các xí nghiệp ngoại quốc ngần ngại không muốn vào Việt Nam, nhưng kinh nghiệm thế giới cho thấy kết quả là ngược lại. Khi nhà nước có một khái niệm rõ ràng về những quy định chính đáng đối với quá trình sản xuất thì điều này sẽ làm cho các xí nghiệp ngoại quốc kính nể Chính phủ Việt Nam hơn, từ đó dẫn đến thái độ làm việc vì lợi ích chung để có thể đem lại kết quả tốt đẹp cho cả hai bên đối tác.

    Người Trung Hoa cũng tốt như người dân các nước khác, nhưng nhà cầm quyền thì không. Họ luôn luôn “đa mưu túc kế” với những mưu đồ sâu hiểm, ẩn giấu sau những việc tưởng như đơn giản, hiển nhiên, vô hại. Nhưng cơ quan có trách nhiệm phía Việt Nam cần biết rõ, đây là “sản phẩm tự phát” của doanh nhân hay là ý đồ chỉ đạo chung của họ.

    Nói tóm lại:

    Đã đến lúc hạn chế những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào những công việc tầm tầm, thu hút lao động (không gian đó doanh nhân Việt Nam hoàn toàn có thể thay thế, nhất là khi Việt Nam đã có quan hệ buôn bán chính ngạch với hầu hết các quốc gia). Đó cũng là một việc cần để thoát lệ thuộc. Tôi hoàn toàn tán thành quan điểm, nếu tiếp tục kiểu “trải thảm” như thời gian qua, thì chỉ đón được chủ yếu những kẻ chụp giật là chính, hại nhiều hơn lợi. Doanh nhân kiểu này người Trung Quốc rất sẵn, kể cả việc “treo đầu dê” sản phẩm Trung Quốc mang nhãn Việt Nam, nhất là khi bọn họ mua chuộc được những kẻ tham lợi ở Việt Nam.

    Điều quan trọng là phải nghiêm chỉnh thực thi luật pháp và quy định của Việt Nam trong tất cả các doanh nghiệp, không cho phép mọi việc làm trái với quy định đó, trong đó có việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp chính thức.

    Chơi thì đừng sợ, sợ thì đừng chơi. Cũng đừng mắc “hội chứng cảnh giác quá mức”, đâu đâu cũng thấy mưu đồ xấu. Nói chung như vậy thì dễ, nhưng cụ thể thì chỉ người trong cuộc mới đánh giá và xử lý được. Trung Quốc gần ta, quan hệ nhiều, việc học tiếng Trung là rất cần thiết. Không đánh đồng việc học tiếng Trung với sự phụ thuộc vào Trung Hoa. Bây giờ càng cần có nhiều người Việt giỏi tiếng Trung đến mức uyên thâm, rất tiếc là ngày càng hiếm. Hình như việc học ngoại ngữ, kể cả tiếng Anh, chỉ nhằm giao dịch, kiếm việc, kiếm tiền… đang lấn át hoàn toàn những mục tiêu khác.

    Nhưng cần phân biệt việc học tiếng Trung với việc cưỡng ép dùng tiếng Trung trong doanh nghiệp. Việc này phải cấm. Nhân tiện nói về các bảng hiệu, quảng cáo. Phải nhất thiết theo luật Việt Nam, phạt tiền và gỡ bỏ các bảng hiệu trái luật, không có tiếng Việt hay tiếng Việt không ở vị trí hàng đầu, dù là tiếng Trung, tiếng Anh… hay ngoại ngữ khác.

  • Xử lý vụ án khuất tất kit Việt Á – phép thử cho tương lai nước Việt

    Tô Văn Trường

    Thời gian qua, trên công luận cả mạng xã hội và báo chí chính thống của nhà nước như “lên đồng” về chủ đề liên quan đến vụ án kit Việt Á là điều dễ hiểu vì còn nhiều khuất tất liên quan đến sinh mạng con người, lừa dối và bóc lột nhân dân, v.v.

    (more…)

  • Muốn sống đem vôi quét trả đền

    Tô Văn Trường

    clip_image001

    Lư hương xưa dưới Tượng đài

    Cớ sao gỡ bỏ, có ai nỡ làm?

    Ơn Người muốn thắp nén nhang

    Tìm Lư chẳng thấy lòng thành bơ vơ.

    (more…)

  • Tiến thoái lưỡng nan – điệp khúc hai tuần

    Tô Văn Trường

    “Tiến thoái lưỡng nan

    đi về lận đận

    Tình đôi ngập ngừng

    tiến thoái lưỡng nan”

    (Trịnh Công Sơn)

    Người bạn đồng tâm gửi cho tôi ít dòng tâm sự rất đáng suy ngẫm. Phải trong cuộc mới thấm những cái vất vả, cực nhọc. Phải là người có trách nhiệm, quyền lực mới thấy cái khó khi phát ngôn, phải quyết định những việc ảnh hưởng đến sinh mạng của con người. Trong hoạn nạn, khủng hoảng, mới bốc lộ bản chất, tính cách, tài năng và bản lĩnh của con người. Nhưng hoạn nạn, khủng hoảng, nhiều khi là cơ hội cho những kẻ làm ăn, chụp giật. Sự lương thiện cũng tuyệt vời và sự thất nhân tâm cũng tột đỉnh.

    (more…)

  • Xét lại vụ án Hồ Duy Hải có gì mà sợ!

    Tô Văn Trường

    Vụ án Hồ Duy Hải đã được Quốc hội khoá 13 thành lập Đoàn giám sát tối cao do ông Uông Chu Lưu Phó Chủ tịch Quốc hội làm trưởng đoàn. Bà Lê Thị Nga khi đó là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp làm tổ trưởng đã có nhiều cuộc gặp thân nhân Hồ Duy Hải và viết báo cáo nêu nhiều điểm sai phạm trong tố tụng.

    (more…)

  • Các vấn đề cốt lõi khi sửa luật đất đai

    Tô Văn Trường

    Đất đai là của muôn đời

    Luật gì cũng chỉ nhất thời mà thôi

    Công bằng, hiệu quả, anh-tôi

    Sao cho nước mạnh, dân đời ấm no.

    Tôi sinh ra từ vùng nông thôn quê lúa nghèo khó ở Thái Bình, nơi có truyền thống cách mạng nên rất thấu hiểu ba cái nhất của người nông dân là cống hiến nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất và chịu thiệt thòi nhiều nhất.

    (more…)

  • Thư của TS Tô Văn Trường gửi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc

    THƯ GỬI THỦ TƯỚNG VỀ VỤ ÁN ĐỒNG TÂM

    Kính gửi: Anh Bảy Phúc

    Sau phiên tòa sơ thẩm vụ Đồng Tâm, trên mạng xã hội như có đợt “sóng gầm” nhiều người dân công khai phản ứng mạnh mẽ cho rằng các cơ quan pháp luật đã phạm sai lầm nghiêm trọng dùng cường quyền để trị dân. Nếu tuân thủ quy định của Đảng và luật pháp thì hậu quả sẽ không nặng nề như vậy.

    (more…)

  • Khi kẻ chấp pháp ngồi xổm lên luật tố tụng

    Tô Văn Trường

    Vụ án sơ thẩm Đồng Tâm chưa kết thúc, người ta còn đang nghị tội, chưa tuyên án. Ngay cả sau ngày tuyên án, vụ án cũng chưa thể kết thúc. Người dân am hiểu pháp luật, ngạc nhiên là phiên toà quan trọng như vậy mà thiếu hai nội dung quan trọng nhất: nhân chứng và thực nghiệm hiện trường.

    (more…)

  • Từ vụ Đồng Tâm nhìn lại bài học về công tác dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Tô Văn Trường

    Nguyên nhân gốc rễ của vụ việc Đồng Tâm chính là quy định của pháp luật về đất đai và việc áp dụng pháp luật về đất đai chưa thực sự sát với các biến đổi về kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là những năm gần đây. Từ đó, dẫn đến mâu thuẫn trong nhận thức và hành động giữa chính quyền địa phương với một bộ phận nhân dân ở xã Đồng Tâm đến mức không thể điều hoà được.

    Bài học về dân vận của Hồ Chủ tịch vẫn còn đó, nhưng không phải “tinh hoa, nguyên khí” nào cũng hiểu và hành động đúng. Đó là nỗi đau không phải của riêng ai.

    (more…)

  • Cẩn trọng với điện hạt nhân

    Tô Văn Trường

    Gần đây đã có dấu hiệu xới lại việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam. Nhiều chuyên gia như Nguyễn Quân (nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ), Trần Đình Thiên (nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế), … lên tiếng ủng hộ việc tái khởi động xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Thậm chí đã có hẳn một kiến nghị gửi Thủ tướng đề nghị việc này.

    Văn Việt xin đăng bài về điện hạt nhân của chuyên gia độc lập Tô Văn Trường cùng với ý kiến ngắn của các nhà khoa học hay chính trị Trương Trọng Nghĩa, Lê Kế Sơn và Vũ Ngọc Hoàng.

    Văn Việt

    (more…)