Khi kẻ chấp pháp ngồi xổm lên luật tố tụng

Tô Văn Trường

Vụ án sơ thẩm Đồng Tâm chưa kết thúc, người ta còn đang nghị tội, chưa tuyên án. Ngay cả sau ngày tuyên án, vụ án cũng chưa thể kết thúc. Người dân am hiểu pháp luật, ngạc nhiên là phiên toà quan trọng như vậy mà thiếu hai nội dung quan trọng nhất: nhân chứng và thực nghiệm hiện trường.

Lẽ nào các chiến sĩ trực tiếp tham gia vụ tấn công làng Hoành lại không ra toà làm nhân chứng, khẳng định hành vi phạm tội của các bị cáo và chứng minh sự đúng đắn của việc phải nổ súng tiêu diệt cụ Kình, cũng như tận mắt chứng kiến các đối tượng đổ xăng đốt ba chiến sỹ công an ngã hố. Lẽ nào để xác định được nguyên nhân kết tội lại bỏ qua thực nghiệm hiện trường xem liệu có khớp với lời khai của các bị cáo hay không (phải trọng chứng hơn trọng cung, đấy là chưa kể bị ép cung hay nhục hình)!

Trong số các bị can nói lời sau cùng, theo tường thuật của giới luật sư tham dự phiên tòa, có hai người không nhận tội như bản cáo trạng, đặc biệt là bà Bùi Thị Nối, một nông dân ít học, lam lũ, con nuôi ông Lê Đình Kình khi phát biểu rất điềm tĩnh, minh mẫn đến lạ thường:

“Bà nói: Bố tôi đã 58 tuổi đảng, trong giữa thời bình này lại phải hy sinh với ba đồng chí khác. Bốn đồng chí hy sinh giữa lúc thế giới thanh bình, như có chiến tranh và không phải chết bởi kẻ thù. Như tôi đây, một vết đạn bắn vào ngực, đau lắm, nhưng tôi không chết. Và tôi chỉ mong chúng ta sẽ có một lựa chọn sáng suốt, một con đường mới, tốt đẹp hơn, v.v..

Nói đến tầng lớp nông dân Việt Nam, tôi nhớ trước đây có lần đàm đạo riêng với nhà nghiên cứu Việt Phương, để rồi rút ra kết luận về 10 cái nhất:

“Cống hiến nhiều nhất.

Hy sinh lớn nhất.

Hưởng thụ ít nhất.

Được giúp kém nhất.

Bị đè nén thảm nhất.

Bị tước đoạt nặng nhất.

Cam chịu lâu dài nhất.

Tha thứ cao cả nhất.

Thích nghi tài giỏi nhất.

Năng động cả tin nhất”.

Nói đến chuyện tòa án, ở nước ngoài, người ta tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng bình đẳng, công khai giữa các bên. Ở ta thì Chánh tòa chủ trì xét xử có quyền đuổi luật sư ra khỏi phiên tòa. Ở nước ngoài, quan tòa chỉ là người ngồi xem bên buộc tội (cơ quan truy tố) và bên gỡ tội (luật sư) tranh luận. Bên thắng là bên có lý lẽ, có chứng cớ thuyết phục, buộc bên thua phải thừa nhận. Khi đó quan tòa giở điều luật ra áp dụng.

Bồi thẩm đoàn ở các nước là những cá nhân lựa chọn ngẫu nhiên trong dân chúng sẽ bỏ phiếu biểu quyết. Bồi thẩm đoàn, cũng hoàn toàn khác với hai vị hội thẩm nhân dân của ta, họ không ngồi chung với Chánh án và số lượng thành viên phải đủ lớn, bỏ phiếu kín sau khi nghe tranh biện để đảm bảo tính khách quan. Bồi thẩm đoàn bỏ phiếu chỉ xác định có tội hay không có tội. Quan toà chỉ áp mức hình phạt do luật định khi bị cáo bị phán quyết có tội. Bản chất của những nguyên tắc tố tụng kể trên xuất phát từ bản chất chân thực: “nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Khi nhân dân (ở đây là bồi thẩm đoàn) nói một người vô tội là họ vô tội.

Nước ta đã thực hiện cải cách tư pháp hơn 10 năm rồi, một số nguyên tắc tố tụng tiến bộ của nhân loại đã được tiếp thu và ghi trong pháp luật tố tụng. Nhưng oan nghiệt thay kẻ chấp pháp đã ngồi xổm lên nó.

Trong đạo làm người, thì đạo lý và pháp lý là hai trụ cột căn bản để phân biệt cảnh giới tiến hóa của mỗi cá nhân. Trớ trêu thay, có không ít kẻ khoác áo quan nhân chỉ lo cho “cái ghế” của mình, đã cố tình không hiểu pháp lý, mà còn chẳng biết đạo lý là gì khiến cho tấm gương “phụ mẫu” hoen ố, chính sự phiền hà, lòng dân ly tán.

Nếu những người cầm quyền (các thẩm phán chỉ là người thực hiện ý chí của họ) tiếp tục phạm sai lầm, cố tình kết tội bằng được dù không có đủ căn cứ xác đáng để khỏa lấp sai lầm của mình, thì vụ án sẽ không bao giờ có thể kết thúc được, kể cả sau khi thi hành án.

Nhân dân thấy công lý bị chà đạp công khai, càng thêm mất lòng tin tưởng vào nhà cầm quyền, dù là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Để mất lòng tin vào đảng lãnh đạo, nhất là năng lực giải quyết đúng đắn mối quan hệ với dân. Đó là thất bại lớn, rất lớn của cả hệ thống chính trị, vượt ra khỏi mọi sự tính toán của những người cầm quyền.

Người dân có quyền nghi ngờ rằng, có một thế lực nào đó cố tình gây ra vụ xử này để gây chia rẽ sâu sắc giữa nhân dân và giới cầm quyền, làm giảm sức đề kháng của Việt Nam trước sức ép bá quyền của Trung Quốc trong một thế giới đang xung đột, phân bố lại ảnh hưởng.

Nếu điều nghi ngờ nay không đúng thì khách quan vụ này vẫn làm vui lòng những kẻ đang muốn khống chế Việt Nam vươn lên. Trước mắt, ban lãnh đạo cao nhất của Nhà nước nên nhìn nhận lại và đánh giá đúng tình hình, cân nhắc “được mất”, không áp đặt những bản án nặng nề không đủ căn cứ, mở đường cho những bước tiếp theo. Đó chính là đòi hỏi của cuộc sống để “quốc thái dân an”.

Comments are closed.