Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 27): Phillip A. Ellis (hết)

Khế Iêm

ELEMENTS (FOR CLAIRE)

 

With the sea tumbling over rocks,

and a certain wildness in the seagull’s call,

I am brought to mind of the swell

and of the pitch and yaw of the boat

as the seawind teased its fingers into your hair.

This is in that certain world

where the waves at high tide wash over sand banks,

cutting an island into two or three.

 

Yours is the spark of fire the sea won’t wash,

for fear of drowning it forever,

even as it longs to;

please do not depart for forever

without a backward glance at the world,

and at the elements that form its bays.

 

NHỮNG THÀNH TỐ (DÀNH GỬI CLAIRE)

 

Với biển cả xô nước tung tóe lên các tảng đá,

với chút niềm mông quạnh trong tiếng kêu của loài mòng biển,

tôi hồi tưởng đợt sóng biển ngầm

và con thuyền nhấp nhô trồi hụp đi lạc hướng

khi gió biển đùa cợt lùa những ngón tay của nó vào mái tóc em.

Chính trong thế giới đáng tin cậy đó

nơi sóng biển lúc triều cường tràn ngập những bãi cát bờ biển,

chia cắt một hải đảo thành hai hoặc ba.

 

Thế giới của em là tia lửa mà biển cả sẽ không cuốn trôi đi,

vì e sẽ nhấn chìm nó mãi mãi,

ngay cả khi nó muốn thế;

xin đừng ra đi một lần cho mãi mãi

mà không một lần ngoái nhìn thế giới ấy,

cùng những thành tố đã định hình những vịnh của nó.

 

GENIUS LOCI

 

When we were wandering

through the fernery, as the rain

dripped from the leaves in the atrium,

did you notice, perchance,

that under the leaves of one

that hovered like a held breath

over the rocks in the pond,

there was a frog, almost not breathing?

 

It was a native frog,

if I recall correctly,

one not exactly rare

but of a diminished range,

and its eyes were wells of black light

that held us in their depths.

 

THỔ THẦN

 

Khi chúng ta dạo bước thơ thẩn

qua khu trồng dương xỉ, mưa

nhỏ giọt từ những chiếc lá nơi sân giữa

em có lưu ý chăng, tình cờ thôi,

rằng dưới những chiếc lá của một cây dương xỉ

treo lửng như một hơi thở cầm nín

phía trên những phiến đá trong ao,

có một con ếch, hầu như nín thở?

 

Đó là một con ếch bản địa,

nếu tôi nhớ không lầm,

một loài không hẳn hiếm

nhưng đang dần biến mất,

và mắt nó là hai giếng nước đầy ánh sáng đen tuyền

cầm giữ chúng ta trong những vùng sâu thẳm của giếng khơi.

 

THREE QUATRAINS FOR CLARE

 

When the boat heads out to the Hole in the Rock,

and the westering swell from the Pacific

(when it is rising) strikes the boat like a blow,

are you likely to be up and out, laughing?

 

I would love to be there with you, at the prow,

facing the glass-sharp swell with its biting breeze

with you, at the prow, laughing with you, knowing

that, with you beside me, I am not afraid.

 

And the spray shall rise up and strike at us then,

and, though I shall become sodden, even cold,

through the action of the water, I shall be

glad I am beside you and sharing your world.

 

BA TỨ THƠ CHO CLARE

 

Khi con tàu hướng tới The Hole in the Rock,

và con sóng nhồi hướng Tây từ Thái Bình Dương

(nổi lên) đánh vào con tàu như cú đấm,

em có thích lên xuống giống như con sóng nhồi, cười?

 

Anh thích được ở đó với em, trên mũi tàu,

đối mặt với con sóng sắc gây sự bất an

cho em, ở mũi tài, cười với em, biết

rằng, có em bên cạnh, anh không sợ.

 

Và bụi nước sẽ nổi lên và bắn vào chúng ta rồi,

và, dù rằng anh có bị ướt sũng, ngay cả lạnh,

qua tác động của nước, anh sẽ

sung sướng được bên em, chia sẻ thế giới của em.

 

THE BAY OF ISLANDS

 

Start these lines with the seagulls calling

over the waters where dolphins turn

their sleek backs under the choppy backs

of tides that turn, tugged by the high moon

 

into shape between the islands, then

think of the green water as like glass

made animate, with the force of ocean

and wind behind it, breaking over

 

rock platforms, leading to grass and trees,

and here and there a house settled down

under the skylines, where winter rain

sleeps over the saddles of stone, green

 

with grass and trees, and there to the north

the treaty place: I shall remember you,

O Bay, and the way you breathe, loosing

me like the light in Clare’s eyes and laugh.

 

VỊNH CỦA NHỮNG HẢI ĐẢO

 

Bắt đầu dòng thơ này với những con chim hải âu đang

kêu trên mặt nước nơi những con cá heo xoay

cái lưng bóng nhẫy của chúng dưới lưng

sóng bập bềnh, lên xuống, kéo mạnh bởi con trăng lên cao

 

về hướng vị trí giữa những hải đảo, rồi thì

hãy nghĩ tới giòng nước xanh giống như chiếc ly

trở nên sinh động, với lực của đại dương

và gió đằng sau nó, đang vỡ trên

 

thềm đá, dẫn tới bãi cỏ và cây cối,

và đó đây một ngôi nhà nằm thỏai mái

dưới đường chân trời, nơi mưa đông

qua đêm trên những lưng đá, xanh rì

 

cỏ và cây, và từ đó tới phía bắc

nơi giao ước: Tôi sẽ nhớ em,

Ồ Vịnh, và cái cách em thở, đang giải thóat

tôi như ánh sáng trong đôi mắt Clare và cười.

 

THUNDER (FOR CLARE)

 

The clouds grumble: it seems they do not know

you well enough. I can’t blame them at all,

but when contented all of the clouds pall,

become fluffier. Something like that, though

other people speak differently. Go

ask them if you don’t believe me, or call

on them when they’re happier. If it all

helps, so much the better. And say hello.

 

They won’t bite you (though they might nibble … well …

a tiny bit…) there’s no harm in trying

to get to know them. It’s not like dying

on stage, or corpsing as Ophelia,

being rude to someone unseely, a

problem only if you believe in Hell.

* Phillip A. Ellis is a freelance critic and scholar, and has recently completed English Honours through the University of New En­gland.

 

TIẾNG SẤM (CHO CLARE)

 

Những đám mây rền vang: hình như chúng không biết

em rõ. Tôi không thể trách cứ gì chúng,

nhưng, khi được tọai ý, tất cả đám mây trở nên

nhàm chán, xốp nhẹ hơn. Đại khái là vậy, dẫu rằng

những người khác nói một cách khác. Đi

hỏi họ nếu em không tin tôi hoặc

ghé thăm nếu họ hạnh phúc hơn. Nếu tất cả

đều có ích, ngay cả tốt hơn. Và hãy nói lời chào.

 

Chúng sẽ không cắn em (mặc dù có thể gậm nhấm… hết…

một miếng nhỏ… ) không có gì hại trong lúc cố

để biết chúng. Không giống như đang chết

trên sân khấu, hoặc diễn cương như trong vai Ophelia,

thô lỗ với kẻ hiểm ác nào đó, chỉ

là vấn đề nếu em tin vào địa ngục.

* Phillip A. Ellis là một nhà phê bình và học giả tự do. Gần đây đã hoàn thành Danh dự Tiếng Anh thông qua Đại học NewEn­gland.

*Chú thích

corpsing: là một thuật ngữ kịch nghệ, diễn không đúng với vai diễn, thường cười trong khi diễn. Việt nam có từ “diễn cương” không biết có đúng không?

unseely: là những nhân vật phản diện trong những truyện cổ tích của những đảo quốc Anh, có nghĩa là hiểm ác và có thiên hướng làm hại con người.

Ophelia, nhân vật trong vở kịch Hamlet của Shakerspear. They won’t bite you (though they might nibble… well… a tiny bit…): Theo tác giả, trong cách nói thông thường ở Úc, khi bạn giới thiệu ai, và bạn muốn nhấn mạnh là họ rất dễ chịu (easy-going), thì nói” Đây là ai-đó: họ không cắn…” và bạn thường nghe câu nói đùa bỡn, “Đây là ai-đó: họ không cắn nhưng họ có thể gậm nhấm…” trong bài, có ý là, “Đừng lo lắng, chúng sẽ không hại em đâu.”

Trong cách nói như vậy, “tiếng sấm” cũng chỉ là những đám mây, và những đám mây được nhân cách hóa, là những ai-đó (so-and-so’s) chăng?

 

Comments are closed.