Khế Iêm
Julia Alvarez
________________
WOMAN’S WORK
Who says a woman’s work isn’t high art?
She’d challenge as she scrubbed the bathroom tiles.
Keep house as if the address were your heart.
We’d clean the whole upstairs before we’d start
downstairs. I’d sigh, hearing my friends outside.
Doing her woman’s work was a hard art
to practice when the summer sun would bar
the floor I swept till she was satisfies.
She kept me prisoner in her housebound heart.
She’ shine the tines of forks, the wheels of carts,
cut lacy lattices for all her pies.
Her woman’work was nothing less than art.
And, I, her masterpiece since I was smart,
was primed, praised, polished, scolded and advised
to keep a house much better than my heart.
I did not want to be her counterpart!
I stuck out … but became my mother’s child:
A woman working at home on her art,
Housekeeping paper as if it were her heart.
* Julia Alvarez (born March 27, 1950) is an American New Formalist poet, novelist, and essayist. She rose to prominence with the novels How the García Girls Lost Their Accents (1991), In the Time of the Butterflies (1994), and Yo! (1997). Her publications as a poet include Homecoming (1984) and The Woman I Kept to Myself (2004), and as an essayist the autobiographical compilation Something to Declare (1998). Many literary critics regard her to be one of the most significant Latina writers and she has achieved critical and commercial success on an international scale.
CÔNG VIỆC NGƯỜI ĐÀN BÀ
Ai nói công việc của một người đàn bà không là nghệ thuật cao?
Bà thử thách trong lúc cọ rửa gạch men phòng tắm.
Giữ căn nhà như thể định vị là trái tim bạn.
Chúng ta lau sạch toàn thể trên lầu trước khi lau sạch dưới lầu.
Tôi thở dài, nghe tiếng những bạn tôi ở ngoài đường.
Làm công việc đàn bà của bà là một nghệ thuật khó
thực hành khi ánh mặt trời mùa hè giăng trên
sàn nhà tôi đã quét dọn cho đến khi bà được vừa lòng.
Bà giữ tôi như một tù nhân trong căn nhà đường biên trái tim.
Bà đánh bong những cái răng nĩa, những vành xe đẩy,
chạm cắt viền mắt cáo tất cả những chiếc bánh nướng.
Công việc đàn bà của bà không khác gì một nghệ thuật.
Và, tôi, kiệt tác của bà từ khi tôi khôn khéo,
đứng đắn, được ngợi khen, đánh bong, la rầy và khuyên bảo
để giữ cho ngôi nhà tốt hơn trái tim của tôi
Tôi không muốn trở thành bản sao của bà
Tôi thóat ra… nhưng đã trở thành đứa con của mẹ tôi:
Một người đàn bà làm việc ở nhà qua cái tài khéo của bà,
Báo cáo quản gia như thể nó là trái tim của bà.
* Julia Alvarez (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1950), nhà thơ, tiểu thuyết gia và nhà tiểu luận theo trường phái Tân hình thức Mỹ. Bà trở nên nổi tiếng với các tiểu thuyết How the García Girls Lost Accents (1991), In the Time of the Butterflies (1994) và Yo! (1997). Các ấn phẩm của bà với tư cách là một nhà thơ bao gồm Homecoming (1984) và The Woman I Kept to Myself (2004). Với tư cách một nhà viết tiểu luận, bà viết cuốn tự truyện Something to Declare (1998). Nhiều nhà phê bình văn học coi bà là một trong những nhà văn Latina quan trọng nhất, và bà đã đạt được thành công về mặt phê bình và thương mại trên quy mô quốc tế.
Marilyn Nelson
_________________
THE BALLAD OF AUNT GENEVA
Geneva was the wild one.
Geneva was a tart.
Geneva met a blue-eyed boy
and gave away her heart.
Geneva ran a roadhouse.
Geneva wasn’t sent
to college like the others:
Pomp’s pride her punishment.
She cooked out on the river,
watching the shore slide by,
her lips pursed into hardness,
her deep-set brown eyes dry.
They say she killed a woman
over a good black man
by braining the jealous heifer
with an iron frying pan.
They say, when she was eighty,
she got up late at night
and sneaked her old, white lover in
to make love, and to fight.
First, they heard the tell-tale
singing of the springs,
then Geneva’s voice rang out:
I need to buy some things,
so next time, bring more money.
And bring more moxie, too.
I ain’t got no time to waste
on limp white mens like you.
Oh yeah? Well, Mister White Man,
it sure might be stone-white,
but my thing’s white as it is.
And you know damn well I’m right.
Now listen: take your heart pills
and pay the doctor mind.
If you up and die on me,
I’ll whip your white behind.
They tiptoed through the parlor
On heavy, time-slowed feet.
She watched him, from her front door,
walk down the dawnlit street.
Geneva was the wild one.
Geneva was a tart.
Geneva met a blue-eyed boy
and gave away her heart.
* Marilyn Nelson (born April 26, 1946) is an American poet, translator, and children’s book author. She is a professor emeritus at the University of Connecticut, and the former poet laureate of Connecticut, She is a winner of the Ruth Lilly Poetry Prize, the NSK Neustadt Prize for Children’s Literature, and the Frost Medal. From 1978 to 1994 she published under the name Marilyn Nelson Waniek.
KHÚC CA VỀ DÌ GENEVA
Geneva dữ dằn. Geneva
cáu gắt. Geneva gặp đứa
con trai mắt xanh và trao trái
tim cho hắn. Geneva
điều hành một quán ăn bên đường.
Geneva không được học đại
học như những người khác: Thái độ
cao ngạo hành hạ bà. Bà nấu
ăn trên sông, ngắm nhìn bãi biển
lướt trôi, môi mím chặt, đôi mắt
sâu màu nâu ráo hoảnh. Họ nói
bà đã giết một người đàn bà
vì người đàn ông da đen tử
tế bằng cách đập vỡ đầu con
bê cái đáng ghét đó với một
cái chảo chiên bằng sắt. Họ nói
khi tám mươi, bà thức dậy trong
đêm và dấu già, đón người tình
da trắng vào làm tình, và gây
gỗ. Đầu tiên, họ nghe được tiếng
hát như suối reo, rồi giọng
Geneva vang lên: tao cần
mua vài thứ, lần sau, nhớ mang
thêm tiền, và sinh động lên. Tao
không muốn mất thì giờ với những
gã đàn ông yếu ớt như mày.
Ôi? Tốt thôi, ông trắng, có thể
cái đó của mày trắng nhưng cái
ấy của tao cũng trắng vậy. Và
mày biết rõ là tao đúng mà.
Bây giờ lắng nghe: hãy uống những
viên thuốc trị tim của mày và
nghe theo lời dặn bác sĩ. Nếu
mày chết sớm trên bụng tao, tao
sẽ quất vào cái lưng trắng của
mày. Họ nhón bước qua phòng đợi,
những bước chân chậm rãi và nặng
nề. Bà ta đứng ở cửa trước
nhìn theo hắn bước xuống đường trong
ánh bình minh hé rạng. Geneva
dữ dằn. Geneva cáu gắt.
Geneva gặp đứa con trai
mắt xanh và trao trái tim cho
hắn.
* Bài thơ trích từ tuyển tập “Rebel Angels, 25 Poets of The New Formalism” (Những Thiên Thần Nổi Loạn, 25 Nhà Thơ tân Hình Thức), được viết theo thể Ballad, là một bài hát, kể một câu chuyện. Trong thơ, Ballad viết thành từng đoạn thơ 4 dòng. Dòng đầu và dòng thứ ba, có 4 âm tiết nhấn, và vần ở cuối dòng. Dòng 2 và 4, có 3 âm tiết nhấn. Trong bài dịch, chúng tôi dùng thể thơ không vần Việt. Bài thơ kể về câu chuyện của Geneva, một người đàn bà da đen chanh chua và ít học. Chữ “mens” không có s. “Tell-tale” <adj>: audible (nghe được). “Up and die”: chết sớm. “có thể cái đó của mày trắng / nhưng cái ấy của tao cũng trắng vậy.” Thật quá quắt, trong đêm tối, trắng hay đen thì làm sao phân biệt? “Parlor”: Phòng đợi, có thể ở một chung cư (!). Và cuối cùng, xin bạn đọc đọc nguyên bản, để nghe nhịp điệu thơ vang lên.
* Marilyn Nelson (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1946), nhà thơ, dịch giả và tác giả về sách thiếu nhi người Mỹ. Bà là giáo sư danh dự tại Đại học Connecticut, và là cựu nhà thơ đoạt giải thưởng Connecticut. Bà thắng Giải thưởng thơ Ruth Lilly, và Giải thưởng NSK Neustadt cho Văn học dành cho trẻ em , đồng thời đạt giải Huy chương Frost. Từ năm 1978 đến năm 1994, Bà xuất bản dưới tên Marilyn Nelson Waniek.
Kh. I