Khế Iêm
PHOENIXES
for Matt, later
I thought that I was stronger than I am.
Death after death after death undid me.
My family seemed fresh sacrificial lambs.
Neither the present nor the future hid me,
And not like phoenixes they flew,
But like my old darlings, frightened, holding hands,
And like your high school girlfriend Amy who
Wore Death’s unholy, pale gray wedding band.
Dear nephew, who in my mind won’t grow old,
This is for you, for what you can’t express,
Running as you did when the huge cloud rolled
For endless blocks. For Amy, please stay blessed.
NHỮNG CON CHIM PHƯỢNG HOÀNG
Tặng cháu Matt, đọc sau
Tôi nghĩ tôi đã mạnh mẽ hơn khả năng của tôi.
Thần chết rồi thần chết rồi thần chết không làm gì tôi.
Gia đình tôi hình như đã trở thành bầy cừu non tế thần.
Không có hiện tại hay tương lai che khuất tôi,
Và không giống như những con phượng hòang đã bay,
Nhưng giống người tình cũ của tôi, sợ hãi, đôi tay nắm chặt,
Và giống như người bạn gái thời trung học Amy của cháu
Đã đeo chiếc nhẫn cưới ảm đạm tái xanh chia lìa của thần chết.
Cháu thân yêu, ai trong tâm trí tôi không già đi,
Điều này dành cho cháu, cho những gì cháu không thể diễn tả,
Hãy cứ vận hành như đã từng khi đám mây bao la cuộn tròn
So với những khu phố dài vô tận. Vì Amy, hãy ở lại trong
ơn phước.
* Chim thần thoại trong những truyện hoang đường, sống khoảng 500 hay 600 năm o73 vùng hoang dã Ả Rập, tự đốt cháy mình và sống lại từ chính tro của mình, thường biểu tượng cho sự bất tử hoặc hy vọng.
OTHERS
There is a timeless world in which they live,
In which old wounds are healed, right paths are taken,
In which they get exactly what they give,
In which they’re loved and pampered, not forsaken.
Some waited too long to have a child,
Some to marry, crumple a dull career,
Some to leave a spouse whose voice was mild
But whittled down their soul from year to year
And some turned wooden in their smiles and tongues
And some paced fragile hour to room to hour
And some took fire and smoke inside their lungs
And turned to powder in their office tower.
Oh, time ticks even in the infant’s caul,
On mourners’ wristwatches despite the Dead.
Somewhere God weeps, sorry for them all,
For what He’s written, and for what She’s said.
I sometimes see The God in Auschwitz smoke.
For years I watched Him fight internal fires.
At times I heard Her as a dirty joke
Old cronies told, maddened by desire
For sex and celebration, holy zest
For golden faith they’d swipe from churches,
Spilling with red wine, Montalcino’s best,
For what intrigue can’t seize, mere cash can’t purchase:
The intimations in the dawning light
That waken in a poet freed from time
Only when passionate, when the mind is right,
Only when stressed, when the soul must scan and rhyme.
NHỮNG KẺ KHÁC
Có một thế giới phi thời gian trong đó họ sống,
Trong đó vết thương cũ chữa lành, con đường đúng để đi,
Trong đó họ lấy lại chính xác những gì họ cho,
Trong đó họ được yêu thương, nuông chiều, không bị bỏ rơi.
Có người đã chờ đợi quá lâu để có con,
Có người chờ đợi quá lâu để kết hôn, bỏ ngang công việc nhàm chán
Có người chờ đợi quá lâu để lại người bạn đời có giọng nói dịu dàng
Nhưng Linh hồn họ đã bình yên dần theo năm tháng
Và có người gượng gạo trong nụ cười và giọng nói
Và có người tới lui trong căn phòng qua giờ khắc mong manh
Và có người hít lửa và khói bên trong lồng ngực
Và hóa thành bột trong cơ quan ở tòa tháp.
Ôi, thời gian kêu tích tắc ngay cả trong màng thóp trẻ sơ sinh,
Nơi chiếc đồng hồ đeo tay của kẻ thương tiếc bất kể kẻ chết.
Ở đâu đó Chúa rơi lệ, cảm thương họ,
Vì điều mà Chúa đã viết, và vì điều Chúa đã phán.
* Tác giả là một nhà thơ, nhạy cảm và nhân bản, một trong vài khuôn mặt quan trọng của hai phong trào tiền phong Tân hình thức và Thơ mở rộng, lại sống nơi trung tâm xảy ra cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 – 2001, nên biến cố trên có lẽ đã để lại nơi ông một cảm nhận và ám ảnh sâu sắc. Một con người như vậy, nếu không có niềm tin tôn giáo, có lẽ khó vượt qua để có thể trở lại đời sống bình thường. Trong bài thơ, “He” (nam) và “She” (nữ) là hai diện mạo của Chúa. Chúa là người chuộc tội cho điều Chúa (He) đã viết trong Cuốn sách của Đời sống (The Book of Life) – kẻ sẽ sống và kẻ sẽ chết – và cho điều Chúa (She) đã phán về đời sống nhân loại.
Đôi khi tôi thấy Chúa trong khói ở Auschwitz.
Trong nhiều năm tôi đã quan sát Chúa chiến đấu với ngọn lửa nội tâm,
Ở thời khắc tôi đã nghe Chúa như trò đùa bậy bạ
Những người bạn già chí cốt đã kể lại, bị dày vò bởi ham muốn
Vì dục tình và sự tán tụng, sự ham mê thánh thiện,
Vì đức tin vàng ngọc mà họ cuỗm được từ nhà thờ,
Chảy tràn ra với rượu đỏ, loại tốt nhất ở Montalcino
Vì điều gì âm mưu không thể cầm giữ, tiền mặt không thể mua bán:
\
Ẩn dụ của lời Chúa trong ánh sáng bình minh
Làm thức dậy trong nhà thơ, trạng thái phi thời gian
Như lúc đam mê, cần tâm trí sáng suốt,
Như lúc căng thẳng, cần tâm hồn hòa điệu.
* Chú thích
1/ Auschwitz, trại tập trung giết người hàng loạt bằng hơi ngạt, khủng khiếp của Đức Quốc Xã, trong thế chiến II.
2/ Montalcino là một thị xã ở Florence, Ý, sản xuất loại rượu đỏ nổi tiếng, Brunello di Montalcino.
Tác giả tin rằng đời sống tôn giáo có thể giúp chúng ta chiến đấu với ngọn lửa nội tâm. Nếu con người không đối xử với Chúa (She) như một trò đùa bậy bạ, biến đức tin thành chủ nghĩa vật chất qua mưu mô và tham ái, thì sẽ nhận được ám dụ lời Chúa, chẳng khác nào nhà thơ đạt đến trạng thái trầm lắng trong cõi thơ.
SLEEPWALKERS
We necked on a bench
In Central Park
Till the trees gave up their leaves
To the unholy dark.
We stumbled to Sheep Meadow
And lay sideways down
Till the office lights went out
In the towers of midtown
Where terrorists roamed the streets
Casually as flirts,
Fingering vials of plague
Under New York Yankee shirts.
The autumn sky turned innocent,
Baby pink and blue,
And lit us in a rectangle
Of still green grass, black shoes.
We hopped a local train
To where the terrified stood,
And watched the smoke spread
As long as we could.
* The sun lights the grass into a rectangle that suggests being trapped. The grass is still green, unpolluted by the ash of 9/ll. The black shoes are those the people are wearing but also is meant to suggest the shoes of the people who had to jump out of the buildings.
NHỮNG KẺ MỘNG DU
Chúng tôi ôm hôn thắm thiết trên băng ghế
Ngoài công viên Central Park
Cho đến khi cây cối trút lá
Vào bóng tối dầy đặc.
Chúng tôi ngã xuống công viên Sheep Meadow
Và nằm nghiêng một bên
Cho đến khi những ngọn đèn
Văn phòng trên tòa tháp
Ở trung tâm thành phố tắt
Nơi những kẻ khủng bố đi lang thang
Ngẫu nhiên như những kẻ tán gái,
Dấu chai vũ khí vi trùng bằng ngón tay
Dưới những chiếc áo sơ mi ghi chữ New York Yankee
Bầu trời mùa thu trở nên vô tội,
Như những em bé gái bé trai,
Chiếu sáng chúng ta trong khoang cỏ
Xanh hình chữ nhật, những chiếc giày đen.
Chúng tôi đã đi một chuyến xe lửa địa phương
Tới nơi những kẻ khủng bố đứng,
Và nhìn cột khói tỏa ra
Lâu chừng nào chúng tôi có thể.
* Mặt trời chiếu ánh sáng xuống mảng cỏ hình nhữ nhật, ý nói bị sập bẫy. Cỏ xanh tươi cho đến khi bị ô nhiễm bởi tro 9/11, và những chiếc giày đen là của những người nhảy ra từ những tòa nhà.
SHE HANDS THE FIRE CAPTAIN A PHOTO
His name is Sean, he grins a goofy grin.
If you can find him, call me please.
His eyes are keen – he’s seen the frown of Death!
He’ll say my name – it’s Beth – with his last breath.
He wears a silver cross, a V-shaped scar
Marks his left wrist – no, right! – from a bar fight,
Though he’s just gentle as our Burmese cat.
If you can find his hand – or head! – please tell me that.
He loved these towers and his posh address.
He loved his view, his desk, his colleagues, friends.
He loves the East Side of Manhattan and the West.
He wears a double-breasted blazer, linen pants.
His tie is navy blue and never straight.
He smokes despite me, and he’ll never dance.
His cell phone’s broken and his rent is late.
NÀNG TRAO TAY TẤM HÌNH
CỦA ĐẠI ÚY CỨU HỎA
Tên ông ấy là Sean, cười toe trông huệch hoạc.
Nếu anh tìm thấy ông ấy, làm ơn gọi cho tôi.
Đôi mắt ông ấy đầy nhiệt tình – đã gặp mặt Thần Chết!
Ông ấy sẽ nói tên tôi – đó là Beth – với hơi thở cuối.
Ông ấy đeo thánh giá bằng bạc, dấu sẹo hình chữ V
Ở cổ tay trái – không, tay phải! – lúc đánh nhau trong quán rượu,
Mặc dù ông ấy hòa nhã như con mèo Miến Điện của chúng tôi.
Nếu anh tìm thấy bàn tay ông ấy – hoặc cái đầu! – hãy cho tôi biết.
Ông ấy yêu thích tòa tháp này và địa chỉ sang trọng.
Ông ấy yêu thích quang cảnh, bàn làm việc, đồng sự, những bè bạn.
Ông ấy yêu thích phía Đông Mahattan và phía Tây.
Ông ấy mặc chiếc áo hai hàng cúc, quần vải sợi.
Cà vạt của ông ấy màu xanh dương và không bao giờ thẳng.
Ông ấy hút thuốc bất kể tôi, và sẽ chẳng bao giờ khiêu vũ.
Cell phone của ông ấy bị vỡ và tiền thuê nhà của ông ấy trả trễ.
FATHER AND SON
Finally I’ve learned forgiveness at this age,
For your mistakes that crippled me,
Which I’ve repeated. I have seen far worse.
You made them out of ignorance, not choice.
The rage I had, the wisdom that I lacked
Amaze me now, as if a page
That I was reading suddenly caught fire
And images of you tumbled from the smoke,
Words you mumbled when you were very tired,
Dying, your hand in mine, that long last night,
Both knowing you had lost all breath to fight.
“It’s late,” you said, “I don’t want you to go.
But you have to leave me.” So I sighed
And, like a child in winter, buttoned up my coat.
“I love you,” we said simultaneously.
“Kiss your son for me,” who then was four months old.
The next day you were found unsaveable and cold.
So if I try to save you on this page
And if you try to save me from your realm,
Eons away, distances so vast
It seems a microscopic stage our past
Of father and son struggling through myth
Which we enacted witlessly and sick,
Dumb, irreconcilable, compelled
To make this seeming paradise a hell
In which we sleptwalked like the shade you are,
The shadow of a man I hoped to be.
Why were we burdened, little you and me
Or, as you often said, “How can this be?”
So if I try to save you on this page
And if you try to save me from your realm,
Eons away, distances so vast
It seems a microscopic stage our past
Of father and son struggling through myth
Which we enacted witlessly and sick,
Dumb, irreconcilable, compelled
To make this seeming paradise a hell
In which we sleptwalked like the shade you are,
The shadow of a man I hoped to be.
Why were we burdened, little you and me
Or, as you often said, “How can this be?”
* This poem alludes to is the tragic reconciliation I had with my father the day he died and my feelings later in which I which I sought forgiveness and found forgiveness for the difficulties in our relationship. In childhood we were very close. In my adolescence it was a difficult time for both of us. Its placement in the book is meant to suggest a parallel between our sleepwalking through life and the sleepwalkers in the 9/ll poem, that is the relationship between private and public trauma I talk about in the Afterword.
As you can gather, my poetry books are not collections but are carefully structured books.
* This poem alludes to is the tragic reconciliation I had with my father the day he died and my feelings later in which I which I sought forgiveness and found forgiveness for the difficulties in our relationship. In childhood we were very close. In my adolescence it was a difficult time for both of us. Its placement in the book is meant to suggest a parallel between our sleepwalking through life and the sleepwalkers in the 9/ll poem, that is the relationship between private and public trauma I talk about in the Afterword.
As you can gather, my poetry books are not collections but are carefully structured books.
CHA VÀ CON
Cuối cùng, ở tuổi này, con đã học được sự tha thứ,
Vì những sai lầm của cha đã làm hỏng con,
Những sai lầm đó con đã lập lại. Con thấy còn tệ hại hơn.
Bởi cha đã phạm sai lầm vì không biết, chứ không phải chọn lựa.
Con đã có thừa sự giận dữ, và thiếu sự khôn ngoan
Điều đó làm con ngạc nhiên, như thể một trang sách
Con đang đọc bất thình lình bắt lửa
Và hình ảnh của cha ngã nhào từ cột khói,
Những tiếng cha lầm bầm khi cha đã mệt lả,
Lúc hấp hối, con đã nắm tay cha, đêm dài cuối cùng đó,
Cả hai chúng ta đều biết cha đã chiến đấu đến hết hơi.
“Trễ rồi,” cha nói, “Cha không muốn con đi.
Nhưng con phải bỏ cha ở lại.” Lúc đó con đã thở dài.
Và, như một đứa trẻ trong mùa Đông, con cài nút áo khóac.
“Con (cha) thương cha (con),” chúng ta cùng nói,
“Hôn đứa cháu cho cha,” đứa cháu mới bốn tháng tuổi.
Hôm sau, cha được tìm thấy đã chết và lạnh.
Như thế, nếu con cứu cha trên trang giấy này
Và nếu cha cứu con từ vương quốc của cha,
Khỏang thời gian vô tận vụt qua, khoảng cách quá lớn
Tưởng như một sân khấu vi mô quá khứ của chúng ta
Của cha và con vẫy vùng qua huyền thọai
Mà chúng ta đã diễn vai như mất hồn và chán ngán,
Đần độn, bất tương nhượng, thúc bách
Để làm ra vẻ thiên đường này là địa ngục
Trong đó chúng ta mộng du như thể cha là cái bóng,
Cái bóng của người đàn ông con mong được trở thành.
Tại sao chúng ta bị đè nặng, tuổi thơ của cha và con
Hoặc, như cha thường nói, “Làm sao lại thế này nhỉ?”
* Lời tác giả: Những ám dụ của bài thơ này, là sự hòa giải đầy bi kịch. Tôi đã ở bên người cha của mình khi ông chết, và những cảm xúc sau đó là tìm kiếm sự tha thứ và đã tìm thấy sự tha thứ cho những cảnh khó khăn trong mối liên hệ cha con. Trong thời thơ ấu, tôi rất gần gũi ông. Trong thời thanh niên là lúc khó khăn cho cả hai chúng tôi. Sự tìm kiếm đó trong cuốn sách hàm ý sự trùng hợp giữa sự mộng du của chúng tôi xuyên suốt cuộc đời và những kẻ mộng du trong bài thơ về biến cố 9/11, đó là sự liên hệ giữa cơn chấn thương riêng và chung mà tôi đã nói trong Lời cuối.
Như bạn biết, những tập thơ của tôi không phải chỉ là những tuyển tập mà còn là những tập thơ được kết cấu cẩn thận.
Frederick Feirstein