Nhìn lại âm nhạc miền Nam 1954-1975 (kỳ 14)

Nguyễn Phú Yên

CHƯƠNG XIII

NHẠC SINH VIÊN TRANH ĐẤU

Trong cuộc đấu tranh của nhân dân đô thị miền Nam, lực lượng học sinh, sinh viên miền Nam luôn luôn đứng ở tuyến đầu đầy nhiệt huyết và dũng cảm. Họ có nhiều hình thức đấu tranh phong phú: hội thảo, bãi khóa, biểu tình, truyền đơn, biểu ngữ, tuyên cáo, phát thanh với những ngày tuyệt thực, những đêm không ngủ… Gắn chặt với những loại hình đấu tranh này, họ còn dùng những hoạt động văn hóa nghệ thuật mang tính chất xung kích, dễ tác động vào lòng người như báo chí, thơ ca, âm nhạc, hội họa, múa, hoạt cảnh, kịch… Hàng chục tờ báo ronéo, hàng ngàn bài báo bài thơ ra đời, hàng trăm bài hát đấu tranh đã đến với tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh, đến với đông đảo người dân trên khắp các đô thị miền Nam. Các hình thức biểu diễn của các đội văn nghệ xung kích cũng đa dạng. Trên các đường phố, các sinh viên học sinh chỉ cần một hai cây đàn guitar gọn nhẹ để bắt nhịp cho các giọng ca của tuổi trẻ đầy khí thế trong các cuộc xuống đường. Trong các sân trường, trên các giảng đường đại học, họ có những màn đơn ca, hợp ca, vở kịch, hoạt cảnh do sinh viên sáng tác bày tỏ lòng yêu nước thương nòi, yêu quê hương của họ. Đó là những vũ khí sắc bén góp phần vào cuộc đấu tranh để chống lại áp bức, bất công, kêu gọi quyền sống, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi độc lập và hòa bình cho quê hương.

Truyền thống văn nghệ đấu tranh đó của giới sinh viên khởi đi từ thập niên 1940 trong kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh mới của thập niên 1960-1970, chúng ta có thể nhận ra tác động xã hội rõ rệt của phong trào Nhạc sinh viên tranh đấu mà giới trẻ thường gọi là phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”. Những người sáng tác các bài hát đấu tranh là những nhạc sĩ sinh viên và cả những người say sưa truyền bá tiếng hát ấy cũng chính là lớp trẻ lớn lên giữa lòng quần chúng. Họ biết phản ánh tâm tư, tình cảm, nhịp đập con tim của chính mình cũng như ghi lại tiếng nói của lương tâm và ước vọng của quần chúng. Do xuất thân từ sinh viên các phân khoa văn chương, khoa học, luật hoặc y khoa, họ chưa bao giờ là nhạc sĩ chuyên nghiệp nhưng khi đứng vào đội ngũ thanh niên đấu tranh đô thị họ tự viết lên tâm tình và truyền cảm hứng cho một lớp thế hệ trẻ và chính họ đã góp phần cho phong trào lớn mạnh. Vì là tiếng nói chân thật phát ra tự đáy lòng, các ca khúc trong phong trào văn nghệ học sinh, sinh viên thật sự đã làm rung động trái tim của mọi tầng lớp nhân dân.

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO NHẠC SINH VIÊN TRANH ĐẤU

1. Giai đoạn 1965-1969

Những năm giữa thập niên 1960, tình hình chính trị có nhiều thay đổi với nhiều lãnh đạo quân sự và dân sự, đời sống tại các đô thị hoàn toàn bị xáo trộn nhất là khi có sự hiện diện của quân Mỹ trên đất nước ta. Trong sinh hoạt văn nghệ, nhiều sản phẩm nghệ thuật ra đời khiến người có ý thức dân tộc bước đầu cảm thấy xa lạ. Các sinh viên phản ứng lại bằng cách dùng thứ vũ khí sẵn có được sử dụng ngay trong hoàn cảnh này chính là dân ca để khêu gợi tinh thần dân tộc. Phong trào hát dân ca trong tầng lớp học sinh, sinh viên ra đời. Thanh niên hát các bài ca như Lý ngựa ô, Lý con sáo, Se chỉ luồn kim, Qua cầu gió bay, Trống cơm, Cây trúc xinh…Những trang phục cổ truyền và nhạc cụ dân tộc họ sử dụng như là một cách bày tỏ thái độ hưởng ứng trào lưu văn hóa “về nguồn”.

Trước sự lớn mạnh của phong trào văn nghệ yêu nước tiến bộ, các chính quyền miền Nam cũng tìm cách để giành lại quần chúng về mặt tinh thần. Họ gấp rút tổ chức những đoàn văn nghệ lấy tên Nguồn Sống, Tiên Rồng cũng như trình diễn các tiết mục dân ca. Đặc biệt là phong trào du ca Việt Nam cũng ra đời vào giai đoan này nhưng được cấp phép hoạt động, được đi hát khắp nơi, trong khi nhạc sinh viên tranh đấu thì bị cấm đoán. Bên cạnh đó các tác phẩm tâm ca, vỉa hè ca, tục ca của Phạm Duy cũng được ưu ái phổ biến khiến giáo sư Nguyễn Trọng Văn đã bày tỏ thái độ bằng cách in cuốn sách Phạm Duy đã chết như thế nào?

Trong khi đó phong trào tranh đấu ngày càng phát triển. Sinh viên học sinh chuyển sang hát sử cakháng chiến ca. Đó là các bài hát Trên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau (Hoàng Quý), Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc (Văn Cao), Ải Chi Lăng, Người xưa đâu tá, Bạch Đằng giang, Hội nghị Diên Hồng, Khúc khải hoàn (Lưu Hữu Phước)…, và tiếp đó là các bài Sông Lô (Văn Cao), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận), Lên đàng (Lưu Hữu Phước)… là những bài hùng ca viết trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Sử ca và kháng chiến ca có tác dụng kích thích lòng yêu nước song không phản ảnh được thực tại đấu tranh nóng bỏng của quần chúng thành thị miền Nam. Vì vậy, học sinh sinh viên đã trực tiếp sáng tác những bài ca tranh đấu để thúc đẩy hành động. Từ chủ trương của các tổng hội sinh viên, tổng đoàn học sinh khẳng định tính chất đấu tranh, phong trào ca hát trong lớp trẻ học đường càng phát triển. Đoàn văn nghệ Học sinh sinh viên Sài Gòn được thành lập từ ngày 15-5-1965 để truyền bá và thu hút các tài năng trẻ nhiệt huyết. Các sinh viên Dương Văn Đầy, Trương Thìn, Hồ Hữu Nhựt, Trần Thiện Tứ đã lần lượt lãnh đạo Đoàn văn nghệ. Bên cạnh đó còn có các đội văn nghệ của sinh viên học sinh Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Cần Thơ… cũng hoạt động tích cực.

Những năm từ 1966 đến 1969, nhạc sĩ Tôn Thất Lập đã có nhiều sáng tác mới như Nói với nhau, Đêm hồng, Giao ca, Người đi qua dòng sông, Hãy giành lại ruộng vườn, Từ sông Hương nhớ về sông Hát, Người đợi người, Tiếng hát tôi, Lúa reo trên khắp đồng bằng, Đốt sáng đêm tìm lấy hòa bình… Đó là những bài hát mang tính chất thức tỉnh, nhìn nhận lại vai trò của lớp trẻ giữa hoàn cảnh chiến tranh; giai điệu các bài hát còn nhẹ nhàng, tình cảm, dễ đi vào lòng người như những lời tình tự tha thiết:

Chúng ta nói với nhau bằng tiếng mẹ ru mây

Chúng ta nói với nhau câu hát nhủ trên tay

Anh ơi nói với nhau câu nói của dân ta

Tiếng hát tự trong tim, không xa hoa giả dối…

(Nói với nhau)

Hát cho trăm năm nở lúa trên đồng

Cho biết anh hùng đuổi giặc xâm lăng…

(Giao ca)

Tiếng hát tôi lên từ cuộc đời

Tiếng hát tôi xa dần loài người

Tiếng hát tôi rã rời chiêm bao.

Tiếng hát tôi giam vào nụ cười

Máu các anh đổ mòn đường dài

Tiếng hát tôi không còn trong tôi…

Mẹ ơi cho con xin đôi vai gầy

Trên quê hương bom đạn

Bạn bè đã thiếu mặt

Chim trời gãy cánh lạc loài hư vô…

(Tiếng hát tôi)

Tinh thần tranh đấu của học sinh sinh viên được thắp sáng từ các buổi xuống đường, bãi khóa, từ các đêm thơ nhạc diễn ra liên tục ở Huế, Sài Gòn và một số đô thị khác.

Có thể điểm qua một số chương trình biểu diễn quan trọng của phong trào sinh viên:

– Tháng 11-1967, nhạc sĩ Tôn Thất Lập tổ chức đêm hát “Bài ngợi ca Việt Nam” tại Câu lạc bộ Đại học Dược khoa, Sài Gòn do tạp chí Đất Mới của sinh viên Luật khoa Sài Gòn tổ chức.

– Tháng 12-1967, Ban đại diện sinh viên Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Huế tổ chức đêm thơ nhạc với nhiều bài thơ rực lửa của Trần Quang Long, Ngô Kha, những bài hát đầy chất sử thi của nhạc sĩ Tôn Thất Lập.

– Nổi bật trong phong trào văn nghệ đấu tranh giai đoạn này là đêm biểu diễn của sinh viên học sinh Sài Gòn vào một ngày cuối năm 1967 tại khuôn viên Trường Quốc gia Hành chánh. Hàng ngàn người đã vượt hàng rào cảnh sát phong tỏa, kéo nhau về dự Đại hội Văn nghệ Tết Quang Trung. Bên ngoài cảnh sát càng siết chặt vòng vây. Bên trong, hàng ngàn ánh đuốc càng bùng lên trên nền bức tranh hoành tráng dài hơn cả chục mét vẽ lại hào khí Thăng Long. Tiếng hát dàn đồng ca vang lên một bài hát mới, một bài ca nghe xôn xao, rộn ràng trong lòng người như ta đã từng nghe những ca khúc Lên đàng, An Phú Đông…, một bài ca vừa mang sức sống của dân tộc vừa mang âm hưởng các hành khúc hùng tráng:

Hát cho dân tôi nghe

Tiếng hát tung cờ ngày nào

Hát qua đêm thiên thu

Lửa cháy trên trại giặc thù

Hát âm u trong đêm

Muôn cánh tay đang dậy lên

Hát cho anh công nhân

Xiềng xích như mây tan hoang

Hát cho anh nông dân

Bỏ cày theo tiếng loa vang.

(Tôn Thất Lập, Hát cho dân tôi nghe)

Tiếng hát vừa cất lên trên sân khấu thì hàng ngàn tiếng vỗ nhịp bên dưới đã cất theo:

Ngày nao thênh thang

Dân đứng lên phá xiềng nô lệ

Ngày nao hiên ngang

Ta cùng nhau đứng chung đồng bào

Giành lại dòng sông này

Cho lúa chín khắp đồng xanh

Giành lại thành phố đó

Bàn tay nâng cao hòa bình…

(Tôn Thất Lập, Hát cho dân tôi nghe)

Và trên nền những khúc sử ca hào hùng: Thăng Long hành khúc, Hội nghị Diên Hồng…, tiếng hát sinh viên vang lên trong đại vũ khúc Lúa thơm đồng xanh tạo nên khí thế quyết chiến đấu của nhân dân:

Người đợi người trong ngày hội trùng tu

Người đợi vào Thăng Long một tối…

Người đợi người trên vận thuyền chung

Người đợi người lúa cũng trổ bông

Người đợi nhau qua cầu đổ nát

Người đợi nghe nửa đêm hòa bình.

Lúa của anh thơm trên đồng xanh

Lúa người nghèo nuôi dân cả nước

Lúa một trăm năm nuôi anh kháng chiến

Lúa còn đời đời đuổi giặc xâm lăng.

(Tôn Thất Lập, Người đợi người)

Tất cả đã biến thành biển sóng – một đại hợp xướng hùng hồn, và tiếng hát đã trở thành nhịp đập con tim của hàng ngàn khán giả trẻ hòa mình vào không khí sôi động của một dòng nhạc mới tươi vui đầy ý nghĩa như muốn ôm ấp lấy quê hương thân yêu của mình. Và tiếng hát học sinh, sinh viên các thành thị miền Nam như vậy đã trở thành tiêu biểu cho sức mạnh của phong trào.

– Ngày 27-9-1968, sinh viên Sài Gòn lại tổ chức đêm hội thảo về tình hình đất nước, xen kẽ là các bài hát tranh đấu quen thuộc.

– Ngày 9-11-1968, Hội đồng Sinh viên Liên khoa Huế tổ chức đêm nhạc Tôn Thất Lập tại giảng đường C Đại học Khoa học Huế, khởi đầu cho phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” tại thành phố này với các giọng ca sinh viên học sinh Huế. Dịp này nhạc sĩ Tôn Thất Lập tập cho khán giả hát tập thể các bài Giao ca, Người đợi người

– Đầu năm 1969, Tôn Thất Lập tổ chức “Đêm Hồng ca” tại Trung tâm Văn hóa và xã hội Phật giáo Sài Gòn.

– Ngày 27-12-1969 trong đêm văn nghệ “Vì hòa bình” tại Trường đại học Nông Lâm Súc, Sài Gòn đã chính thức ra mắt tên gọi phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” tại Sài Gòn, khẳng định rõ nét nhất tính chiến đấu của phong trào văn nghệ của học sinh, sinh viên ở các đô thị miền Nam. Phong trào đã phát triển không chỉ ở Sài Gòn mà còn lan tỏa ra khắp các đô thị khác. Tuy nhiên có thể nói phong trào văn nghệ sinh viên học sinh trong giai đoạn đầu 1967-1969 chủ yếu vẫn sử dụng những bài dân ca, sử ca, kháng chiến ca, những bài thơ, bài hát yêu nước mới sáng tác khêu gợi tinh thần quật cường của dân tộc trong tiến trình lich sử giữ nước. Giai đoạn này như một bản lề đánh dấu sự chuyển biến trong nhận thức của lớp trẻ thông qua nội dung của các sinh hoạt văn nghệ học đường. Các ca khúc tranh đấu của sinh viên đang ở bước khởi đầu, tuy chưa phong phú nhưng đã tạo tiền đề cho hoạt động sáng tác những năm về sau.

2. Giai đoạn từ 1970 đến 1975

Từ năm 1970 trong cao trào đấu tranh, với tính chất đa dạng và phức tạp của nó, các đoàn văn nghệ được thành lập thêm tại các trường đại học:

– Đoàn văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh do sinh viên Vũ Kim Hạnh làm trưởng đoàn; đoàn không chỉ có tác động mạnh mẽ tại Đại học Vạn Hanh và các tổ chức sinh viên Phật tử miền Nam mà còn bao trùm cả giới sinh viên và trí thức ngoài Phật giáo.

– Đoàn Văn nghệ Sinh viên Văn khoa Sài Gòn do sinh viên Trần Long Ẩn làm trưởng đoàn.

– Đoàn văn nghệ Thanh niên sinh viên Phật tử do sinh viên Trương Quốc Khánh phụ trách.

– Đoàn văn nghệ Thiếu nhi Cờ Lau do nữ sinh viên Mười, Hiếu, Quỳnh Như phụ trách.

– Đoàn văn nghệ học sinh sinh viên Huế hoạt động dưới sự chỉ đạo của Tổng hội Sinh viên Huế do sinh viên Phan Hữu Lượng phụ trách; các bạn trẻ đến biểu diễn ở các trường học, các giảng đường đại học, ở các đêm không ngủ, các chương trình công tác xã hội tại các vùng quê, các trại tạm cư, thậm chí còn biểu diễn tại một vùng Công giáo ở Huế… Tiêu biểu là tiếng hát tranh đấu vang lên sôi nổi tại giảng đường Đại học Khoa Học Huế ngày 6-8-1970, với sự có mặt của nhiều sinh viên các phân khoa, đặc biệt có GS Lê Thanh Minh Châu, viện trưởng Viện Đại học Huế, tham dự.

– Ở các đô thị khác cũng có những đội văn nghệ xung kích hoạt động với sự tham gia của các sinh viên nòng cốt, các tổng đoàn học sinh được thành lập ở mỗi địa phương: Đà Nẵng, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long Xuyên, Quy Nhơn, Đà Lạt (với hai đêm văn nghệ tại giảng đường chùa Linh Sơn năm 1972), Phan Thiết (chương trình biểu diễn tại Hội quán Thanh niên năm 1972)…

Qua quá trình hoạt động ở khắp nơi đã hình thành các tổ chức văn nghệ yêu nước trong học sinh, sinh viên khá vững mạnh và có sức thuyết phục lớn. Trong các năm từ 1970 đến 1972, “Hát cho đồng bào tôi nghe” đã dâng lên thành một cao trào lớn mạnh. Đội ngũ ngày càng đông đảo các nhạc sĩ sinh viên được định hình, vừa hoạt động trong phong trào vừa sáng tác được nhiều ca khúc phục vụ kịp thời. Ở Sài Gòn, phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” có các nhạc sĩ Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh, Hải Hà (Trương Thìn), Nguyễn Xuân Tân, Nguyễn Tuấn Kiệt, Xuân An, Miên Đức Thắng, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Nam, Trần Xuân Tiến, Võ Đức Dũng, Tôn Thất Thành, Nguyễn Văn Chính… Ở các đô thị khác có các nhạc sĩ La Hữu Vang, Nguyễn Phú Yên, Nguyễn Duy Khoái, Nguyễn Quang Nhàn, Nguyễn Huy Hùng…

Phong trào ngày càng mở rộng với sự tham gia nhiệt tình của các nhạc sĩ đàn anh nổi tiếng như Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu, Phạm Thế Mỹ. Học sinh sinh viên Huế không thể nào quên những đêm hát của Trịnh Công Sơn tại cư xá Nam Giao với các bài trong các tập nhạc “Ca khúc Da Vàng”, “Kinh Việt Nam”, “Ta phải thấy mặt trời” như Huế Sài Gòn Hà Nội, Chính chúng ta phải nói hòa bình, Đừng mong ai đừng nghi ngại, Ta quyết phải sống, Những giọt máu trổ bông, Nối vòng tay lớn…; nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu xuất hiện với tác phẩm Quê hương (phổ thơ Giang Nam); nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ với các ca khúc Thương quá Việt Nam, Người về thành phố và một số bài trong các hợp xướng mang màu sắc dân tộc của ông.

Bên cạnh đội ngũ sáng tác có các giọng ca sinh viên được mọi người mến mộ như Thanh Tuyền, Lệ Minh, Phương Bích, Phương Lan, Phan Hữu Lượng, Trần Hồng Lĩnh, Đỗ Hữu Thạnh, Võ Văn Cần (ở Huế), Nguyễn Thị Mỹ Hoa, Trần Thị Hiệp, Châu Chí Bảo (ở Đà Nẵng), Thúy Liên, Mỹ Chinh, Kim Phương, Phùng Thị Thương, Mỹ Thành, Kiều Liên, Tường Lan, Thiên Hương, Kim Ngọc, Diệu Lý (ở Sài Gòn)…

Song song với ca khúc, các đội văn nghệ học sinh, sinh viên còn có những màn nhạc cảnh như Đốt sáng đêm tìm lấy hòa bình, Công trường chiều nay do Tôn Thất Lập sáng tác. Đặc biệt là những vở múa lớn như Tiếng trống hào hùng, Làm thân cỏ cú, Rạch Gầm dậy sóng (nhạc của Lưu Hữu Phước), Từ sông Hương nhớ về sông Hát, Tiếng gọi sinh viên, Cánh chim Hòa bình… do biên kịch Tùng Linh sáng tác. Những vở kịch đường phố như Diêm Vương xử án do Trương Quốc Khánh và Trương Anh Dũng sáng tác. Ở Huế, thời gian này có các hoạt cảnh Võ Thị Sáu do Phan Hữu Lượng và Võ Quê dàn dựng, hoạt cảnh Giọt máu ta một biển hòa bình do Võ Quê sáng tác. Tuy vậy sức sống của phong trào chính là từ các ca khúc của các nhạc sĩ sinh viên.

Nhìn chung, các buổi trình diễn của các đoàn văn nghệ sinh viên học sinh ở nhiều tỉnh thành toát lên sức chiến đấu của những trái tim nhiệt tình yêu nước, đã gây tiếng vang trong lòng thế hệ thanh niên và quần chúng. Các hoạt động văn nghệ ấy đã nói lên được những khát vọng bức thiết của người dân, những điều mà mọi người Việt Nam yêu nước đều mong đợi. Rõ ràng học sinh sinh viên đã chọn văn nghệ làm phương tiện hữu hiệu để chống lại các khuynh hướng văn nghệ phi dân tộc lúc bấy giờ. Tiếng hát của tuổi trẻ còn cất cánh bay xa hơn, vượt bờ cõi Việt Nam, khơi dậy lòng yêu nước của những người con đất Việt và lôi cuốn thanh niên trí thức tiến bộ ở các nước như Pháp, Tây Đức, Canada, Nhật, Bỉ, Úc, Tân Tây Lan, Thụy Sĩ và ngay cả ở nước Mỹ.

II. NỘI DUNG CA KHÚC CỦA NHẠC SINH VIÊN TRANH ĐẤU

Ra đời từ thực tế đấu tranh và cuộc sống nhân dân thành thị, đề tài sáng tác của các nhạc sĩ sinh viên rất phong phú và đa dạng, bao giờ cũng sinh động vì được đắm chìm trong niềm ước mơ của dân tộc. Họ đã bị đánh đập, bắt bớ, cầm tù, thế mà công việc sáng tác không bao giờ ngừng nghỉ. Những nhạc sĩ sinh viên bao giờ cũng lấy nguồn cảm hứng từ nhịp đập con tim thời đại, không phải một con tim cô độc và viễn mơ, mà bao giờ cũng gắn bó với số phận khôn cùng của người dân trong cơn lốc chiến tranh, số phận ngặt nghèo bị đày đọa, thống khổ của những người bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã. Trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm của người dân, chất liệu của tác phẩm lại càng trung thực và dễ rung động lòng người. Các bài ca tranh đấu phản ánh khí thế đấu tranh của quần chúng đô thị, là lời kêu gọi trong các cuộc xuống đường, trong những đêm không ngủ. Tiếng hát còn gợi lên lòng nhân ái, tình yêu thương đùm bọc, đoàn kết trong đấu tranh; đó là lời nói đanh thép thể hiện ý chí chiến đấu ngoan cường của tuổi trẻ. Tiếng hát còn biểu lộ tình yêu quê hương đất nước, niềm hy vọng vô biên vào tương lai tươi sáng của dân tộc, niềm mơ ước hòa bình với cuộc sống trong thái hòa, yên vui…

1. Cuộc đấu tranh trực diện trên đường phố

Tiếng hát đấu tranh thể hiện rõ nét và để lại dấu ấn sâu sắc thường vang lên trong các cuộc hội thảo, bãi khóa, xuống đường của các tầng lớp nhân dân và ngay cả trong tù ngục. Đó là tiếng hát của mọi con tim yêu nước khi đối diện với thực tại chiến tranh trên quê hương và xã hội còn nhiều bất công, nhiều cảnh đời buồn thảm. Tiếng hát ấy không chỉ là lời kêu gọi suông, trái lại lớp thanh niên, sinh viên đó đã trực tiếp bày tỏ mạnh mẽ qua các giai điệu đầy biểu cảm và nhịp điệu hùng tráng của những con tim nhiệt thành, cháy bỏng trên những nẻo đường của thành phố:

Xuống đường, xuống đường này anh em ơi

Tay cầm tay ta cùng bước tung ra phố phường

Tim sục sôi ta cùng gánh giang sơn lúc này

Xuống đường…

(Trần Nhật Nam, Xuống đường)

Dậy mà đi, dậy mà đi,

Ai chiến thắng không hề chiến bại

Ai nên khôn không khốn một lần

Dậy mà đi, dậy mà đi,

Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!…

(Nguyễn Xuân Tân, Dậy mà đi)

Dù bạo quyền đem súng đạn áp bức

Vững niềm tin thẳng đường ta đi tới

Nguyện đấu tranh đến ngày mai thắng lợi

Ngày Việt Nam Hòa bình dậy nơi nơi…

(Trần Long Ẩn, Hát trên đường tranh đấu)

Vùng lên thanh niên ơi

Vùng lên sinh viên ơi

Vang phố phường dậy tiếng đồng bào

Ta kết đoàn và tiên phong tiến tới…

(Tôn Thất Lập, Tiếng gọi sinh viên)

Khi đất nước đang còn khổ đau

Khi nhân dân đang còn cơ cầu

Sao ta lại mãi cúi đầu nghe kinh

Khi trái tim ngủ quên.

Thanh niên ơi, sinh viên ơi!

Đồng bào ta đang gọi đó

Mau thức dậy kết đoàn xuống đường

Mau thức dậy kết đoàn tranh đấu

Giành lấy những mùa xuân…

(Nguyển Duy Khoái, Xuống đường giành lấy mùa xuân)

Hừng hực, hừng hực lửa trong tim ta

Lửa nấu nung bao triệu con người

Lửa từ trên quê hương đổ nát

Lửa từ trong bao nỗi tủi hờn…

(La Hữu Vang, Lửa cháy lên rồi)

Khi những người trai xuống đường, họ sẽ đối diện trước hết là những nhân viên công lực đón chờ họ với dùi cui, với bình xịt hơi cay, với dây kẽm gai để ngăn cản hoặc đánh đập, bắt bớ… Nhưng các bạn trẻ ân cần nói lời nhẹ nhàng để khêu gợi tấm lòng của họ đối với đồng bào:

Chiếc dùi cui anh cầm là của người bạn Mỹ

Nhưng người dân tuy nghèo là dân mình anh ơi.

Trái đạn cay anh cầm là của người bạn Mỹ

Nhưng Việt Nam cơ cầu là quê mình anh ơi…

À ơi súng bom đày đọa quê mình

Có chàng là chàng cảnh sát

Quên tình là tình quê hương.

Dây thép gai chắn đường mình đi

Ta kéo qua bên ơi thép gai sá gì

Đấu tranh này càng nhiều gian nguy

Thì ngàn ngàn năm vẫn còn khắc ghi.

(Trương Quân Vũ, Hát cho người cảnh sát anh em)

Khói đạn nào khói đạn không cay

Sinh viên nào không đấu tranh ngày ngày

Dùi cui nào đánh mình không đau

Học sinh nào không mến thương đồng bào.

Đấu tranh nào không nhiều hy sinh

Người Việt nào không ước mơ Hòa bình.

Ngăn bước chân ta tiến

Đạn cay vứt tung trên đường

Nước mắt ta chảy thấm vào đất mẹ yêu thương

Đạn này dù cay nhưng ta còn lòng yêu nước

Đạn này dù độc nhưng ta còn tình nhân dân.

(Trương Quân Vũ, Hát trong làn khói đạn)

Chúng ta hãy ca dậy lên

Cho bàn chân biến thành cốt sắt

Chúng ta hãy ca dậy lên

Cho bàn tay đánh tan độc tài…

(Lê Nguyên, Hãy ca dậy lên)

Chiến tranh làm cho cuộc sống người dân ngày mỗi khó khăn, người lao động phải tìm việc hằng ngày, người nghèo khó lang thang kiếm ăn trên đường phố:

Sưu cao thuế nặng,

Mười mấy năm giữa đô thành này

Dân ta nghèo chỉ còn đôi tay

Tay vẫn làm mà hàm không nhai.

Đồng bào ơi hãy đứng dậy

Anh xe lam kết đoàn trên đường

Bác xích lô nối tay tiến tới

Chị tiểu thương tiếp gạo nuôi người

Em bán báo đưa tin giữa phố

Bác thợ ơi bàn tay giơ cao

Tô đường gân người khuân vác mướn

Chị công nhân mắt sáng ngời ngời

Tay xăn cao nụ cười phơi phới.

A hôm nay phố phường lên tiếng

Dậy bàn chân người dân anh hùng.

Chiều nay bến tàu rợp người

Đây thành trì ngăn chặn áp bức

Đây sức mạnh đạp nát bất công

Ta đi giành lại mồ hôi

Ta đi giành lấy bát cơm nuôi người…

(Nguyễn Dân, Ngày lao động bắt đầu)

Dân tôi vùng lên như bão tố

Dân tôi vùng lên như cuồng phong

Dân tôi hiên ngang tuy sống nhọc nhằn

Dân tôi vùng lên như bão tố

Dân tôi vùng lên như cuồng phong

Không ai cướp được đời dân tôi

(Nguyễn Xuân Tân, Làm thân cỏ cú)

Mau đứng vùng lên hỡi đồng bào ta ơi

Mau đáp lời non sông nhà réo gọi

Tranh đấu cho mai này tự do cơm áo về ta

Cho núi sông hết giặc muôn triệu người hoan ca…

(Trần Long Ẩn, Hát trên đường tranh đấu)

Ta sinh ra là con dân nhà Việt Nam

Vì không muốn nước non sống trong điêu tàn

Vì không muốn chúng ta chết trong lầm than

Đi lên thề quyết nối theo gót chân đồng bào…

(Nguyễn Văn Sanh, Trong lòng đồng bào)

Ta châm ngọn lửa thiêng đốt lên xóa tan tăm tối

Trong ta mỗi trái tim sẽ đốt lửa đấu tranh muôn đời

Ô lửa đấu tranh bùng lên bùng lên

Triệu trái tim hùng anh vững tin

Tiến lên trong trời quê hương tối tăm…

(Nguyễn Quang Nhàn, Đốt lửa đấu tranh)

2. Khêu gợi lòng nhân ái và tình tự dân tộc

Tình tự dân tộc như một ngọn cờ quy tụ mọi tầng lớp nhân dân nên nhiều bài ca sinh viên đã ngợi ca hình ảnh quê hương, đất nước qua dòng chảy lịch sử, khêu gợi lòng tự hào đối với các anh hùng dân tộc, lòng nhân ái của đồng bào. Có biết bao bà má phong trào, các mẹ già, em gái đứng bên đường ủng hộ cho các con, các anh từng túi ni lông, từng múi chanh, những ổ bánh mì, những chai nước… đỡ đần cơn khát của những đứa con trẻ tuổi đang xông xáo trên đường phố giữa trời nắng cháy:

Có người mẹ Bàn Cờ tay gầy tóc bạc phơ

Chuyền cơm qua vách cấm khi ngoài trời đổ mưa.

Có người chị Bàn Cờ lính ngồi gác đầy sân

Nhận sinh viên là chồng rồi đưa về đầu đường

Có người em Bàn Cờ tảo tần trao tin thơ

Đưa anh về cuối lối và nhìn theo bơ vơ…

(Trần Long Ẩn, thơ Nguyễn Kim Ngân, Người mẹ Bàn Cờ)

Hay hình ảnh người thương phế binh đau đớn trong quân y viện hoặc thất nghiệp ngoài phố phường:

Chiều mưa qua ngoài quân y viện

Có anh phế binh cụt cả hai chân

Tay lăn lăn vòng xe chật hẹp

Sao đời anh dừng lại nơi đây?

Chiều mưa qua trong mái nhà tù

Anh nhớ về ngày tháng âm u

Nhớ những đêm bom rơi tàn phá

Lửa cháy xóm làng ôi tiếng trẻ thét vang.

Sáng hôm nào trên phố Sài Gòn

Anh lăn xe xuống đường tranh đấu

Đòi áo cơm có xe cây lựu đạn

Đòi cửa nhà có tù ngục tối đen.

Hai mươi năm là cây nạng gỗ

Hai mươi năm là chiếc xe lăn

Hai mươi năm là đời nghèo đói

Hai mươi năm trọn kiếp ăn năn.

(Tôn Thất Lập, Bài ca cho anh phế binh)

Hình ảnh cây lúa tiêu biểu cho đồng quê Việt Nam, nơi bao nhiêu người con đã sinh ra. Vô tình các nhạc sĩ trẻ cùng gặp nhau ở hình ảnh này, vì vậy rất nhiều bài ca ngợi cây lúa, đồng quê:

Hò ơi, lúa thương người chẳng thương người

Đêm đêm tiếng súng (ơ) ngày ngày tiếng bom.

Lúa chờ gặt vội hôm qua

Mẹ về không được lúa ra tro tàn

Tro tàn ấp ủ đất thơm

Mẹ về cấy lại vội vàng ra đi

Người đi lúa vẫn chờ mong

Một ngày sung lặng mẹ về lúa reo.

(Hải Hà, Gặt vội lúa vàng)

Đồng lúa reo tay người rộn ràng

Lời hát nhanh vang dậy đầu làng

Bao nhiêu năm bom đạn đổ xuống

Trên tay ta lúa vẫn nở nhịp nhàng.

Đồng lúa như tay người mẹ già

Mười mấy năm dang rộng một nhà

Che nghiêng nghiêng anh nằm giữ nước

Trong mưa bom hay nắng đạn ngợp trời…

(Tôn Thất Lập, Đồng lúa reo)

Non nước tôi không còn

Những đêm dài gặt lúa trên đê

Những dân cày đập lúa trong sân

Những trẻ thơ vui chờ trăng về.

Non nước tôi không còn

Tiếng khoan hò khi nước mênh mang

Bóng dân cày trên luống cơm nâu

Đâu tiếng ai kêu đò trên làng.

Non nước tôi không còn

Tiếng ai gọi trong sáng tinh sương

Tiếng trong lành ôi tiếng quê hương

Thơm gói cơm rộn ràng lên đường.

Non nước tôi không còn

Bước chân về em bé chăn trâu

Bóng ai về trên bãi dâu xanh

Khi gió đông đã về trên đồng…

(Nguyễn Văn Sanh, Non nước tôi)

Lúa ngàn năm lúa xanh trên đồng

Lúa má trồng mòn mắt chờ mong

Lúa má gầy mười năm chinh chiến

Lúa ngàn năm héo trên bờ sông…

(Trương Quân Vũ, Dành cho Má một ngày)

Bàn tay cha, bàn tay cha trên những bến tàu

Trên công trường mồ hôi đổ thấm

Nuôi con khôn bằng nước mắt tủi hờn.

Bàn tay mẹ, bàn tay mẹ bên luống mạ nhọc nhằn

Mong được một ngày thấy lúa đơm bông

Mong được một ngày thấy lúa đơm bông…

(Nguyễn Huy Hùng, Những bàn tay)

Trên quê hương mến yêu đó, những chàng trai có ước mơ giữ gìn và bảo vệ cho quê hương thêm đẹp xinh và vững bền:

Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng

Nếu là hoa tôi sẽ làm một đóa hướng dương

Nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm

Là người tôi sẽ chết cho quê hương.

Là mây theo làn gió tôi bay khắp trời

Nghìn xưa oai hùng đó nên xin tiếp lời

Là người xin một lần khi nằm xuống

Nhìn anh em đứng lên cắm cao ngọn cờ…

(Trương Quốc Khánh, Tự nguyện)

Lúa bỗng đau giày đinh

Chân người ngoài giẫm nát

Người trai quê bỏ cày theo tiếng hát

Hát quật cường giành lại quê hương…

(Tôn Thất Lập, Lúa reo trên khắp đồng bằng)

Có hay rằng một người trên dòng sông đêm

Reo cười thiết tha yêu người suốt đời

Đã vì dân mà hiên ngang đấu tranh…

(Nguyễn Phú Yên, Thuyền em đi trong đêm)

Những cánh diều trắng ngẩn ngơ trên thành phố

Mẹ ru câu dịu hiền trong dòng đời đua tranh

Diều bay lên cao trên đồng vắng

Diều bay qua thành phố

Diều bay trong lòng người kêu gọi tình yêu thương…

(Võ Đức Dũng, Những cánh diều trên thành phố)

Hoa em đã nở, hoa em đã nở,

Trên luống cày, trên rừng sâu

Trên hố hầm chiến tranh tàn phá

Hoa em đã nở, hoa em đã nở,

Trong tim người, trong cuộc sống

Trên phố phường của đồng bào ta.

(Trần Xuân Tiến, Dâng hoa cho nước)

3. Ca ngợi truyền thống oai hùng của dân tộc

Tuổi trẻ tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc suốt chiều dài lịch sử với những chiến công, những gương anh hùng chống ngoại xâm. Đó là nguồn suối cảm hứng cho bao thế hệ để viết nên những khúc ca anh hùng bất tận. Phong trào Nhạc sinh viên tranh đấu càng làm rõ nét hơn với nhiều sáng tác trong giai đoạn chiến tranh này:

Đêm nay tôi đi trong thành phố

Nhớ em chống đò qua những con sông

Hoa lục bình trôi theo dòng nước đỏ

Em thơ ngây cùng gió ruộng hương đồng.

Đò em, đò em chở khách về xuôi

Đò em, đò em đưa người về ngược

Chở người thành phố về quê

Đưa người về thành phố…

(Trần Long Ẩn, Hoa lục bình)

Không ai ngăn nổi lời ca

Lời ca mãi muôn đời

Lời ca yêu mến người.

Lời tôi ca trên đồng lúa

Lời tôi ca ánh mai hồng

Lời tôi ca cơn sóng nhỏ dòng sông.

Không ai ngăn nổi lời ca

Lời ca những anh hùng

Trọn đời yêu núi sông.

Lời tôi ca xanh đại dương

Lời tôi ca những con đường

Lời tôi ca bao dòng máu

Trên luống cày đọng giọt mồ hôi…

(La Hữu Vang, Không ai ngăn nổi lời ca)

Ba mươi hai triệu người

Ba mươi hai triệu người

Lớn mãi mãi không thôi

Không bao giờ nô lệ (lệ) trăm năm

Không bao giờ nô lệ (lệ) một năm

Không bao giờ nô lệ (lệ) một giờ.

(Miên Đức Thắng, Lớn mãi không ngừng)

Một tay súng một tay cày

Dân tôi suốt đêm ngày

Hò reo giữ non sông này

Còn bao lâu vẫn gồng gánh

Cho muôn đời Việt Nam ơi…

(Tôn Thất Lập, Tiếng hát vang dậy đồng khô)

Từ một ngày quân giặc vào đây

Từ một đêm kiếm cung đi dựng cờ

Từ một đêm sáng trăng vang lời thề

Máu người dân tôi thắm trên đồng hoang…

(Trương Quốc Khánh, Lời ca cho người đi giữ quê hương)

Ôi Tổ quốc ta đã nghe lời réo gọi

Trong tiếng hờn trong máu lửa ngập trời

Từng giây nghe quê hương

Xót xa đầy trong cơn thê lương

Thù quân gieo đau thương

Bao suối lệ tràn dâng muôn phương

Tổ quốc ơi ta đã nghe lời sông núi

Thề nguyền cả cuộc đời

Trọn dâng cho quê hương này

Muôn hoa tươi thắm

Ngát hương trên bao nụ cười

Gian khổ nề chi ta ra đi…

(La Hữu Vang, Tổ quốc ơi ta đã nghe)

Đất nước ta đang còn nghèo

Nhân dân ta còn khổ đau

Trong áp bức trong xích xiềng

Trong khói lửa ngun ngút cháy…

(La Hữu Vang, Hát cho quê hương)

Mừng xuân sang em chèo nhanh tay lái

Đón đưa người đón cả mùa xuân

Mừng xuân sang em ngắt cánh mai vàng

Hoa mai vàng thắm hồng ngày mới

Hoa mai này cho Tổ quốc em.

Ơ chim ca xuân đã đến rồi

Em ca em quyết đưa người qua sông

Em chở quê hương tới bến mùa xuân

Nước sông Hồng không bao giờ cạn

Cửu Long giang này chở vạn hùng anh…

(Nguyễn Nam, Trên dòng sông lịch sử)

Tình Bắc Nam ta như trời biển bao la

Thề giữ quê nhà không bao giờ lìa xa

Trong cơn nguy biến đất nước gọi chúng ta

Vai chen vai tiến thấy như lòng nở hoa.

Từ đồng sâu cho đến non cao cờ phất phới

Bừng nhịp chân theo tiếng loa kiên cường đi tới

Trăm năm vang tiếng núi sông giục lên đường tiến quân

Bao nhiêu xương máu bấy nhiêu hận thù ngất trời…

(Nguyễn Văn Sanh, Tình nghĩa Bắc Nam)

4. Niềm hy vọng và mơ ước hòa bình

Cả một thế hệ thanh niên lao vào cuộc chiến đấu với lý tưởng cao cả, mục đích là để giành lại độc lập và hòa bình cho đất nước. Đó là ước mơ cháy bỏng của mọi con tim khi hiến dâng cuộc đời cho quê hương. Cũng như ở mọi dòng nhạc đồng thời khác, những nhạc sĩ sinh viên cũng hòa mình trong niềm cảm xúc lớn lao đó của những thế hệ thanh niên ra đời trong chiến tranh. Tuy vậy đến khoảng cuối năm 1972, phong trào sinh viên bị khủng bố và đàn áp dữ dội. Nhiều sinh viên nòng cốt bị giam giữ, phong trào ca hát giảm bớt hoạt động, các sinh viên chuyển sang phong trào Hát cho quê hương hòa bình. Dịp này một số ca khúc mới đã xuất hiện: Mai có Hòa bình (thơ Ngô Kha, nhạc Hải Hà), Gửi người em gái Y khoa (thơ Võ Quê, nhạc Trương Thìn), Cô giáo trẻ trên bản làng xa (Nguyễn Phú Yên), Hòa bình ơi ta nghe (Phan Hữu Lượng)… Hãy nghe những giai điệu của niềm mơ ước ấy:

Một sớm mai nào nghe tiếng chim ca

Tôi đang mơ thấy quê hương rộn rã

Dù bao năm qua bom trút xuống quê nhà

Trên những mùa xuân cánh chim đang còn bay.

Mừng non sông chim hót vang Trường Sơn

Chào quê hương em hát trên đồng lúa

Đêm nay giữa Sài Gòn mẹ già mắt hân hoan

Trông sao trời rực sáng sau bao ngày mong chờ.

(Trần Long Ẩn, Một sớm mai nào)

Rồi ngày mai đất ta vươn thơm mùi lúa mới

Rồi ngày mai đất ta hoa thơm hồng môi cười

Rồi ngày mai quê hương xanh lên màu sông núi

Vì ngày nay dân ta quyết sống vì đất này…

(Miên Đức Thắng, Hát từ đồng hoang)

Ta sinh ra là con dân nhà Việt Nam

Vì bao năm khát khao sống trong thanh bình

Vì bao năm khát khao sống trong tự do

Đi lên thề quyết phá tan xích xiềng lệ nô…

(Nguyễn Văn Sanh, Trong lòng đồng bào)

Rồi hòa bình sẽ đến đến cho dân tộc Việt

Đôi chim bồ câu trắng hẹn nhau về làng xưa

Rồi hòa bình sẽ đến đến cho dân tộc Việt

Đền bù ngày gian khổ hiểm nguy nơi rừng sâu…

(Nguyễn Tuấn Kiệt, Tin tưởng ca)

Những cánh diều trắng ngẩn ngơ trên thành phố

Mẹ ru câu dịu hiền trong dòng đời đua tranh

Diều bay lên cao trên đồng vắng

Diều bay qua thành phố

Diều bay trong lòng người

Kêu gọi tình yêu thương…

(Võ Đức Dũng, Những cánh diều trên thành phố)

Tin em trao về hồng như nụ chín

Mai có Hòa bình khác thể yêu thương

Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp

Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu.

Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ

Áo thô bạc màu đẹp buổi vu quy

Chim mỏi cánh bay theo đàn tình tự

Xứ mẹ con về góp hội trùng tu…

(Hải Hà, thơ Ngô Kha, Mai có Hòa bình)

Nhưng ngày chinh chiến nay hết rồi

Chim trở về lòng thầm reo vui

Và sông núi hết điêu linh

Biết bao người sống vui hòa bình…

(Nguyễn Phú Yên, Tiếng chim rừng hát mừng sông núi)

Ơ đêm nay qua dòng sông

Sóng Rạch Gầm vang nhắc chiến công

Ta đi về Cao nguyên lòng nhớ mãi rừng Việt Bắc

Ta nhớ ơ người không còn để nhìn

Mùa xuân vinh quang bốn mùa hoa nở huy hoàng

Ta nhớ ơn đời vì đời yêu ta

Cho ta sống làm người Việt Nam…

(Nguyễn Quang Nhàn, Ta đi trên đường quê hương)

Dậy đi em hòa bình đến rồi

Trên phố phường trên đại lộ ngập tiếng reo vui

Này bác nông phu kéo sâu thêm luống cày

Cho đất màu lên ngọn lúa xanh

Nuôi sống dân gầy sau mùa lửa máu.

Dậy đi em hòa bình đến rồi

Trên mắt mẹ ngấn lệ mừng gò má nhăn nheo

Thằng bé lên ba líu lo khoe gói quà

Ngơ ngác nhìn thiên hạ hát ca…

(Xuân An, Dậy đi thôi hòa bình đến rồi)

Mặt trời sẽ đến xua đêm dài

Hòa bình sẽ nở trên môi người

Trời rợp bóng chim câu lượn bay

Mặt trời sẽ đến,mặt trời sẽ đến

Rồi một ngày mặt trời

Hòa bình sẽ đến trên quê hương

Và trong trái tim ta.

(Nguyễn Duy Khoái, Trong mưa bom mặt trời sẽ đến)

Có tiếng gió khi chiều về

Con đê vui xô rì rào

Vi vu sáo diều reo vi vu.

Có tiếng võng đêm mẹ già

Ru con ngoan ơi ới à

Trai quê gái làng vui câu ca.

Hò ơi ơi ơi, ơi hò

Lúa đã chín ngô khoai nhiều

Nuôi dân ta thơm nồng đất ta.

(Nguyễn Tuấn Kiệt, Ước vọng ca)

Người đã đi đi trên non cao
Nay đã về trên đồng ruộng sâu
Nay đã về trên thành phố mới.
Cả tuổi xanh dâng cho quê hương
Đem máu mình nuôi lại tình thương
Đem máu mình nuôi ngày hòa bình…
Người đã đi người đã tới
Trời Việt Nam hôm nay đổi mới.
Mặt trời ơi loài người ơi
Hát vang lên cho thỏa niềm vui…
Từ biển xa lên trên non cao
Máu các anh thấm vào ruộng sâu
Thấm trong tim tươi ngọn lúa mới.
Nụ cười trên môi em thân yêu
Trên nẻo đường quê mẹ tàn hoang
Trên đất khô đã thành ruộng vàng.
Ruộng đồng ơi thị thành ơi
Trời Việt Nam hôm nay rực sáng
Nhà của ta ruộng của ta
Cánh tay ta xây lại đời ta…

(Phạm Thế Mỹ, Người về thành phố)

III. DẤU ẤN CỦA PHONG TRÀO NHẠC SINH VIÊN TRANH ĐẤU

Với hàng trăm ca khúc tranh đấu của học sinh sinh viên thành thị miền Nam được sáng tác từ 1965-1975, các tác giả sinh viên đã sáng tạo ra các tác phẩm âm nhạc đầy rung cảm và thuyết phục với một ngôn ngữ âm nhạc đặc thù. Tuy chỉ là những ca khúc quần chúng ngắn gọn nhưng có sức biểu hiện lớn; chúng kế thừa một cách sáng tạo tính chất âm nhạc dân gian, màu sắc âm điệu dân tộc, đã mở được cánh cửa lòng và tác động sâu sắc vào tâm hồn sinh viên học sinh và nhân dân. Các bài ca tranh đấu đã đạt được sự kết hợp chặt chẽ giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, tạo được sự rung cảm sâu xa và chinh phục được trái tim quần chúng.

Nhạc sinh viên tranh đấu là làn gió mới trong trái tim thanh niên, là lời réo gọi của Tổ quốc giục giã tuổi trẻ đấu tranh cho một đất nước hòa bình. Trước giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1971, GS Nguyễn Trọng Văn đã phát biểu:“Song song với nền văn nghệ thoát ly, ru ngủ, đó là sự lớn mạnh của nền văn nghệ đấu tranh. Những sáng tác của thanh niên học sinh sinh viên tranh đấu đã thật sự ra đời trong khung cảnh sôi động, cụ thể gắn liền vào hoàn cảnh dân tộc. Một bên là văn nghệ xế chiều, một bên là văn nghệ rạng đông”. Và thứ văn nghệ rạng đông ấy là thứ văn nghệ yêu nước bởi các nhạc sĩ chủ xướng không coi sáng tác là để tiêu khiển, mua vui mà là để thể hiện thái độ sống, một phương tiện đấu tranh, thể hiện được ước mơ, khát vọng của quần chúng về một tương lai tươi đẹp.

Mireille Gansel đã nói về sức mạnh của tiếng hát đấu tranh: “Vừa mới viết ra, vừa mới xướng lên nó đã được truyền đi từ miệng người này đến miệng người khác. Nó nẩy nở giữa gọng kềm siết chặt, nơi mà mỗi cử chỉ, mỗi lời nói là một vấn đề sống chết. Những lời hát cất lên giữa những dùi cui, đàn áp lặp lại giữa những chiếc xe bọc thép, rồi vang lên ở góc phố, nơi mà những anh sinh viên bị đuổi bắt. Nó đã đánh thức lương tâm của tuổi trẻ và lòng nhiệt thành của họ. Tất cả cơ đồ của “lối sống Mỹ” đã bất lực, không thể bóp nghẹt tiếng nói của một thế hệ trẻ sinh ra dưới những trận bom và chưa bao giờ họ được biết gương mặt của hòa bình” (Le Monde, 11-2-1972). Tiếng hát ấy còn lay động con tim của những người xa xứ: “Những tiếng hát đấu tranh của Tổ quốc đã không ngừng cất cao trên khắp nẻo đường của những người sinh viên xa xứ, từ những đêm không ngủ bên lưng đồi hay từ sàn gỗ trước hàng ngàn con mắt long lanh. Hát cùng đồng bào ta, những tiếng hát say sưa như chưa bao giờ được hát ấy đã thật sự trở thành nguồn thức tỉnh, thôi thúc tính dân tộc. Trong bản đại hợp xướng không còn người hát và người nghe mà chỉ có những người cùng hát, với bao nhiêu giọng mới, còn bỡ ngỡ và xúc động biết bao!” (lời tựa tái bản tập ca khúc Hát cùng đồng bào ta của Hội Liên hiệp Thanh niên tại Pháp, 1972). Phong trào Nhạc sinh viên tranh đấu cũng đã đi vào các tầng lớp thanh niên, sinh viên Mỹ. Qua các hoạt động tiến bộ của những tổ chức như Indochina Mobile Education Project, Indochina Voluntary Service, Chronicle Indochina Resource Center…, ở Washington, Fullerton – California, New York làn sóng phản chiến đã dấy lên mạnh mẽ trên khắp nước Mỹ; họ ủng hộ hoạt động yêu nước của học sinh, sinh viên miền Nam Việt Nam.

Phong trào Nhạc sinh viên tranh đấu – tiếng hát lương tâm của một thời đại – đã đề lại dấu ấn sâu đậm trong lòng thanh niên về một nền văn nghệ dấn thân, yêu nước miền Nam, khêu gợi được tinh thần dân tộc, đã góp phần cống hiến xứng đáng cho nền âm nhạc đương đại của lớp trẻ Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt của đất nước.

(Còn tiếp)

Comments are closed.