Thuật ngữ chính trị (119)

Phạm Nguyên Trường

280. Labour Movement – Phong trào lao động. Phong trào lao động ám chỉ hai luồng tư tưởng. Thứ nhất, những người lao động chân tay cho rằng có thể dùng các tổ chức công đoàn và hành động chính trị nhằm thúc đầy quyền lợi về chính trị và kinh tế của mình; thứ hai, công đoàn có thể liên kết với cánh tả trong các đảng trung tâm trong nghị viện với mục đích thành lập chính phủ coi quyền lợi của công nhân là vấn đề quan trọng nhất.

Phong trào lao động ở châu Âu có xuất xứ từ những công nhân thành thị trong tiến trình công nghiệp hóa hồi thế kỉ XIX. Chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc xuất hiện phong trào lao động trên lục địa châu Âu và dẫn tới việc thành lập các đảng chính trị theo đường lối xã hội chủ nghĩa (Đức, năm 1869); ở Anh, phong trào công nhân mang tính cải cách chứ không phải là cách mạng và trong thế kỉ XIX, hoạt động trong khuôn khổ của hệ thống đảng phái đang hiện hữu (Ủy ban đại diện công nhân, 1900, Công đảng, 1906).

Phong trào lao động từng là phong trào có tinh thần quốc tế mạnh mẽ, nhấn mạnh quyền lợi chung của những người lao đông trong các nước khác nhau khi đối đầu với chế độ tư bản. Nhưng năm 1914, các đảng xã hội chủ nghĩa – trừ một vài trường hợp ngoại lệ – đã bị tinh thần dân tộc quét sạch và ủng hộ công việc chuẩn bị chiến tranh.

Sau năm 1917, thắng lợi của cuộc cách mạng Bolshevik Nga đã gây được ảnh hưởng rất lớn đối với phong trào công nhân. Tuy nhiên, các đảng lao động và xã hội chủ nghĩa đã hầu như ngay lập tức quay lưng lại với Quốc tế III, do Moskva thành lập, nhằm phối hợp hành động cách mạng của phong trào lao động quốc tế và một số đảng cộng sản đã được thành lập ngay sau đó. Các đảng xã hội chủ nghĩa và cộng sản đã xung đột với nhau trong suốt thời kì chiến tranh. Ở một số nước như Anh, Đức và Hoa Kì, cộng sản có vai trò trong phong trào công đoàn duy nhất, trong khi ở những nước khác, ví dụ, nước Pháp, cộng sản chỉ kiểm soát được những tổ chức công đoàn của mình, những tổ chức này lại phải cạnh tranh với công đoàn của các đảng xã hội chủ nghĩa và Công giáo.

Sau Thế chiến II, phong trào lao động tiếp tục chia rẽ, các tổ chức công đoàn và các đảng xã hội chủ nghĩa thành lập các tổ chức quốc tế theo các nhóm ủng hộ và chống cộng sản. Vai trò của phong trào lao động yếu đi vì lao động chân tay giảm và ảnh hưởng của phong trào công đoàn đối với các đảng xã hội chủ nghĩa, nhất là các đảng nằm trong chính quyền ngày càng suy giảm.

Có người cho rằng phong trào lao động đã hồi sinh trong những năm 1950 và 1960 vì vai trò của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh giành tự do và độc lập trong Thế giới Thứ ba, tuy nhiên sau khi giành được độc lập, ý tưởng về công đoàn đại diện cho quyền lợi người lao động đã gặp trở ngại vì chính phủ những nước này tự tuyên bố là đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa.

281. Labour Party – Công đảng. Công Đảng, một số tài liệu tiếng Việt ghi là Đảng Lao động Anh hay Đảng Lao động Vương quốc Anh, kể từ ngày thành lập vào đầu thế kỷ XX, đã trở thành đảng chính trị chính của phe cánh tả tại Anh, Scotland và Wales.

Công đảng đã vượt qua Đảng Tự do, trở thành đối thủ chính của đảng Bảo thủ trong thập niên 1920. Đảng đã có một vài kỳ cầm quyền trong chính phủ, lần đầu tiên vào năm 1924. Sau đó, Đảng nắm quyền trở lại trong các giai đoạn 1929-31, 1945-51, 1964-70, 1974-79.

282. Labour Theory of Value – Lí thuyết giá trị lao động. Lí thuyết giá trị lao động là một nỗ lực ban đầu của các nhà kinh tế học nhằm giải thích tại sao hàng hóa được trao đổi với giá tương đối nhất định trên thị trường. Nó gợi ý rằng giá trị của một hàng hóa có thể được đo lường một cách khách quan bằng số giờ lao động trung bình cần thiết để sản xuất ra nó. Những người ủng hộ nổi tiếng nhất cho lí thuyết giá trị lao động là Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx.

Lí thuyết giá trị lao động cho rằng hai mặt hàng sẽ giao dịch với cùng một mức giá nếu chúng thể hiện cùng một lượng thời gian lao động, nếu không chúng sẽ trao đổi theo tỉ lệ cố định bởi sự khác biệt tương đối trong thời gian lao động của hai mặt hàng này.

Mặc dù giá thị trường có thể dao động thường xuyên do cung và cầu tại bất kì thời điểm nào đó, giá tự nhiên đóng vai trò trung tâm. Nếu giá thị trường vượt qua giá tự nhiên, mọi người sẽ được khuyến khích bán nhiều hơn. Trong khi giá thị trường thấp hơn giá tự nhiên thì người ta được khuyến khích mua nhiều hơn. Theo thời gian, sự cạnh tranh này sẽ có xu hướng đưa giá tương đối trở lại phù hợp với giá tự nhiên.

Marx bị lôi cuốn vào lí thuyết giá trị lao động vì ông tin rằng lao động của con người là đặc điểm chung duy nhất được chia sẻ bởi tất cả hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên đối với Marx, hai hàng hóa là không đủ để có số lượng lao động tương đương, thay vào đó, hai hàng hóa phải có cùng số lượng lao động cần thiết về mặt xã hội.

Marx sử dụng lí thuyết lao động để phê phán gay gắt các nhà kinh tế học cổ điển trên thị trường tự do theo truyền thống của Adam Smith. Ông cho rằng, nếu tất cả hàng hóa dịch vụ trong một hệ thống tư bản được bán với giá phản ánh giá trị thực của chúng và tất cả các giá trị được đo bằng thời gian lao động thì làm thế nào các nhà tư bản có thể hưởng lợi nhuận trừ khi họ trả cho công nhân ít hơn giá trị lao động thực của họ.

Chính trên cơ sở đó, Marx đã phát triển lí thuyết bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

Comments are closed.