Nguyễn Trọng Chức
Khoảng đầu tháng 6-1985 lần thứ hai tôi ra Hà Nội sau 1975. Ngày ấy có được vé máy bay rất khó khăn, tôi phải đi đường bộ, quá giang một chiếc xe tải đủng đỉnh chở giấy từ Sài Gòn ra tận Quảng Ninh (ông chủ xí nghiệp giấy là bạn của tôi). Chuyến đi kết hợp nhiều mục đích: công việc của báo Tuổi Trẻ, thăm quê nhà ở Thanh Oai và thực hiện một mong muốn riêng tư đã ấp ủ lâu rồi: tìm cách gặp các nhân vật đặc biệt, cả về tài năng lẫn số phận – những người mà tôi đã biết, đã đọc tác phẩm của họ trên nhiều nguồn tư liệu xuất bản ở Sài Gòn trước 1975 – các nhà thơ, nhà văn trong phong trào “Nhân Văn – Giai Phẩm” như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán…
Nhờ sự giúp đỡ của các thân hữu, đồng nghiệp ở thủ đô, tôi được gặp Lê Đạt, được ông tiếp chuyện thân tình tại nhà riêng trên phố Lãn Ông. Từ cuộc gặp đó, Lê Đạt đã gửi truyện ngắn cho tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, trong đó có truyện sau này được in trong tập truyện Hèn đại nhân. Khi tìm đến nhà của Hoàng Cầm và Trần Dần, tiếc là không gặp được cả hai ông nên tôi đã viết ít dòng để lại, bày tỏ mong muốn được đón hai ông ở Sài Gòn. Không ngờ những lá thư làm quen ấy của một kẻ hậu sinh phương Nam đã được cả Hoàng Cầm và Trần Dần hồi đáp. Và rất bất ngờ khi tôi còn được diện kiến hai nhà thơ ngay tại tòa soạn báo Tuổi Trẻ.
Hôm đón tiếp tác giả Người người, lớp lớp, cảm động và mải trò chuyện với ông nên tôi quên khuấy việc nhờ một phóng viên ảnh ghi hình. Rất may có được một bức ảnh với Hoàng Cầm (không nhớ ai đã chụp). Hôm tác giả Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông đến tòa soạn, ông gửi bài thơ ngắn Chuyện trăm năm. Bài thơ viết tay đề tặng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sau đó được đăng trên báo Tuổi Trẻ (có thể là số Tết 1986). Tôi lưu giữ bản thảo bài thơ ấy, đến năm 2002 thì tặng cho Hội quán Hội Ngộ – một không gian Trịnh Công Sơn lần đầu tiên được xây dựng tại Làng du lịch Bình Quới. Sau đó nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã phổ nhạc bài Chuyện trăm năm nhưng đặt tựa là Em nhìn như mưa trắng (không rõ ca khúc này có được thu âm và ca sĩ nào từng hát?). Bản thảo ca khúc ấy nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã gửi tặng tôi.
Cuối năm 1991 Hoàng Cầm gửi tiếp Phía sau lời cầu hôn mà tôi còn giữ được bản thảo viết tay với nét chữ rất đẹp, năm ấy ông đã ở tuổi bảy mươi.
“Khô cong thuyền bến cát
Khát dòng sông em
Sóng sánh bờ mi cong
Chiều dài tháng nóng
Trời tức ngực chưa mưa
Mây mỏng
Cánh chuồn kim lim dim nhớ gió ngủ đầy năm
Đánh liều trao thư cầu hôn em
Bật sáng đáy tâm linh trẻ dại
Trở gót về thu
Phố Phái trao nghiêng
Men dẫn thẫn thờ đêm
thêm trăm năm nữa
Đường láng cháng xuân
Cho mình dang dở
Sầu lênh láng phố
Cho mình chơi vơi
Phương ấy em ơi
nhớ tê lên môi
Cơn say cuối đời
cứ ngồi mà thương
Cái buồn đế vương
Tràn dâng tóc úa
Cái vui bạch đinh
Lọt dinh công chúa
Cái gió lưng trần
Vật nhau với lá
Em là tất cả
Riêng mình là ai
Cái hẹn thở dài
Tên là Anh Đợi
Nỗi quăn tóc rối
Là tên Em Chờ
Giường chiếu trơ vơ
Tên là Nam Cực
Đêm dài rạo rực
là tên Đêm Xanh
Sao Em sao Anh
long lanh tình sử
Soi về cuối phố
Tìm phương hương Quỳnh”
Những ngày Hoàng Cầm vào Sài Gòn năm 1986, tôi đã chở ông đi nhiều nơi bằng chiếc Bridgestone cà tàng, được mua hóa giá. Một buổi tối, tôi đưa Hoàng Cầm đến nhà của anh Hoàng Hưng trong một con hẻm khu Lăng Cha Cả, Tân Bình. Ở đó, đã có mặt nhà thơ Văn Cao. Trong khi hai ông khề khà bên chén rượu, tôi cứ lặng ngắm hai tượng đài thi ca mà mình có duyên may được gặp gỡ trong đời… Cũng thật tiếc là không ghi lại câu chuyện thú vị của hai nhà thơ!