Mây Đầu Non 1[i]

(trích tiểu thuyết “Nửa đời nhìn lại”, NXB Thế Kỷ (Hoa kỳ), 1994)

Tiêu Dao Bảo Cự

Nguy_n-__c-S_nTrên đường đi xuống xã X công tác, Hoài gặp lại một người bạn cũ, nhà thơ Mây Đầu Non. Hai người đi ngược chiều và đến lúc gần chạm mặt nhau, Hoài mới nhận ra anh. Hai người nhìn nhau chằm chằm và Hoài kêu lớn:

– Mây Đầu Non phải không?

Anh bạn thắng xe đạp, nheo mắt nhìn Hoài một cách giễu cợt, rồi lắp bắp theo thói quen cố hữu của anh:

– Chớ… chớ… không phải hay sao. Ông làm quan rồi lơ… lơ cả người quen.

Hoài nhìn kỹ anh bạn. Nét chung anh ta vẫn như xưa. Chiếc đầu húi cua gần như trọc. Đôi mắt nheo nheo tinh quái, chiếc mũi khoằm và đôi môi mỏng giật giật liên tục khi nói lắp. Chiếc áo sơ – mi trắng nhưng đã ngả vàng, sờn cổ, chiếc quần xanh bạc màu và đôi dép da đen tróc xi bám đầy bụi. Chiếc xe đạp cà khổ không vành, với boóc-baga thô kệch chở một bao gì lớn tướng, buộc bằng một sợi cao su đen bản to gần bằng nửa bàn tay. Anh và chiếc xe đạp toát lên một cái gì mệt mỏi, tàn tạ. Hoài nói với anh, giọng cảm động:

– Sao ông lại nói thế. Tôi mà quan gì, chỉ là thứ cán bộ tép riu. Lâu lắm rồi mới lại gặp ông. Không chừng đến bốn, năm năm rồi, kể từ ngày ông bị quân cảnh bắt quân dịch đưa đi dạo đó. Mới đây có người quen nói ông mới trở lại đây, tôi có ý tìm nhưng chưa gặp.

– Chỉ sợ… sợ… ông quên thôi. Ông… ông là cộng sản mà. Tôi đã mấy lần thấy ông nhưng ông không thấy tôi hay cố tình lơ lơ nên tôi cũng không gọi. Vậy là huề. Tôi đâu có nợ gì ông?

– Nếu thật thể chắc là vì tôi không thấy ông. Tôi đời nào lại tệ thế. Chắc ông hiểu tôi chứ.

– May ra là vậy. Nhưng có người khác cùng loại như ông đã lơ tôi đấy. Cán bộ cộng sản mà.

Hoài không giận vì biết tính của Mây Đầu Non. Anh ta là thế và từ xưa đã không biết kiêng nể ai bao giờ. Hoài hỏi:

– Bây giờ ông ở đâu? Bà xã và các cháu có khỏe không?

– Kỳ này tôi thật sự ở trên núi. Mây Đầu Non mà. Ông biết đồi cây mai không? Tôi đang dựng lều ở trên đó và sống như người rừng.

Mây Đầu Non chỉ vào chiếc bao ở phía sau xe đạp:

– Nguồn sống của tôi đây. Măng, sim, đót, củi… Mùa nào trong rừng có gì gia đình tôi đi lấy đem về đổi gạo, mắm. Chủ nghĩa xã hội của các ông cho tôi tự do, hạnh phúc, thế còn gì bằng. Bà xã và bốn đứa con tôi cũng như tôi, đều là “sơn nhân” cả. Chưa chắc lương cán bộ của ông đã bằng nghề của tôi đâu nghe. Thôi bây giờ tôi phải đi giải quyết cái này đã. Lúc nào rảnh rỗi tôi dẫn ông lên chỗ tôi chơi. Ông dám đi không?

Hoài suy nghĩ về công việc sắp tới, giờ giấc không chủ định và chắc sẽ rất bận rộn. Anh nói:

– Tôi đang đi công tác dài hạn, nên thời gian chưa sắp xếp được chỉ có chiều nay còn rảnh. Ông xuống phố mất bao lâu?

– Thế thì tốt rồi. Sau trưa tôi về. Khoảng 1 giờ, ông đợi tôi ở ngã ba này được không?

– Được rồi. Tôi sẽ chờ ông ở đây từ 1 đến 2 giờ.

Trước khi đạp xe đi, Mây Đầu Non còn quay lại lắp bắp:

– Nhớ… nhớ… đợi đó. Cán bộ cộng sản các ông là… là… hay quên lắm.

Buổi chiều, khoảng 1 giờ, Hoài và Mây Đầu Non cùng tới chỗ hẹn. Hai người đi xe đạp về chỗ Mây Đầu Non ở xã X, cách thị trấn khoảng năm cây số, từ đó theo đường mòn đi vào dãy núi phía tây khoảng năm cây số nữa. Trên đường đi, Hoài ít nói, nhất là khi leo dốc thở không ra hơi, trong khi Mây Đầu Non không ngớt lắp bắp phê phán cộng sản và nói về đủ mọi thứ trên đời, kể cả văn chương, triết học đông tây kim cổ. Có lẽ việc gặp lại Hoài là một dịp cho Mây Đầu Non bùng nổ các tư tưởng chất chứa trong đầu óc mang mang thiên địa của anh.

Cho đến khi Hoài thở dốc, hai người mới đến chỗ ở của Mây Đầu Non, một vùng khá bằng phẳng trên đỉnh ngọn đồi gần sát dãy núi bên trong. Quang cảnh ở đây rất hoang sơ, vài cây thông lẻ loi còn sót lại, đứng chụm vào nhau giữa một vùng cỏ lau bạt ngàn. Ngôi nhà của Mây Đầu Non nằm im lìm đơn độc dưới mấy gốc thông.

Chợt một con chó chạy xồ ra sủa và một thằng bé khoảng tám tuổi, tóc vàng cháy để dài phủ vai, mình trần trùng trục đen nhẻm chạy theo con chó la lớn:

– Người! Người! Đi vô! Đi vô!

Con chó vẫn hướng về phía Hoài sủa dữ dội cho đến lúc thằng bé nắm lấy cổ nó, đánh vào đầu và quát lớn:

– Người! Im đi.

Hoài ngạc nhiên nhìn Mây Đầu Non:

– Con của anh đấy à? Có phải thằng bé gọi con chó là người không?

Mây Đầu Non cười lớn:

– Có gì mà ông phải ngạc nhiên. Tôi đặt tên con chó là Người vì nó trung thành và tử tế hơn người, còn người hiện nay lắm kẻ không bằng chó.

Nói xong, Mây Đầu Non cúi xuống vuốt ve con chó đang nằm im dưới chân thằng bé. Thằng bé đứng nhìn Hoài chằm chằm. Trong mắt nó, Hoài cảm thấy có cái gì hận thù và man dại đến làm Hoài chột dạ. Thằng bé bỗng chỉ tay vào mặt Hoài la lên:

– Đi đi! Đi đi!

Hoài luống cuống quay lại nhìn Mây Đầu Non. Anh ta đứng lên nói với thằng bé:

– Sơn, không được hỗn. Bạn của cha đó. Con vô nhà đi.

Thằng bé lại trừng mắt nhìn Hoài một lần nữa rồi bỏ chạy vào nhà cùng với con chó. Mái tóc dài gợn sóng vàng hoe của thằng bé bay tung trong gió cùng với đám cỏ lau gợi một cảm giác hoang đã lạ lùng.

Mây Đầu Non đi lên trước theo đường mòn dẫn vào nhà, vừa đi vừa quay đầu lại nói:

– Đó là thằng Sơn, con út tôi. Mẹ nó và ba đứa lớn giờ này chắc đi rừng chưa về. Bà xã tôi vẫn nhắc đến ông đấy. Từ khi lên đây các con tôi đều căm thù con người. Ai lạ đi qua hay đến gần nhà đều bị chúng ném đá.

Hoài bước vào căn nhà lạ lùng của Mây Đầu Non, một loại nhà sàn lai nửa kinh, nửa thượng. Tất cả đầu làm bằng tre, kể cả các sạp dùng để nằm được đan bằng nứa đập dập. Ngay phía trong cửa ra vào là một sạp lớn có bếp lửa ở giữa theo kiều đồng bào dân tộc ít người. Phía trên là một gác lửng có cầu thang để leo lên nằm sát góc. Các cột đều đen bóng vì khói và tay người. Trong nhà hầu như trống trơn, một vài chiếc thạp, gùi đủ kiểu để dọc theo vách. Trên các sạp nằm, chăn chiếu rách và quần áo bẩn vứt ngổn ngang.

Mây Đầu Non nổi lửa nấu nước sôi và pha chè già vào một chiếc ấm đen nhẻm, rồi rót ra chiếc bát ăn cơm mời Hoài uống:

– Ông đừng chê. Chè già này còn ngon và vệ sinh gấp mấy chè ướp hương của các tiệm dưới phố, làm bẩn thấy mẹ. Ông uống nước rồi ta ra gốc thông nói chuyện cho mát. Chiều ông ở lại ăn cơm với tôi, ông sẽ được thưởng thức những món ăn thuần túy thực vật do tôi tự chế biến bằng rau cỏ, trái cây chung quanh đây.

Hoài uống bát nước nóng bỏng họng chưa hết. Mây Đầu Non đã bảo:

– Ta ra ngoài kia nói chuyện thoáng hơn.

Hoài theo Mây Đầu Non ra ngoài, hai người ngồi dưới gốc thông lớn nhất, ở vị trí này Hoài có thể nhìn bao quát toàn thị trấn về hướng đông và thấy rõ quốc lộ chạy ngang phía dưới. Hai bên đường, một số nhà dân với vườn cây ăn trái có vẻ xanh mát, nhưng những dãy đồi chè trùng điệp phía sau trông khô khan trơ trụi vì phần lớn chè mới đốn. Trời chưa chiều hẳn nên nắng vẫn gay gắt, dù có gió nhưng toàn bộ vùng không gian này vẫn bị nung nóng hừng hực, một khí hậu hoàn toàn khác hẳn với vùng này trước đây lúc nào cũng se lạnh kể cả trong mùa khô. Mây Đầu Non vỗ vào cây thông bên cạnh:

– Tôi phải chiến đấu ghê gớm, đúng là chiến đấu, mới giữ được mấy gốc thông này. Bao nhiêu người đã định làm thịt chúng, từ bọn xẻ gỗ lậu cho đến dân kiếm củi và cả một số cán bộ. Có hôm suýt đánh nhau và tôi phải mang dao ra đòi thí mạng bọn chúng mới chịu để yên. Vậy mà đài phát thanh của các ông cứ ra rả chuyện bảo vệ rừng, trồng rừng. Toàn là tuyên truyền láo toét. Cộng sản chỉ giỏi nói chứ không làm, chỉ sính hô khẩu hiệu. Đi đâu cũng thấy khẩu hiệu. Nào là “Nhiệt liệt chào mừng… “, “Tất cả vì… ” “Muôn năm…”. Ai nhiệt liệt chào mừng các ông? Tự các ông tung hô nhau thì có. Từ ngữ nào cũng kêu ghê gớm. Lại còn reo rao bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Tôi không chịu nổi tên của các cửa hiệu. “Cửa hàng mậu dịch quốc doanh” thì tiếng Việt trong sáng ở chỗ nào? “Bị vong lục” là cái quái gì? Lại còn “Cửa hàng may đo”, “Cửa hàng ăn uống”, may chẳng lẽ may lại không đo, ăn xong lại không uống à? Nghe thật lố bịch và thô tục. Rồi tên của các cơ quan nhà nước, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Kiểm sát nhân dân… hiệu sách cũng nhân dân, cái gì cũng nhân dân, nhưng nhân dân nằm ở đâu hay chỉ là những con chốt thí. Cộng sản thực ra không khác gì tôn giáo cả, đúng ra là không khác gì Thiên Chúa giáo. Một hệ thống tín điều và một bộ máy ràng buộc ghê gớm. Cộng sản chống được Thiên Chúa giáo nhưng lại thiết lập một hệ thống giáo điều mới, đẩy con người vào chỗ cuồng tín và mất tự do. Cộng sản đã đào tạo một lớp cán bộ cuồng tín, giỏi nói dối và có khi không tự biết mình nói dối. Còn nhân dân thì trở thành một đàn cừu bị xua đi về một tương lai huyễn hoặc…

Mây Đầu Non càng nói càng hăng lên, không còn lắp bắp nữa, nước miếng phun cả ra ngoài.

Hoài nghe anh ta nói với nhiều cảm giác và ý nghĩ mâu thuẫn. Có lúc Hoài thấy tức giận vì bị xúc phạm, vì anh ta báng bổ cả những điều mà Hoài coi là thiêng liêng và chân lý, nhưng cũng có lúc Hoài thấy anh ta có lý, tuy cách diễn đạt cực đoan, thậm chí cả nhưng lời chửi tục, những lời mỉa mai dè bỉu không thương tiếc.

Hoài rất muốn tranh luận với Mây Đầu Non nhưng chưa được. Anh ta nói không ngừng, không để cho Hoài xen vào. Vả lại đã lâu lắm Hoài mới gặp lại anh ta, biết anh ta có nhiều mặc cảm và muốn tìm hiểu thêm tư tưởng, tình cảm của anh ta nên Hoài đành bóp bụng ráng ngồi nghe.

Cuối cùng, Hoài chờ dịp ngắt lời Mây Đầu Non để hỏi anh ta:

– Nhận thức ông như vậy thì sắp tới ông sẽ làm gì? Ông có ý định sáng tác gì mới không?

Mây Đầu Non nhìn Hoài chăm chăm:

– Làm gì à? Trước hết là kiếm sống đã, kiếm sống một cách lương thiện bằng sức lao động của chính mình. Mơ ước của tôi là tôi sẽ trồng thông lại toàn bộ khu vực này, không cần nhà nước nào cả. Tôi sẽ xây dựng một thư viện ở cuối dốc bên đường quốc lộ nơi đó bất cứ ai đi ngang muốn vào đọc cũng được, và có thể tìm thấy bất cứ tác phẩm đông tây kim cổ nào, từ Shakespeare cho đến Tagore, Nietzsche và J. P. Sartre, Marquez và Dostoievski, Kinh thánh của Thiên Chúa giáo và Kinh Kim Cương của Phật giáo… nghĩa là bất cứ danh tác nào của nhân loại. Đó sẽ là kho tàng của trí thức và tự do. Còn sáng tác ư? Dĩ nhiên tôi sẽ viết, viết để lật mặt tất cả những gì giả trá, phi nhân bản hiện nay. Nhưng với điều kiện là phải được an toàn. Ông cũng là cộng sản, ông sẽ đi tố cáo tôi với cấp trên hay sẽ bảo vệ tôi?

Hoài không trả lời và bỗng dưng cảm thấy thương hại Mây Đầu Non. Phải chăng đây là một con người không tưởng, một kẻ hư vô chủ nghĩa, nạn nhân của mọi chế độ và là nạn nhân của chính anh ta. Dưới chế độ cũ. Mây Đầu Non đã phải trốn quân dịch, sống chui lủi khổ sở như một con chuột, có khi phải cạo đầu vào ẩn trong chùa nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi tay quân cảnh. Anh ta đã phải vào tù, đi lao công đào binh. Cuộc sống của bản thân và vợ con nghèo xơ xác đến mức khốn cùng.

Văn chương của anh thời đó là tiếng kêu của sự cùng quẫn, bế tắc, những giấc mơ điên rồ, những tiếng vang dài trong núi sâu và đêm khuya, những lăn lộn bên bờ vực tử sinh… Còn bây giờ anh ta sống ra sao trong ngôi nhà sàn nửa kinh nửa thượng nơi đèo heo hút gió này? Rồi còn vợ con nữa. Thế mà anh ta mơ ước chuyện trồng thông, chuyện xây dựng thư viện, chuyện sáng tác dài hơi. Anh ta điên hay anh ta đích thực là một con người chân chính không thể sống giữa cõi đời trá ngụy này? Ôi, Mây Đầu Non mà mỗi ngày phải đạp xe xuống phố chợ để bán từng trái sim, mụt măng kiếm sống thì còn gì là Mây Đầu Non nữa. Mây Đầu Non mà phải đọc sách với một ngọn đèn dầu tù mù và như anh ta nói, có đêm khi đọc một trang sách hay, đèn sắp tắt vì hết dầu, anh ta phải cầu nguyện cho ngọn đèn cố cháy thêm một phút nữa để đọc xong trang sách.

Trước khi về, Hoài còn gặp vợ và ba đứa con lớn của Mây Đầu Non đi rừng về. Ba đứa con gần như bằng nhau và còi cọc so với tuổi của chúng. Hai đứa để tóc dài phủ vai và một đứa đầu trọc lóc, tất cả đều mặc quần đùi, đi chân đất, thân hình đen nhẻm.

Còn vợ của Mây Đầu Non, chao ôi, hầu như Hoài không còn nhận ra người phụ nữ xinh đẹp với cặp mắt xanh biếc và hàng mi dài rợp bóng liêu trai năm nào. Trước mắt Hoài là một phụ nữ ốm tong teo, quần áo rách rưới, tóc vàng cháy, đang còng lưng dưới bó củi nặng. Khi chị vứt bó củi ngước lên, Hoài mới nhận ra giữa khuôn mặt gầy guộc lem luốc bụi than, một phần đôi mắt xưa nhưng đã nhuốm nỗi u hoài mù mịt, trong đó vẫn ánh lên nét hoang dã căm hờn như trong đôi mắt của mấy đứa con.

Hoài chia tay gia đình Mây Đầu Non như trốn chạy mặc dù vợ chồng anh ta cố sức giữ Hoài ở lại. Hoài viện cớ tối còn phải bận họp đội công tác. Một nỗi buồn lạ lùng và những dấu hỏi phân vân xâm chiếm Hoài. Hoài rời khỏi núi đồi lúc hoàng hôn chập choạng và khi chiếc xe đạp lăn bánh trên đường quốc lộ, anh tưởng như mình vừa rời một cơn mơ.

Mây Đầu Non 2

 

TDBCMột chiếc xe Jeep mui trần và một chiếc xe tải cỡ trung đậu kín đáo dưới tàng cây nơi một ngã rẽ trên quốc lộ gần địa đầu cuối huyện, chỗ tiếp giáp ngọn đèo hiểm trở. Một số cán bộ hỗn hợp gồm công an, quân đội, thuế vụ, các đoàn thể đang phối hợp làm công tác quản lý thị trường, chủ yếu bắt chè và cà – phê buôn lậu chuyển về Sài Gòn. Theo sự phân công của ban chỉ đạo huyện, Hoài có mặt trong nhóm người này để nắm tình hình tuy anh không trực tiếp làm công tác này.

Thời gian qua, việc thu mua sản phẩm và đóng thuế, nguồn thu nhập tài chính chủ yếu của huyện bị sút giảm nghiêm trọng. Bao nhiêu nghị quyết đưa ra và được tổ chức học tập, phát động trong nhân dân có rất ít hiệu quả. Chè, cà-phê là những mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý, phải xuất khẩu để thu ngoại tệ. Nhân dân phải làm nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Phải thắt lưng buộc bụng khi đất nước còn khó khăn. Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật… Cán bộ đi nói rã miệng, các loa truyền thanh oang oang suốt ngày đêm nhưng hơn nửa năm rồi mà huyện chỉ thu mua chưa tới 20% kế hoạch. Có xã chỉ đạt 5%, gần như hoàn toàn không quản lý được sản phẩm. Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện đã mở nhiều hội nghị để xem xét vấn đề và cuối cũng đã rút ra kinh nghiệm là phải dùng đến biện pháp mạnh. Nhân dân chưa giác ngộ, bọn con buôn bất chấp pháp luật, không loại trừ đây là âm mưu của đủ loại kẻ thù, phản động đang phá hoại ta về kinh tế nên không được hữu khuynh. Phải cứng rắn, thực hiện chuyên chính vô sản.

Huyện quyết định mở một chiến dịch quản lý thị trường trong thời gian ba tháng. Đây là một chiến dịch thực sự, vì huyện thành lập một ban chỉ đạo do chính đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân huyện làm trưởng ban, trưng tập cán bộ và phương tiện các ngành dứt hẳn công tác chuyên môn, chuyên trách làm công tác này trong một thời gian. Các tổ công tác được thành lập và trấn giữ các nút chặn trên mọi ngả đường ra vào huyện, chưa kể các tổ kiểm tra đột xuất dùng xe lùng sục mọi ngả đường, kể cả đường trong xã, trong xóm. Huyện còn tổ chức một trại cải tạo lao động để đưa bọn con buôn bị bắt vào nhốt một thời gian. Toàn huyện sôi lên vì chiến dịch này. Ngày nào xe cùng đưa về hàng chục tấn chè, cà – phê nhập kho. Tiếng cãi cọ, mắng chửi, khóc lóc vang lên khắp mọi ngả đường.

Một nhóm người vừa lách khỏi bìa rừng bước ra quốc lộ. Họ gồm hơn chục người, có cả đàn ông, đàn bà, ông già và trẻ con. Họ mang vác nặng nhọc và thở phào, cười nói vui vẻ khi đi ra đến đường lộ rộng thênh thang. Họ không thể tiếp tục đi xuyên rừng vì phía trước là ngọn đèo hiểm trở. Đây là nhóm người buôn lậu chè, cà – phê, tơ kén. Người mang ba – lô, kẻ vác bao tải, người xách túi. Đi đầu là một anh thương binh hỏng một mắt, mặc đồ bộ đội đã sờn cũ, chân đi dép râu, ngực đeo huân chương. Anh khoát lay về phía sau:

– Ráng lên bà con. Thoát rồi.

– Chưa thoát đâu. Một giọng nói lạnh lùng cất lên làm cả nhóm giật mình. Họ đã bị số cán bộ quản lý thị trường bao vây.

Một cán bộ công an mặc sắc phục tiến đến trước đám đông, giọng nghiêm khắc:

– Các người đã bị bắt quả tang buôn lậu hàng quốc cấm. Tất cả đưa hàng đến đây và trình giấy tờ cho cán bộ kiểm soát.

Nhóm người buôn lậu hoảng hốt đứng đờ ra một lúc, chưa ai phản ứng gì vì quá bất ngờ. Một lúc sau, anh thương binh tiến lên, cố ra vẻ đĩnh đạc:

– Các đồng chí không có quyền bắt. Đây là sản phẩm của dân làm ra, dân có quyền tiêu thụ. Tôi là thương binh đây, đói phải đi làm thuê. Ai dám bắt, thử bắt coi.

Một sĩ quan của huyện đội trong số cán bộ tiến lên trước mặt anh thương binh, nhìn anh từ đầu đến chân:

– Thương binh hả? Thương binh ngụy hay cách mạng? Thương binh cách mạng đã có chế độ chính sách của đảng và nhà nước. Thương binh cách mạng đâu có tiếp tay cho con buôn. Đưa giấy tờ đây coi.

Con mắt còn lại của anh thương binh long lên:

– Đồng chí đừng ỷ là sĩ quan nghe. Sĩ quan mà đã đi chiến đấu chưa hay chỉ ngồi cạo giấy? Nhìn đi! Anh vỗ tay vào ngực. Huân chương chiến công hạng nhất đây này. Đã thấy cái này bao giờ chưa? Cái này không đem bán được nên phải đi kiếm ăn. Được không?

Trong lúc hai người đối đáp, số cán bộ còn lại xông vào đám con buôn để giật các bao hàng của họ. Cuộc giằng co om xòm vang lên.

– Bỏ xuống.

– Đưa đây.

– Chè nhà mà. Có buôn lậu đâu.

– Có mấy ký bán nuôi con đói. Các anh tha cho.

– Đồ ăn cướp.

– Ngoan cố hả?

Hai cô gái ăn mặc diêm dúa, mặt son phấn tay xách túi nhỏ có vẻ là con buôn chuyên nghiệp kéo anh cán bộ thuế vụ ra phía sau thầm thì, người nhét vào túi anh một xấp tiền, người mở vội bao thuốc ba số 5 mời anh hút. Anh ta lúng túng gạt đi:.

– Không được đâu. Đây là tổ công tác hỗn hợp của huyện, không phải chỉ riêng thuế vụ. Coi chừng ở tù cả lũ.

Cuộc giằng co càng lúc càng căng thẳng. Cả hai bên đều hăng lên, ra sức giành giật, chửi rủa. Có hai đứa bé bỏ chạy trở lại vào rừng. Mấy phát súng chỉ thiên vang lên.

Hoài đứng tựa vào thành xe nhìn cảnh náo loạn. Anh cảm thấy tim đau nhói và ngộp thở. Một cảm giác xấu hổ làm anh phải quay mặt đi như kẻ phạm tội. Chợt anh thấy có người đứng xa xa theo dõi cảnh tượng như anh.

“Ai như Mây Đầu Non?” anh lẩm bẩm và tiến lại phía người kia. Đúng là Mây Đầu Non. Anh ta không chào hỏi, liếc xéo Hoài một cái rồi lắp bắp, miệng giật giật liên tục theo thói quen:

– Đẹp mắt quá. Cách mạng lo cho dân dữ ha, ông cán bộ… Dân đói phải đi ăn cắp, buôn lậu, nhà nước lại ăn cướp của dân… Hòa cả làng phải không ông?

Hoài đặt tay lên vai anh ta:

– Ông đi đâu mà tới đây?

– Đi đâu hả? Đây là giang sơn của tôi mà. Tôi đang theo dõi hoạt động của bọn buôn lậu ngang qua vùng tôi ở.

– Để làm gì? Hoài ngạc nhiên.

– Để nhập bọn chứ làm gì nữa.

Mây Đầu Non cười phá lên, nước miếng bắn cả vào mặt Hoài. Anh ta hấp háy mắt:

– À quên. Tôi nói ông biết để ông đi bắt hả? Mà thực đấy nhé. Dễ ăn lắm. Không thì tôi sống bằng cách nào? Rừng các ông cách mạng đốt hết rồi. Đất thì hăm sung vào tập thể. Tôi ở trên núi mà có yên đâu. Mây Đầu Non ơi Mây Đầu Non! Mây tan, non lở và Mây Đầu Non rồi cùng đi buôn lậu thôi.

Hoài lo ngại nhìn anh ta. Anh nói một cách thành thật:

– Không được đâu ông ơi. Người ta bắt đi cải tạo lao động chứ không đùa đâu.

Mây Đầu Non trợn mắt:

– Ông tưởng tôi sợ à? Tôi đã từng bị biệt giam, đi lao công đào binh thời ngụy. Bây giờ nếm mùi tù cách mạng cũng không sao. Để so sánh hai chế độ chớ. Nhưng mà ai phải cải tạo lao động? Chính mấy cha cán bộ cách mạng chuyên nói dóc phải lo cải tạo trước đi. Dân người ta lao động thấy mẹ, không đủ ăn còn cải tạo nỗi gì?

Hoài ngoái nhìn số cán bộ đang dồn nhóm con buôn lên xe tải. Cả anh thương binh cũng chung số phận và đang gào lên câu gì đó nghe không rõ. Hoài hạ giọng:

– Này, ông nói nhỏ thôi nghe. Nói với tôi thì sao cũng được nhưng mấy ông cán bộ kia nghe cùng phiền đấy. Sao? Độ này ông đói lắm hả?

Hoài nhìn kỳ Mây Đầu Non. Vẫn chiếc bê – rê bạc màu đội lệch che cái đầu húi ngắn gần như trọc. Chiếc áo sơ – mi cháo lòng sờn cổ, đầy vết bẩn vẫn bỏ trong quần nghiêm chỉnh. Đôi giày ba – ta trắng đã biến thành xám đen loang lổ, cột dây đàng hoàng tuy dây cùng sờn gần đứt. Anh có vẻ già hơn nhiều so với lần gặp Hoài mấy tháng trước. Khuôn mặt đầy vết nhăn sâu cử động không ngừng do tật hấp háy mắt và giật giật đôi môi. Anh ta cũng chăm chú nhìn Hoài. Đôi mắt nâu nheo nheo tinh quái thoáng vẻ mệt mỏi và phẫn nộ, một chút gì hoang dã như mắt thú rừng.

Mây Đầu Non nói với vẻ giễu cợt cố hữu:

– Đói à? Ông vẫn biết tôi thường xuyên đói mà. Tôi đói hư vô, đói tuyệt đối, đói cô độc, đói chân lý. Đó là cơn đói tự nguyện của tinh thần. Còn thân xác đói là đói cưỡng bức. Tôi thiếu ăn, không nuôi nổi vợ con và xã hội không cho tôi lao động chân chính để kiếm sống. Ông biết đó, tôi là một thằng đỗ cao học triết, một người viết văn nhưng tôi có ngại lao động chân tay bao giờ? Thế mà hiện nay tôi đang tính chuyện đi buôn lậu đây.

Chính chế độ các ông dồn tôi đến chỗ này chứ tôi không muốn đấy nhé. Ông không cãi được tôi đâu.

“Cãi lại anh ta ư?” Hoài nghĩ thầm. “Đâu thể đem chế độ chính sách để giải thích với anh ta được. Anh ta đã chiêm nghiệm chế độ này bằng chính cuộc sống bản thân và gia đình, một cuộc sống khắc nghiệt, bi thảm, cheo leo bên bờ vực, lơ lửng ở sườn non như dã thú kia thì thuyết phục anh ta thế nào được bằng đường lối chính sách?

Mây Đầu Non tiếp tục tuôn ra hàng tràng không để cho Hoài kịp trả lời:

– Ông không cãi được tôi vì ông không phải là cách mạng thứ thiệt, cộng sản thứ thiệt. Ông chỉ là cộng sản theo, cộng sản dỏm. Cộng sản thứ thiệt có đầy đủ mọi loại lý luận và bẻ gãy mọi người bằng chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản làm cho những thằng ngu dốt với các thứ lý luận giáo điều đủ sức mạnh để đè bẹp mọi lực lượng đối kháng. Chúng nhân danh hạnh phúc của nhân dân để hành hạ con người. Nhân dân trừu tượng mà con người là cụ thể. Chúng không đếm xỉa đến con người vì con người có thể chống đối, làm hại đến chúng nó. Còn nhân dân là một tập thể vô hình ngu muội đương nhiên chỉ biết ủng hộ và đứng về phe bọn ngu dốt cầm quyền. Đó mới là quan điểm đích thực của chúng nó.

Ông Hoài ơi, ông không hiểu được điều đó đâu vì ông là cộng sản dỏm mà, không phải thứ thiệt. Tôi với ông còn lạ gì nhau. Ông là trí thức tiểu tư sản, ông theo đuổi các giá trị nhân văn, còn chúng nó là vô sản. Ông cũng là đối tượng đấu tranh của chúng nó đấy. Ông phải coi chừng cái mạng của ông chứ đừng tưởng chúng thí cho cái chức cán bộ rồi mà có ngày vỡ mộng.

Mây Đầu Non liếc nhìn về phía hai cái xe của tổ công tác đang chuẩn bị chạy sau khi số cán bộ đã dồn hết người buôn lậu và hàng lên chiếc xe vận tải. Anh ta nói vội vàng hơn:

– Thôi ông đi làm nhiệm vụ đi, ông cán bộ. Tôi biết ông xấu hổ khi nhìn cảnh ăn cướp này. Còn chúng nó có xấu hổ đâu? Một ngày kia ông sẽ bị chúng triệt hạ vì thứ lương tri trí thức của ông. Ông cứ tin tôi đi.

Hoài quay về với chiếc xe của đội công tác đang chuyển bánh.

Anh đi chậm rãi mặc dù có mấy người trên xe đang vẫy gọi giục anh nhanh lên. Anh choáng váng vì những lời lẽ như dao sắc của Mây Đầu Non đâm thấu tim anh. Anh mong cho chiếc xe chạy luôn bỏ anh lại một mình giữa chốn vắng vẻ này. Anh đã bị thương và muốn nằm liếm vết thương của mình như một con thú.

Mây Đầu Non 3

Vy đã rời thành phố Sương Mù đi thăm con được một tuần. Hoài lại trở về cuộc sống độc thân. Sáng chủ nhật này Hoài dậy muộn. Khu biệt thự của cơ quan im ắng như những ngày đầu Hoài mới về đây ở. Tôi hôm qua Minh Hương đi suốt đêm không về. Thỉnh thoảng Minh Hương đi chơi rồi ngủ lại đâu đó. Anh dễ thân với mọi người, không có gì ràng buộc và không thích cô độc.

Hoài trái lại, luôn muốn quay về với chính mình. Đêm qua thức đọc sách khuya nên sáng nay lúc Hoài dậy, căn phòng đã sáng rực. Làm vệ sinh cá nhân xong, Hoài pha cà – phê định ra ban – công ngồi sưởi nắng, chợt thấy có người đang lúi húi làm gì ở ngoài vườn phía xa xa gần đường.

Hoài che mắt nhìn. Đó là một người đàn ông khoác măng – tô xám cũ kỹ, đầu đội bê – ré đen, đang đi chậm chậm nhìn chăm chú xuống bãi cỏ và thỉnh thoảng dừng lại quỳ xuống. Hoài cố nhìn kỹ hơn. Anh ta đang nhổ các cây thông con. Trong khu vườn này, dưới các tàng thông lớn, ngoài cỏ và hoa bay màu vàng bé nhỏ, lác đác có các cây thông và mimosa con mọc tự nhiên.

Người đàn ông làm công việc một cách rất cẩn trọng, vạch cỏ xem gốc cây kỹ lưỡng trước khi nhổ. Gặp gốc hơi cứng, anh ta lấy một con dao cẩn thận xắn chung quanh và bứng lên nguyên bầu. Nhổ được vài cây anh ta bỏ vào một bao ni-lông và mang dần để vào cái túi treo trên chiếc xe đạp dựng gần đấy. Anh ta đã nhổ được khá nhiều nhưng vẫn tiếp tục chăm chú tìm kiếm.

Hoài hơi bực mình khi thấy có người vào khu vực cơ quan nhổ cây không hỏi ý kiến trước. Anh đi xuống lầu mở cửa định ra gặp người đàn ông bảo thôi đi. Đi quá nửa vườn, Hoài giật mình chợt nhận ra người đàn ông đang lom khom không ai khác hơn là Mây Đầu Non, người từ khi lên đây, đã gần một năm anh chưa gặp.

Hoài vui mừng kêu lên:

– Mây Đầu Non! Ông làm chuyện bất ngờ. Tôi định ra bắt ông về tội phá hoại đấy nhé!

Mây Đầu Non ngẩng lên nhìn Hoài rồi thản nhiên cúi xuống bứng tiếp cây thông con:

– Ai bảo ông tôi phá hoại? Mấy cây thông con này ở đây chắc chắn sẽ không lớn nổi và đây cũng nhiều thông quá rồi. Tôi bứng đi nơi khác để “phủ xanh đồi trọc” theo chính sách nhà nước mà ông dám bảo là phá hoại à?

Hoài đến gần kéo tay Mây Đầu Non:

– Thôi để đó vào đây uống nước đã. Ông cần nhiều tôi sẽ bứng giúp cho. Ông lên đây từ bao giờ? Hôm qua ở đâu?

Mây Đầu Non cẩn thận đặt gốc cây mới bứng vào túi đựng cây nơi xe đạp, theo Hoài vào nhà:

– Tôi lên hôm kia. Đi bằng xe đạp đấy. Hơn trăm cây số đi tà tà một ngày cũng tới. Hôm qua tôi ngủ lại chùa. Tôi thì biết tá túc đâu ngoài cửa Phật mặc dù các ông sư cũng có người không ưa tôi. Dù sao tôi vẫn có duyên với nhà Phật và cửa chùa thường mở rộng hơn nơi khác. Tôi đi dọc đường này nhổ thông và nhân tiện lại thăm ông luôn.

Vừa bước vào phòng khách. Mây Đầu Non hấp háy mắt nhìn lướt qua các bức tranh treo trên tường rồi bĩu môi:

– Hội nhà văn mà treo các đồ dỏm này à? Trình độ nghệ thuật của các ông đâu mà trưng các thứ bá láp đó lên?

Hoài không phật ý vì đã biết tính Mây Đầu Non. Anh ta hầu như luôn luôn đả kích mọi thứ. Hoài cười xòa:

– Ông lúc nào cùng khó tính. Đó là tranh của anh em họa sĩ trong tỉnh và các đoàn khách tặng nên tụi mình treo trang trí và để làm kỷ niệm chứ cơ quan mới thành lập làm gì có tiền mua các bức tranh nghệ thuật nổi tiếng.

Mây Đầu Non vẫn chưa chịu thôi:

– Nhưng đây là trụ sở của hội nhà văn. Văn chương và hội họa là hai anh em song sinh, là tinh hoa của những bộ môn nghệ thuật. Tất cả có thể bị chôn vùi vào lãng quên nhưng những tuyệt tác về văn chương và hội họa sẽ trường tồn mãi mãi khi nhân loại còn muốn sống như con người. Đừng để người ta nghĩ rằng hội nhà văn các ông không biết thưởng thức và đánh giá tác phẩm hội họa.

Hoài kéo Mây Đầu Non lên lầu:

– Được rồi, ông yên chí. Tụi tôi không đến nỗi nào đâu. Lên đây uổng cà – phê sưởi nắng nói chuyện đã.

Hoài sửa soạn pha thêm cà-phê nhưng Mây Đầu Non gạt đi:

– Tôi không uống cà – phê, chỉ uống trà thôi. Trà tôi tự làm có mang theo đây. Ông lấy ấm tôi pha cho.

Sau khi nhắp mấy ngụm trà, không để Hoài hỏi han chuyện gia đình, Mây Đầu Non nói luôn về tạp chí La Ban:

– Tôi đã đọc tạp chí của các ông và mới lên đây cũng nghe dư luận phê phán này nọ. Ôi dào, đã có cái quái gì ghê gớm đâu! Có bài còn tệ quá nữa là khác. Tạp chí văn học gì mà mới mở đầu đã có mấy bài phát biểu của các ông lớn. Chỗ nào cùng nói đi nói lại chuyện đảng lãnh đạo. Văn nghệ cần quái gì ai lãnh đạo. Văn học thế giới bao nhiêu thế kỷ nay có đảng nào lãnh đạo đâu mà vẫn có vô số kiệt tác để đời? Còn văn học của các nước có đảng cộng sảng lãnh đạo như nước ta có gì hay ho hơn hay chỉ là những công cụ tuyên truyền hàng loạt. Thứ nghệ thuật đồng phục không có sáng tạo, không cá tính, thực ra không thể gọi là nghệ thuật được. Đó chỉ là tuyên truyền. Đây đó cũng có tác phẩm đọc được nếu tác giả thực sự có tài năng, còn đại bộ phận đều nhợt nhạt rập khuôn theo cùng một mô-típ. Mà ngay cả các tác giả có tài năng cũng bị hạn chế rất nhiều vì phải đi theo con đường đã được vạch ra. Theo tôi, nghệ thuật là tự do, phi đảng. Nghệ sĩ là thượng đế trong tác phẩm của mình. Tác phẩm phải sáng tạo, độc đáo, mang rõ cá tính của người nghệ sĩ. Còn nếu sản xuất hàng loạt thì vứt mẹ nó đi.

Hoài cắt lời Mây Đầu Non:

– Bàn chuyện sáng tác còn khối điều để nói. Nhưng này, ông đang nói đến tạp chí La Ban, ông hãy góp ý cụ thể đi. Tụi tôi cũng đang muốn nghe nhiều loại ý kiến. Nhưng có điều ông chú ý cho đây là tạp chí của hội nhà văn mà hội nhà văn này là do đảng lãnh đạo. Nếu là tạp chí của một nhóm tư nhân hoàn toàn độc lập lại khác. Tôi còn nhớ ngày xưa một mình ông cùng chủ trương và thực hiện được một tờ báo. Ông quảng cáo kêu gọi người ta viết nhưng lại cấm giáo viên, sinh viên sư phạm và một lô một lốc những loại người không được gởi bài cho báo ông. Bây giờ đâu phải làm báo theo kiểu đó. Trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay, ông nghĩ tờ báo nên như thế nào và ông có thể cộng tác gì không?

Mây Đầu Non trợn mắt nhìn Hoài:

– Làm tờ báo như thế nào là chuyện của các ông chứ không phải của tôi. Tôi không thể nghĩ cách làm một tờ báo có đảng lãnh đạo được. Nếu cần làm một tờ báo thực sự tự do tôi sẽ làm được ngay. Nhưng chế độ này làm gì có tự do thực sự, chỉ có tự do giả hiệu cũng như bao nhiêu quyền chính đáng của con người được nêu ra cũng là lừa bịp cả. Ngay chuyện sáng tác của tôi, hơn mười năm nay tôi có viết được gì đâu mặc dù tôi thừa sức viết không phải hàng ngàn mà là hàng chục ngàn trang. Cũng có khi tôi cầm lại cây bút nhưng viết được vài trang tôi lại xé bỏ vì tôi nghĩ đến cảnh công an ập vào lục xét. Tôi không muốn đi tù về chuyện đó. Nếu các ông bảo đảm đăng và chịu trách nhiệm về bài của tôi, tôi sẽ viết. Chỉ sợ các ông không dám thôi.

Hoài hơi bực mình về lối nói này của Mây Đầu Non, không phải lần đầu anh ta nói như thế. Hoài đánh giá Mây Đầu Non trước đây là một tác giả có tài, độc đáo, nhưng sau này chưa thấy anh ta viết gì. Anh ta luôn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi sẽ bị bắt về chuyện sáng tác.

Hoài nói:

– Ông cứ viết đi và gởi đến cho tụi tôi rồi tụi tôi sẽ có ý kiến. Không ai bắt ông đâu. Ông sợ hơi nhiều đấy. Nếu ông viết chỉ để trong nhà hoặc cho bạn bè đọc cùng dễ thôi. Nhưng viết để đăng lên báo là cả một vấn đề. Cũng như chuyện viết và “lách” ngày trước, bây giờ làm sao một tạp chí công khai có thể đứng được, tác phẩm chuyên chở được tâm huyết của người nghệ sĩ, tác động được vào tình hình chính trị, xã hội chung, đó là điều rất khó khăn. Về phương diện sáng tác cá nhân, tụi tôi có thể làm như điều ông nói, nhưng với tư cách là người chủ biên tờ báo, tụi tôi phải nghĩ đến những điều khác nữa.

Mây Đầu Non vứt cái mũ bê – rê xuống bàn, tay xoa xoa cái đầu húi trọc, mắt nheo nheo nhìn Hoài với một vẻ gần như khinh bỉ và thương hại:

– Đặt vấn đề như thế thì tôi không cộng tác với các ông được đâu. Tôi viết dứt khoát là phải hoàn toàn tự do. Ông đã biết tôi mang cả hình ảnh “người đàn bà ngồi đái” và chuyện “buồn buồn móc đít ngửi”, vào trong thơ kia mà. Chấp nhận, thưởng thức được hay không là tùy người đọc. Có thể tác phẩm của tôi chỉ có mươi người đọc, thậm chí một người, nhưng hiểu đến nơi đến chốn còn hơn là làm trò giải trí cho hàng vạn người. Thế kỷ này có thể không có người hiểu tôi nhưng mai sau có người tìm đọc là được.

Tôi cần gì kiểu viết “lách” của các ông? Cuộc đời đầy giả trá chưa đủ sao mà các ông còn đem văn chương tô son điểm phấn cho những con đĩ rạc? Hãy chân thật đi mới có văn chương đích thực. Còn những thứ “ngụy văn chương”, tôi xin chào thua. Nhưng thôi, nói thế đủ hiểu nhau rồi. Dù sao ông và Minh Hương vẫn là đảng viên cộng sản, tôi làm sao đi với các ông được mặc dù tôi biết các ông là những kẻ có lòng. Kẻ có lòng thời nay cũng hiếm đấy. Các ông cứ làm việc của mình đi rồi sẽ tới lúc các ông phải xét lại. Còn tôi, bây giờ tôi quyết chí trồng thông. Tôi không cần chính sách, chế độ gì hết. Ông cứ chờ xem. Một mình tôi sẽ trồng mười ngàn cây thông ở khu vực đồi chung quanh nhà tôi ở. Tôi lên tận đây để nhổ thông con, tự tay đào hố trồng từng cây và xách nước từ dưới suối lên để tưới. Đảng và nhà nước của các ông cứ hô hào phủ xanh đồi trọc nhưng chỉ phá hoại, còn tôi, tôi sẽ làm.

Mây Đầu Non đội mũ đứng lên:

– Thôi, tôi đi đây. Tôi phải nhổ một ngàn cây nữa trong ngày hôm nay để sớm mai còn về.

Hoài tiễn Mây Đầu Non xuống lầu:

– Trưa nay ông trở lại đây ăn cơm với tôi rồi tối về đây ngủ nói chuyện tiếp nhé.

Mây Đầu Non vỗ tay vào túi xách mang trên người:

– Cám ơn ông. Cơm nước có đây rồi. Tôi tự lo mọi thứ. Lúc nào đói bụng tôi chỉ việc ngồi xuống bài cỏ giở đồ nguội ra ăn, khỏi phiền ai cả. Còn tối tôi cũng chưa biết về đâu. Tiện đâu ngủ đó. Có khi tôi sẽ ngủ lại trong rừng cũng nên. Ta sẽ có dịp gặp nhau vì thế nào tôi cũng còn lên đây để nhổ thông tiếp nữa. Thôi, đi nhé.

Mây Đầu Non bắt tay Hoài rồi lầm lũi đi ra, dáng vội vàng và quả quyết.

Hoài lên lầu đứng tựa lan can nhìn Mây Đầu Non loay hoay với chiếc xe đạp ngoài xa. Trước khi khuất sau cổng, anh ta còn quay lại giơ tay vẫy. Lần nào gặp nói chuyện với Mây Đầu Non, anh ta cũng làm cho Hoài xao xuyến, gần như chấn động. Một con người lạ lùng, lạc lõng và cô độc. Anh ta sinh nhầm thế kỷ hay đi quá trước thời đại? Những điều anh ta nói về chuyện sáng tác và tự do không phải là những gì Hoài không từng nghĩ đến. Nhưng rõ ràng trong thời đại này, nghĩ và sống như thế là hoàn toàn không tưởng. Anh ta là một người sống hoàn toàn ảo tưởng nhưng lại có ý thức rõ ràng về sự ảo tưởng của mình. Còn Hoài, anh có ảo tưởng không? Phải chăng anh cũng hoàn toàn ảo tưởng nhưng không tự biết, không tự nhận khi hy vọng làm một cái gì cho xã hội bằng văn chương nghệ thuật, bằng bộ máy và tất cả cơ chế, nghị quyết, chính sách của chế độ này? Anh có ngây thơ không và rồi anh sẽ vỡ mộng về sự cả tin của mình?

Đổi mới? Mây Đầu Non 4

 

Sau khi gặp học giả Nguyên Bạt Tụy, Minh Hương và Hoài hết sức quan tâm đến trường hợp của ông. Ông là một nhà nghiên cứu kỳ dị, có những quan điểm hết sức độc đáo về ngôn ngữ học. Những bài viết trước đây của ông đã gây ra tranh luận giữa các nhà chuyên môn không những trong nước mà cả ở nước ngoài. Tuy chưa được xem công trình của ông cũng như chưa có điều kiện sưu tầm lại các tư liệu cũ liên quan đến những hoạt động trong học thuật của ông trước đây, Minh Hương và Hoài cảm thấy có trách nhiệm trong việc nêu vấn đề của ông ra trước công luận, từ đó, tìm cách xuất bản công trình nghiên cứu một đời của ông mà hai anh dự đoán sẽ là một đóng góp không nhỏ cho học thuật ở một lãnh vực không mấy người có điều kiện dấn thân vào. Nếu ông không muốn tự viết về trường hợp của mình, hai anh sẽ viết hoặc thực hiện dưới hình thức cử phóng viên đến phỏng vấn. Tuy nhiên, dự tính của hai người đã không thành. Tạp chí La Ban chỉ mới đăng một bài nghiên cứu về phong tục tập quán của ông, sau đó sau khi ra số 3, tạp chí La Ban đã bị rút giấy phép xuất bản. Việc rút giấy phép xuất bản tạp chí La Ban hầu như là một việc đương nhiên phải đến. Người ta cảm thấy không thể chỉ đạo được tạp chí này cũng như những người phụ trách nó. Người ta đã khó chịu khi đại hội thành lập hội nhà văn đón tiếp nhà thơ Hữu Loan một cách nồng nhiệt, khó chịu hơn khi La Ban đăng thơ Trần Dần, càng không thể chịu đựng được khi La Ban số kế tiếp lại đăng thơ Hữu Loan, một bài thơ tố cáo mạnh mẽ trước đây chưa hề được công bố.

Bài thơ “Tục đèo Cả” nói về người anh hùng đèo Cả năm xưa sau khi chiến thắng trở về thành phố:

Giữa thủ đô Hà nội

Có một anh xe ba gác

ngực

đầy

huân

chương

trên chiếc áo sợi đôi

màu cổ chiến trường

màu

bết

khô

quánh

đỏ

như đem đóng

vinh quang

vào ngực

bằng đinh!

Cả Hà Nội vỉa hè

theo sát

vây quanh

Công an

xông dùi cui

đến quát

Đeo huân chương

để

chủ

tâm

bôi bác?

Anh ba gác kia

cúi nhìn xuống ngực

trả lời:

là đeo

vinh

đeo

dự

sáng

ngời

Công an trợn mắt

nghiến mồm:

– là

thâm độc

bôi

đen

chế độ!

Anh ba gác

bình

tĩnh

Ta làm gì có màu đen hơn

ta

chỉ

nguyên…

và anh rũ rượi ho ra

máu đỏ

Im lặng rùng mình

Người công an

định lấy tư thế

quát

thật rắn

thật to

và phát ra thất thanh

tiếng méo

mồm cũng méo

– Người là ai?

Anh ba gác

vẫn bình tình

từng lời

từng lời.

Ta là ta

cũng

đã

mi.

– Ta là lịch sử

đóng

chặt

hơn đinh

dù chậm hơn rùa!

 

Trong chế độ này sao có người dám làm thơ như thế, hơn nữa là một tay “Nhân văn” cũ, La Ban lại dám cho đăng. Đã thế còn in theo kiểu bậc thang xuống dòng liên tục, giấy đâu đem đăng thơ bôi đen chế độ? Đó là chưa kể các bài vở khác ở La Ban số 2 và 3 càng ngày càng tỏ ra một quan điểm cấp tiến đáng ngại, muốn xem xét, lật lại mọi vấn đề đã được khẳng định lâu nay theo quan điểm chính thống của đảng. La Ban số 3 đã công bố lần đầu tiên một tư liệu cũ gọi là “Đề cương đề dẫn thảo luận ở hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học” trước đây đã bị cấm phổ biến và những người chuẩn bị nó đã bị trù dập.

Bên cạnh đó, hội nhà văn và tạp chí La Ban chính thức lên tiếng về vụ Nguyên Ngọc, tổng biên tập báo Văn Nghệ trung ương, bị phê phán và cách chức, lại là một dấu hiệu đáng ngại nữa trong quan điểm của những người hoạt động văn nghệ ở đây.

Từ khi Nguyên Ngọc về làm tổng biên tạp báo Văn Nghệ của hội nhà văn Việt nam, tờ báo đã có những khởi sắc theo hướng đổi mới thực sự. Những phóng sự đi sâu điều tra các tội ác, đặc biệt ở nông thôn, những truyện ngắn lấy nguyên mẫu từ các nhân vật lịch sử để từ đó đặt vấn đề xem xét lại quá khứ, những bài thơ chống tiêu cực mạnh mẽ, những bài lý luận phê bình văn học công khai xem xét lại các giáo điều, đánh giá lại các thành tựu văn học đã qua… Xu hướng này được đông đảo bạn đọc hoan nghênh nhưng những người lãnh đạo bắt đầu lo ngại. Văn nghệ vốn là một lãnh vực rất nhạy cảm và sự chuyển động trong văn nghệ chính là báo hiệu của những chuyển động xã hội. Thế là người ta chỉ đạo để dập tắt xu hướng nguy hiểm này. Ban chấp hành hội nhà văn Việt nam đã họp, ra nghị quyết, phê phán tuần báo Văn Nghệ đã có “những lệch lạc nghiêm trọng”, phân tích một số tác phẩm được đăng tải để chứng minh, cho rằng tờ báo đã “làm đổ vỡ lòng tin vào sức sống của chủ nghĩa xã hội” và quyết định “uốn nắn, chấn chỉnh tuần báo Văn Nghệ về nội dung và tổ chức”. Đây là một đòn nặng giáng xuống văn nghệ đổi mới. Nếu là trước đây, khi mọi chuyện còn bưng bít và uy quyền của đảng còn tuyệt đối, sự việc đã xong xuôi, nhưng ngày nay tình thế đã khác. Các nhà văn, trí thức, độc giả bình thường khắp cả nước đã lên tiếng phản đối nghị quyết sai trái của ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam. Ban chấp hành hội nhà văn thành phố Sương Mù và tạp chí La Ban là một trong những tổ chức đầu tiên chính thức lên tiếng với tư cách tập thể, sau một cuộc tọa đàm và đưa ra một kiến nghị mạnh mẽ. Kiến nghị yêu cầu tuần báo Văn Nghệ phải là diễn đàn đổi mới, không bị quy chụp về chính trị đối với những quan điểm cấp tiến, không đồng phục, lên án việc làm của ban chấp hành hội nhà văn Việt nam và kêu gọi toàn xã hội cùng lên tiếng ủng hộ cho đổi mới mà vụ việc tuần báo Văn Nghệ chính là một điểm nóng.

Sau cuộc tọa đàm, Minh Hương và Hoài đang ngồi trao đổi về các biện pháp đấu tranh đòi tiếp tục xuất bản tạp chí La Ban, thì Mây Đầu Non xuất hiện. Anh ta lại đi xe đạp từ huyện lên để nhổ thông con về trồng tiếp. Sau lần đầu gặp Hoài ở cơ quan hội, Mây Đầu Non đã đi mấy lần nữa và cũng đã làm quen, chuyện trò về văn nghệ với Minh Hương. Vừa lên khỏi cầu thang, thấy Minh Hương và Hoài đang ngồi ở ban – công, anh ta la lớn ngay:

– Các ông dở quá! Các ông dở quá? Tạp chí La Ban sẽ không ra gì nếu không đăng lại bài “Ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ” của Nguyễn Minh Châu đã đăng lên tuần báo Văn Nghệ trung ương. Bài này quan trọng và có giá trị hơn tất cả các nghị quyết của đảng. Các ông thấy không? Văn chương mà chỉ biết mặc đồng phục, hát tụng ca thì còn gì là văn chương nữa. Hãy đọc ai điếu, hãy chôn vùi nó đi. Tay Nguyên Minh Châu này khá quá.

Tôi vốn không thích các nhà văn bắc kỳ nhưng ông Nguyễn Minh Châu này được lắm. Có thế chứ. Rồi có lúc người ta cũng phải tỉnh ngộ. Tôi hy vọng một thời kỳ mới đã bắt đầu mở ra. Bài viết như thế mà được đăng thì những sáng tác của tôi may ra có thể xuất hiện. Lâu nay các ông bảo tôi gởi bài nhưng tôi vẫn chưa tin các ông dám đăng nên tôi không gởi. Đây tôi đưa các ông xem mấy bài thơ mới làm.

Mây Đầu Non lục tung chiếc túi cũ kỹ rất hài hòa với bộ quần áo xập xệ sờn cũ anh đang mặc, đưa cho Minh Hương và Hoài một xấp giấy khổ lớn. Hoài mở ra, trang đầu tiên là một bài thơ hai chữ, chữ viết tay to và phóng khoáng, chiếm hết trang giấy:

Đụ mẹ

Cây bông

Hắn không

Lao động

Ai trồng

Chật chỗ

Mày nhổ

Xem sao

Máu trào

Thiên cổ

 

Những bài thơ còn lại theo nhiều thể loại khác nhau nhưng bài nào cũng có giọng điệu ngang tàng rất đặc biệt kiểu Mây Đầu Non, không thể lẫn với ai được.

Hoài chuyển mấy bài thơ cho Minh Hương. Minh Hương xem qua rồi thở dài:

– Muộn rồi ông Mây Đầu Non ạ! Ông ở chốn hẻo lánh nên hơi thiếu thông tin. Bài viết của Nguyễn Minh Châu đã bắt đầu bị phê phán và tạp chí La Ban đã bị rút giấy phép xuất bản.

Mây Đầu Non trợn mắt, nổi sùng lên, lắp bắp:

– Đ M… Thế… mà nói đổi… đổi mới cái con c. gì?

 Ảnh: (trên) Nguyễn Đức Sơn; (giữa bài) Tiêu Dao Bảo Cự

[i] Nguyên mẫu của nhân vật là nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

Comments are closed.