Nửa thế kỷ cùng anh Đặng Tiến (1940-2023)

Nhất Uyên

Anh Đặng Tiến vừa qua đời ngày 17-4-2023 lúc 8 giờ sáng tại Orléans, thọ 83 tuổi. Sinh ngày 30-3-1940 tại An Trạch, Điện Bàn, nay là Hòa Vang – Đà Nẵng. Học Lycée Blaise Pascal Đà Nẵng, anh tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Năm 1966 anh được một chức vụ Tùy Viên Văn Hoá tại Sứ Quán VNCH tại Freiboug tại Thụy Sĩ, nơi đây anh gặp gỡ chị Minh Nguyệt con vị Đại Sứ tại Thụy Sĩ. Năm 1968 anh từ nhiệm đến Orléans dạy Văn Chương Pháp tại một trường Trung Học. Năm 1969 anh cùng các anh Nguyễn Phú Phong, Phạm Đán Bình, Tạ Trọng Hiệp sáng lập ra Ban Việt Học tại Viện Đại Học Paris VII, anh phụ trách Giảng Viên về Văn Chương Việt Nam, cho đến ngày nghỉ hưu năm 2005. Anh viết hàng trăm bài về Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Hàn Mạc Tử, Đinh Hùng, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Phạm Công Thiện, Nguyễn Bắc Sơn cho đến những nhà thơ trẻ thi ca hiện đại, anh còn viết các tiểu luận về các thi pháp Romaine Jakobson (1896-1902), Claude Levis-Strauss (1908-2009). Các bài viết anh được tập họp thành sách Vũ Trụ Thơ (Giao Điểm, SG 1972). Vũ Trụ Thơ II (Thư Ấn Quán, HK 2008). Thi pháp và Chân dung (Nxb Phụ Nữ, Hà Nội 2009).

arton7689-600d2

Chân dung Đặng Tiến

Tôi biết anh từ những ngày còn là học sinh Trung Học đăng thơ trên các tạp chí, các báo Văn, Tân Văn, Thời Nay… tại Sài Gòn. Anh hơn tôi 11 tuổi. Tôi mến anh từ bài thơ anh viết cho chị Minh Nguyệt, tôi cho là bài thơ hay nhất của thế kỷ viết cho người yêu. Tôi thường đùa với anh: “Trước mắt có tình không tả được, Vì thơ Đặng Tiến ở trong đầu”. Bài thơ anh tôi còn giữ qua bao năm tháng:

VỀ MỘT ÁNH TRĂNG

Trời xanh ngát lời chim khuyên mới chớm

Lời bao la lìa ý vụt bay cao

Lả cánh mộng hồn đêm lìa xác bướm

Về quỳ bên Em, dâng một cánh hoa đào.

Tình gửi chân mây. Em còn nhớ kiếp nào,

Hanh nắng trong lòng hay trăng xế chiêm bao ?

Ngày em đến hoa quên mà lá nhớ

Anh đợi em đây. Em đừng bỡ ngỡ

Sông ngàn xưa là tâm sự nước nghìn sau.

Tóc từng sợi lạc dòng từ nguyên thủy

Trôi bơ vơ phế tích một thiên đường

Như chiếc lá lay bay về cội ý

Là lòng Anh xin cưới một quê hương.

Anh không viết lời thề lên lá đỏ –

Màu sắc nào không ngờ vực thời gian ?

Đá quên thề nên ngoại tình với gió

Đêm hôm rồi nở một đóa phong lan…

Hạt cát nào ngậm lâu đài trong ký ức.

Hạt sương nào nuôi biển lớn cuối tương lại

Dẫn lối Em về, muôn tế bào cháy rức

Lửa hành tinh lạc dấu đã đầu thai.

Giông tố cũ đã san bằng quá khứ,

Chút hoang liêu gìn lại gửi mai sau

Em đã hái từng trái sầu đỏ úa

Trên cành khô ươm lại đóa hoa đầu.

Có bao giờ ai biết tiếng thương đau

Của loài chim ngậm hờn trong cổ họng

Mà vẫn bao dung triền miên như bọt sóng

Về gục bên Em, dâng một đóa hoa đào.

ĐẶNG TIẾN

(Freibourg, Xuân Canh Tuất 1970)

Bài thơ tuyệt vời, mỗi lần tôi nhắc, chị Minh Nguyệt còn long lanh cảm động. Và chị đã sinh cho anh ba con: Nhất Lập, Lãm Thúy và Đặng Tam.

Tôi đi du học tại Louvain và sau đó qua Paris năm 1973, từ đó tôi thường gặp anh luôn, anh đến nhà tôi khi lên Paris dạy học, tôi đến nhà anh bên bờ sông Loiret ngoại ô Orléans, tôi thường gặp anh trong các buổi nói chuyện tại Đại Học Paris VII, Hội Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp, gia đình anh và gia đình tôi thân thiết, cùng đi nghỉ hè tại Dã thự Cam Tuyền của GS Hoàng Xuân Hãn bên bờ biển Normandie. Tôi và anh như Lệnh Hồ Xung nhân vật Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung. Ai cũng là bạn thân không phân biệt lập trường chính trị, tả hữu đang xâu xé nhau. Tôi và anh phiêu lưu qua những phong trào chính trị tại Paris. Trước năm 1975, tôi cùng anh tham gia Thành phần thứ ba tại Paris, được định nghĩa là những người không thuộc VNCH cũng không thuộc CPCMLTMNVN [Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam – VV chú thích] trong bản ký tên có nhiều hội đoàn tổ chức được đăng trên báo Le Monde có hai nhân sĩ nhà văn Đặng Tiến và tôi, nhà thơ Nhất Uyên. Rồi tôi và anh cùng tham gia Hội Người Việt Nam tại Pháp, cùng trong Ban Biên Tập tạp chí Khoa Học Xã Hội. Tôi và anh chẳng bao giờ nói chuyện chính trị mà chỉ nói chuyện văn hoá văn chương. Chính trị làm mọi người xa nhau, nhưng văn chương làm mọi người gắn bó cùng nhau.

Những năm 1980 nhà thơ Huy Cận, Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa thường sang Paris mỗi năm ông sang 3, 4 lần, ông là thành viên trong Hội Đồng UNESCO Liên Hiệp Quốc, và Hội Đồng Pháp Ngữ, tại Pháp ông cho rằng: ông có hai người bạn tâm giao là anh Đặng Tiến và tôi. Anh Đặng Tiến nối kết để Huy Cận nói chuyện cùng nhạc sĩ Phạm Duy và tôi nối kết để anh nói chuyện với anh Nguyễn Tường Việt con trưởng nhà văn Nhất Linh. Anh Đặng Tiến đề xướng cùng tôi ra việc mời Xuân Diệu sang chơi Paris và dự định sẽ mời nhiều nhà văn nhà thơ khác. Thuở ấy trong nước còn nghèo khó, không có ngân sách để cho các nhà văn nhà thơ ngao du ra các nước tư bản. Tôi đảm nhận phần lớn việc ấy vì lúc đó, tôi vừa xong luận án Tiến sĩ, công việc làm đại diện thương mại thời sinh viên lại dẫn tôi vào công việc thành lập công ty cung cấp nữ trang đá quý cho thị trường Paris và tôi trở thành “nhà thơ tư bản”. Ông Huy Cận giao nhà thơ Xuân Diệu cho tôi và anh Đặng Tiến tổ chức đưa ông đi chơi thăm các lâu đài vùng sông Loire và vùng Paris. Tôi lái xe đưa ông Xuân Diệu cùng gia đình anh Đặng Tiến đi thăm các nơi, ông Huy Cận bận công việc không thể đi cùng. Và thật cảm động những ngày cuối ông Xuân Diệu trao tôi tất cả bản thảo thơ ông để in bản sao và nhờ tôi công việc soạn Tự Điển Tình Yêu Bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Tôi đã bỏ ba năm để sắp xếp thơ Xuân Diệu thành Tự Điển, in tại Paris vì việc in trong nước vẫn chưa có điều kiện.

Suốt hơn nửa thế kỷ, tôi và anh Đặng Tiến thường điện thoại cho nhau. Anh viết gì mới anh thường gửi cho tôi. Tôi viết quyển Hồ Xuân Hương nàng là ai? anh Đặng Tiến đặt các câu hỏi để làm bài tựa dẫn nhập… Tôi dịch Odyssée, Iliade của Thi hào Homère ra thơ lục bát, anh trích dẫn giới thiệu trong một bài viết của anh. Tôi dịch thơ Đường Luật các nhà thơ chữ Hán Việt Nam như Tinh Sà Kỷ Hành, của Phan Huy Ích, Cúc Thu Bách Vịnh 100 bài thơ đối thoại giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, Bắc Hành Tạp Lục của Nguyễn Du, thơ Nguyễn Hành, Nguyễn Nễ, Hồ Sĩ Đống… Bản dịch ra thơ lục bát Thần Khúc của Dante, Tiểu Thuyết Hoa Hồng của Guillame de Loris và Jean de Meun, Les Lusiades của Luis de Camões. Anh Đặng Tiến rất thành thật, anh nói anh chuyên môn về Văn chương Việt Nam hiện đại, văn học Việt Nam cổ điển bằng chữ Hán và các tác phẩm cổ điển nhân loại anh không biết nhiều.

Ngày sinh cháu thứ nhì Giáng Tiên, anh viết tặng tôi bài thơ:

Mừng ông, ông sướng như tiên,

Muốn tiên thượng giới gửi liền hai cô.

Muốn thơ vần chất ba bồ,

Muốn tiền vàng ngọc ra vô rần rần.

Mừng ông tôi lại tủi thân,

Muốn thơ hí hoáy gọt vần chẳng xong

Tuổi cao công nợ chất chồng,

Phù danh như ngọn cỏ bồng gầy hao

Bạn bè năm tháng tiêu hao,

Ôm đàn con dại cùng chờ tuổi sương.

Thương nhau lỡ lối lạc đường,

Nhớ nhau chia khúc đoạn trường chờ nhau.

ĐẶNG TIẾN 1982

Năm 2011 tôi và anh Đặng Tiến cùng vào bệnh viện giải phẩu thay tĩnh mạch tim, tôi và anh cùng qua khỏi, để còn nói chuyện cùng nhau, trao đổi nhau những điều tri kỷ tri âm thêm 12 năm.

Và hôm nay năm 2023 anh lại vào bệnh viện giải phẫu dạ tràng, không thành công và anh đã ra đi.

Nhớ anh hơn nửa thế kỷ cùng anh chia sẻ những buồn vui văn chương. Nhớ anh “Nhớ nhau chia khúc đoạn trường chờ nhau”.

Paris 18-4-2023

N.U

Nguồn: Đông Tác

Comments are closed.