Roulette Đỏ: Một Câu chuyện của Người Trong cuộc về Của cải, Quyền lực, Tham nhũng, và sự Trả thù ở Trung Quốc Ngày nay (kỳ 9)

Thẩm Đống (Desmond Shum)

Bản tiếng Việt do Nguyễn Quang A dịch

CHƯƠNG CHÍN

MẶC DÙ VĨ HỒNG và TÔI ĐÃ sống cùng nhau từ cuối mùa hè 2002, chúng tôi chưa kết hôn. Chúng tôi thay đổi điều đó vào 17 tháng Giêng 2004, khi chúng tôi chính thức đăng ký như một cặp tại Hồng Kông. Vĩ Hồng hoãn lễ cưới, muốn chắc chắn về tuổi thọ của hôn nhân trước khi chúng tôi ra công khai. Nhưng sau một năm cô bước vào phương thức lập kế hoạch.

Về phần mình, tôi đã không ép cho một lễ cưới hay cho sự kết hôn. Vĩ Hồng trong những ngày đó có một tiếng nói lớn hơn tôi trong mối quan hệ của chúng tôi và tôi để bản thân mình được nhiệt tình của cô kéo theo.

Vĩ Hồng biết chuỗi Four Seasons (Bốn Mùa) đang xây dựng một khách sạn ở Hồng Kông và rằng nó dự kiến mở cửa trong mùa thu năm 2005. Cô đã đặt cuộc tiếp khách của chúng tôi cho tháng Mười 2005, hai mươi mốt tháng sau khi chúng tôi chính thức là vợ chồng, và không tiếc chi phí. Cô đã phỏng vấn rất nhiều nhà lập kế hoạch lễ cưới, người cắm hoa, và đầu bếp và nghiễn ngẫm danh sách của các nhà nhiếp ảnh khi cô tập hợp một đội tuyệt hảo. Cô đưa chúng tôi đến các lớp khiêu vũ và, cho nhạc, đã đặt cái có vẻ như một dàn nhạc đầy đủ. Cho áo dài cô dâu, Vĩ Hồng đã bay sang studio của nhà thiết kế Vera Wang ở New York để đo và may. Tôi mặc một bộ tuxedo đen của Tom Ford. Vĩ Hồng cũng dành nhiều ngày cho quần áo của cha mẹ cô, bao bọc tính tỉnh lẻ của họ trong quần áo lộng lẫy.

Vào một tối Thứ Bảy tháng Mười 2005, một tháng sau khi khách sạn mở cửa, chúng tôi tổ chức tiệc cưới của chúng tôi. Cô Trương đã đến từ Bắc Kinh, trong vai trò của bà như mẹ nuôi của Vĩ Hồng. Việc này đã làm mẹ đẻ của Vĩ Hồng xù lông, người vào một thời điểm đã đả kích con gái bà vì mê mẩn Cô Trương. “Mẹ là mẹ thật của con!” bà la lên.

Cha mẹ tôi đã ở đó cùng với các bạn học từ Queen’s College và một nhà điều hành chương trình MBA mà tôi đã dự ở Hồng Kông. Tổng cộng, khoảng hai trăm người đã dự.

Vĩ Hồng và tôi đã quyết định chống lại một buổi lễ ở Bắc Kinh bởi vì chúng tôi muốn tránh các vấn đề về mời ai, ai ngồi cạnh ai, ai là một cô phù dâu hay phù rể, mà bàn của họ sẽ gần nhất với bàn chúng tôi. Chúng tôi đã không thích tiết lộ các mối quan hệ của chúng tôi cho những người được mời khác và chúng tôi không muốn các khách mời không thoải mái trong việc phơi bày mối quan hệ của họ với chúng tôi. Ở phương Tây, một đám cưới như của chúng tôi sẽ là một sự kiện, một cơ hội cho mọi người để thấy và được thấy. Nhưng ở Trung Quốc, nơi thông tin được giữ chặt và nỗi sợ hãi thấm vào hệ thống, chúng tôi phải cẩn thận. Ở Trung Quốc, các mối quan hệ tạo thành nền tảng của cuộc sống; chúng tôi đã không muốn tiết lộ các mối quan hệ của chúng tôi cho các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng hay cho công chúng nói chung.

Nghi lễ Hồng Kông đến vào một trong những thời gian hạnh phúc nhất của cuộc hôn nhân của chúng tôi. Vĩ Hồng đã hết sức cố gắng để giúp biến tôi thành ai đó người có thể phát đạt trong hệ thống Trung Quốc. Và chúng tôi đã ổn định vào một hoạt động rất thành công.

Tiệc chiêu đãi của chúng tôi được biên đạo một cách hấp dẫn và kỹ càng để vẽ chân dung chúng tôi như một cặp hoàn hảo, hơn hẳn theo mọi cách. Nhưng sau hành vi ngông cuồng đó, chúng tôi đã chọn chống lại một tuần trăng mật. Chúng tôi có nhiều việc phải làm ở Bắc Kinh.

Công việc chúng tôi làm cùng nhau đã quyến rũ. Vĩ Hồng và tôi ở giữa một dự án mà sẽ trở thành một trong những thành tựu cao nhất của sự nghiệp của chúng tôi. Nguồn gốc của nó trộn khả năng cầu may, sự may mắn, các mối quan hệ, và công việc siêng năng mà đã xác định cuộc sống của chúng tôi ở Trung Quốc lúc đó.

Tôi đã viết trước rằng chúng tôi có ý định sử dụng guanxi (quan hệ) của chúng tôi để làm cái gì đó đặc biệt ở Trung Quốc. Và chìa khóa để làm việc đó là đất. Mọi người đã biết rằng Vĩ Hồng thân thiết với Cô Trương, như thế chúng tôi thường được giới thiệu các thương vụ. Chúng tôi tốn hàng tuần theo đuổi vô vọng cho các dự án ở tỉnh Sơn Đông quê hương của Vĩ Hồng. Tại Nhật Chiếu (Rizhao), một thành phố bẩn thỉu trên bờ biển Hoàng Hải, chúng tôi gặp thị trưởng, người đã giới thiệu cho chúng tôi một miếng của một sân bay hoàn thành một nửa. Tại một nhà máy điện được hoàn thành một phần, các quan chức chính quyền đã uống với chúng tôi nhiều đến mức một người tham dự đã ngã sấp mặt vào một rãnh nước.

Vĩ Hồng đã sắc sảo đối với đầu tư, tính rằng gốc rễ của cô ở Sơn Đông sẽ đảm bảo thành công. Nhưng tôi lưu ý rằng rất nhiều chỗ đang phát triển các cảng container và nhà máy điện. Cạnh tranh đã gay gắt và lợi nhuận ít ỏi; tôi hình dung nó là cuộc đua xuống đáy, như thế tôi đã thuyết phục cô hoãn lại.

Quay lại Bắc Kinh chúng tôi đã thử chiếm được một miếng đất để xây dựng nhà ở cao cấp. Trong năm 2001, Vĩ Hồng bắt đầu nuôi dưỡng một người có tên là Sun Zhengcai (Tôn Chính Tài), người lúc đó là bí thư Đảng của Quận Thuận Nghĩa (Shunyi) trong góc đông bắc của thủ đô. Giống Vĩ Hồng, Tôn sinh ra từ nông thôn Sơn Đông. Tôn là một nhà lãnh đạo tự nhiên; ông có khả năng ăn nói. Với lông mày cong và một cái nhìn thẳng chằm chằm, Tôn không đặc biệt đẹp trai nhưng toát ra một sự tự tin hòa nhã mà làm cho ông rất thành công. Cha mẹ ông là các nông dân, không phải là thành viên của giới quý tộc đỏ. Ông đã leo lên chiếc thang của Đảng nhờ làm việc siêng năng và sự thông minh.

Sau đại học ở Sơn Đông, Tôn làm việc sau đại học ở Bắc Kinh. Không giống nhiều quan chức Trung Quốc những người giao bài tập về nhà của mình cho các cấp dưới làm hộ, ông đã tự mình viết luận văn thạc sĩ của mình. Tiếp sau sự tốt nghiệp của ông trong năm 1997, Đảng phân cho ông chức vụ bí thư Đảng tại một viện nghiên cứu gắn với Bộ Nông nghiệp. Từ đó, ông chuyển đến vị trí chóp bu của chính quyền Quận Thuận Nghĩa ở Bắc Kinh. Trong tháng Hai 2002, ông trở thành bí thư Đảng của Thuận Nghĩa, một chức quyền lực hơn nhiều.

Tôn đến Thuận Nghĩa đúng khi Trung Quốc mở khu vực bất động sản cho đầu tư tư nhân và quận đã chuyển từ các lô đất trồng rau và các vườn quả thành một cộng đồng phòng ngủ của thủ đô. Tiếp giáp với Sân bay Quốc tế Thủ đô Bắc Kinh, Thuận Nghĩa trở thành một địa điểm ưa thích cho các cộng đồng có cổng, ban đầu làm chỗ ở cho các doanh nhân nước ngoài và các nhà ngoại giao sống với các trợ cấp nhà ở béo bở, không lâu sau là những người Trung Quốc mới giàu tiếp theo.

Với tư cách quận trưởng và sau đó bí thư Đảng Cộng sản ở Thuận Nghĩa, Tôn đã phân phát các dự án bất động sản cho những người ông cần như các đồng minh. Ông đã cho Vĩ Hồng và tôi một miếng đất bởi vì quan hệ của chúng tôi với nhà Ôn. Ông cũng đã chấp nhận sự bán đất cho các họ hàng của Tằng Khánh Hồng (Zeng Qinghong), phó chủ tịch Trung Quốc một thời và một đồng minh thân cận của Tổng bí thư Đảng và chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân. Muộn hơn, khi Tôn bị thanh trừng trong một vụ tham nhũng nổi tiếng, Đảng cáo buộc ông nhận hối lộ. Tôi không nghĩ thế. Nó đã giống một sự trao đổi hơn. Tôn đã phân các lô đất như các ưu ái cho những người mà đến lượt tạo thuận lợi cho sự lên của ông. Trong tháng Năm 2002, Tôn được cất nhắc khỏi Thuận Nghĩa lên một chức như tổng thư ký [secreetary-general: như chánh văn phòng] của ủy ban Thành ủy Bắc Kinh – một chức tương đương thứ trưởng. Ông đã bước vào hạng gaogan (cao cán).

Vĩ Hồng và tôi đã bị ấn tượng bởi tài tháo vát và khả năng của Tôn để vạch con đường thăng tiến của ông. Vĩ Hồng tin rằng Tôn có tiềm năng vô hạn và đã thử ở gần ông. Ngoài mảnh đất, Tôn đã giúp Vĩ Hồng được sự chấp thuận để gắn biển số phù phiếm của chúng tôi vào xe Audi của cô.

Tổng thư ký của thành Ủy thủ đô là một việc làm thách thức. Các khách hàng của bạn là các tổ chức mức quốc gia như các bộ quốc phòng, an ninh nhà nước, thương mại, và ngoại giao. Họ có các đòi hỏi và bạn phải giữ họ vui vẻ. Về mặt tích cực, bạn có sự tiếp cận không bị ràng buộc đến các đòn bẩy quyền lực. Trong khi việc làm bị áp lực cao, nó cũng có thể có phần thưởng cao.

Tôn đã không thiếu tham vọng hay sự tự trọng. Trong một giai đoạn tương đối ngắn, ông đã đi từ cái về cơ bản là một chức vụ học thuật ngõ cụt tại Bộ Nông nghiệp, đến quản lý một quận với hơn 1 triệu dân, đến đóng một vai trò trung tâm ở thủ đô Trung Quốc.

Vào đầu năm 2003, chúng tôi chưa phát triển mảnh đất Thuận Nghĩa, cho nên chúng tôi phải từ bỏ các quyền của chúng tôi đối với nó dưới quy tắc mới nói rằng các nhà phát triển cần di chuyển nhanh hơn để phát triển lô đất của họ. Những người ngoài tin rằng việc kinh doanh bất động sản ở Trung Quốc là một giấy phép để in tiền. Họ không biết về các thách thức làm cho nó rất rủi ro. Nó bị điều tiết hết sức và những thay đổi chính sách đến theo các làn sóng không thể tiên đoán nổi.

Mặc dù Tôn đã đi tiếp từ Thuận Nghĩa, chúng tôi có một entrée (quyền gia nhập) vào quận và chúng tôi đã luôn luôn được bao gồm trong danh sách mời cho các buổi họp mặt quan trọng do chính quyền địa phương tổ chức. Tại tiệc Tết nguyên đán của Thuận Nghĩa trong năm 2003, cái gì đó diễn ra đã khiến chúng tôi suy nghĩ. Bình thường, đấy là những công chuyện an ủi: bí thư quận Ủy nói vài lời; mọi người nâng cốc chúc tụng, thưởng thức nhiều món ăn, và đi về nhà qua cái giá lạnh cuối đông. Nhưng lần này ông trùm quận, một người địa phương cộc cằn có tên Lí Bình (Li Ping), đã trở chiều khỏi kịch bản. Hướng các bình luận của ông tới các đại diện của sân bay Bắc Kinh, tiếp giáp quận của ông, Lí đã cảnh báo cay độc rằng nếu sân bay “vượt qua làn ranh đỏ của chúng tôi,” ông sẽ chặn kế hoạch của nó để mở rộng. “Các vị phải đến với tôi đầu tiên,” Lí nói, mặt đỏ bừng vì rượu.

Đấy đã là một thời hoang dã ở Trung Quốc với các văn phòng chính quyền ganh đua nhau vì đất, nguồn lực, và các giấy phép – tất cả chúng, vì sự tăng trưởng chóng mặt của Trung Quốc, đã có nghĩa là tiền. Các công ty điện thoại sở hữu nhà nước dỡ bỏ các đường dây của nhau, mặc dù, về mặt kỹ thuật, chúng đều do nhà nước sở hữu. Các nhà quan liêu triển khai bọn côn đồ để đánh nhau với bọ côn đồ khác về các quyền để phát triển bất động sản. Các nhà sản xuất xe bus nganh đua cử các băng đảng ngang các ranh giới tỉnh để bắt cóc các kẻ thù của họ. Đã không có bí mật nào rằng chính quyền quận Thuận Nghĩa ghét sân bay kế cạnh và quyết tâm để cản trở các kế hoạch mở rộng của nó. Vĩ Hồng và tôi tự hỏi liệu chúng tôi có thể có một vai trò trong việc dàn xếp một cuộc hưu chiến.

Vĩ Hồng đã ráp lại câu chuyện hậu trường. Hai năm trước đó, trong tháng 2001, Ủy ban Olympic Quốc tế trao cho Trung Quốc tổ chức Olympics 2008, các dự án tái phát triển lóe lên khắp thủ đô. Các dự án nằm ngủ từ lâu đột nhiên trở nên khả thi khi Bắc Kinh ganh đua với New York, Paris, và London để xây dựng các biểu tượng kiến trúc riêng của nó, trong số chúng là trụ sở đồ sộ, tốn 700 triệu $ cho Truyền hình Trung ương Trung Quốc, trụ sở media lớn nhất và đắt nhất trên thế giới.

Sân bay Bắc Kinh là tự nhiên cho sự tái phát triển, vì nó sẽ là cổng vào cho các Trò chơi Olympic. Kiến trúc sư Anh lừng danh Norman Foster đã tham gia thiết kế một nhà ga bằng thép và bọc kính gây kinh ngạc trên đỉnh với một mái gợi lại những vảy của một con rồng. Ngoài việc phát triển nhà ga hành khách mới, chính phủ cũng thông qua những kế hoạch để mở rộng kinh doanh vận tải hàng hóa của sân bay. Sân bay không chỉ vận tải mọi người, chúng cũng chuyên chở hàng hóa, và năng lực xử lý hàng hóa của sân bay Bắc Kinh đã rất cần nâng cấp.

Bộ Đất đai và Tài nguyên đã chấp thuận một kế hoạch đưa trung tâm logistics sân bay đến tận làn ranh đỏ của Thuận Nghĩa. Thuận Nghĩa đã chống lại bằng việc cho phép tiến hành xây một đường cao tốc dọc ranh giới đó, như thế rào sân bay lại. Vĩ Hồng biết được rằng chính quyền Thuận Nghĩa đang lên kế hoạch cũng đặt các nhà kho ở bên kia của đường cao tốc, tạo ra một khu vực logistics cạnh tranh. Cô nghĩ ra một ý tưởng: Vì sao không bỏ xó đường cao tốc và kết hợp vùng hàng hóa của sân bay với vùng của Thuận Nghĩa để tạo ra một trung tâm khổng lồ và hiệu quả hơn nhiều cho việc vận tải các sản phẩm vào và ra khỏi Trung Quốc? Đấy sẽ là một trung tâm vận chuyển hàng hóa đường không với các xe nâng hạ rì rầm đây và đó, liên kết các nhà kho, các trung tâm xử lý xuất khẩu và nhập khẩu, và các năng lực kiểm dịch cùng với an ninh nghiêm ngặt. Hiển nhiên, để thực hiện tầm nhìn này chúng tôi phải thuyết phục sân bay và Thuận Nghĩa chấm dứt chiến tranh của họ.

Chúng tôi bắt đầu tìm hiểu những người chơi chính: bí thư Thuận Nghĩa, Lí Bình, và tổng giám đốc sân bay, Lí Bồi Anh (Li Peiying), người bất chấp có cùng họ nhưng không phải họ hàng.I Chúng tôi cần hình dung ra cái gì có thể thúc đẩy họ làm việc với nhau và với chúng tôi.

Lí Bồi Anh là một huyền thoại ở sân bay. Ông bắt đầu như một cảnh sát khu vực tại sân bay và trở thành cảnh sát trưởng của cảnh sát sân bay trước khi chuyển vào phòng điều hành. Mọi ngày đều mặc một bộ đồ xanh thẫm, hai cỡ quá lớn, và một áo sơ mi trắng, Bồi Anh đi với một chân khập khiễng do một cú ngã sớm hơn trong đời. Nhưng bệnh tật đã không làm chậm ông lại. Ông là gã có thể-làm, người rốt cục vận hành không chỉ sân bay Bắc Kinh mà cả một công ty sở hữu ba mươi sáu sân bay khác khắp Trung Quốc.

Bồi Anh (Peiying) đi ngang dọc Trung Quốc trong một chiếc máy bay riêng, chen lên đầu các máy bay chở khách quốc tế khi ông cất cánh từ Bắc Kinh. “Sếp Lí sẵn sàng để bay,” tiếng gọi từ tháp kiểm soát vang lên khi máy bay phản lực của Lí len quanh các máy bay thân to lên trước đường băng.

Bồi Anh luôn đề cao bản thân mình. Ông đã phóng đại huyền thoại của ông bằng việc từ chối một lời mời ăn cơm với cảnh sát trưởng Bắc Kinh, không nhất thiết là một nước đi khôn ngoan. Tuy nhiên, với tư cách một lãnh đạo của khoảng bốn mươi ngàn nhân viên, Bồi Anh đã duy trì một bầu không khí người-của-nhân dân. Ông được yêu mến ở sân bay vì nâng lương và vận hành nó giống một doanh nghiệp thật.

Bồi Anh dàn xếp việc bay vào Bắc Kinh cho tất cả những người có ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mỗi lần một người nặng ký chính trị hạ cánh, Bồi Anh sẽ ở trong phòng tiếp đón. Ông sử dụng thời gian mặt đối mặt này với lợi thế lớn. Với tư cách thủ trưởng chóp bu ở nhiều sân bay đến vậy, Bồi Anh kiểm soát sự tiếp cận đến những sự kinh doanh độc quyền. Ông chia lát chúng như chia bánh, phân phát chúng cho các họ hàng của các quan chức chính phủ chóp bu. Ông đã giúp gia đình chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân chiếm được một giấy phép bán các sản phẩm miễn thuế ở Bắc Kinh qua một hãng gọi là Sunrise. Đấy là một mô hình cho kiểu kinh doanh mà quý tộc đỏ thích. Sunrise chia sẻ kinh doanh miễn thuế tại sân bay Bắc Kinh với một doanh nghiệp nhà nước, Tập đoàn Miễn Thuế Trung Quốc (China Duty Free Group). Các độc quyền bộ đôi (duoply) này đã là một biểu tượng của nền kinh tế Trung Quốc, với một gia đình đỏ kiểm soát một hãng và một đơn vị do nhà nước vận hành kiểm soát hãng kia.

Bồi Anh đã giám sát những sự thay đổi to lớn ở sân bay – xây dựng nhà ga mới và đường băng mới với một hệ thống tàu điện ngầm tốc hành nối sân bay với trung tâm thành phố Bắc Kinh. Ông là người sân bay cần lúc đó – một lãnh đạo mạnh với một tầm nhìn. Nhưng như thường đúng ở Trung Quốc, một khi bạn độc quyền quyền lực vào ban ngày, không có sự kiểm soát nào đối với bạn vào ban đêm. Bồi Anh có thói quen cờ bạc. Trong mười bốn chuyến đến cựu thuộc địa cũ Bồ Đào nha Macao, một bán đảo ở dưới bụng nam của Trung Quốc, ông được cho là đã mất 6 triệu $ tiền của nhà nước khi chơi baccarat. Ông đã bay đến lãnh thổ Hoa Kỳ Saipan ở tây Thái Bình Dương và đánh bạc suốt ba ngày không ngủ. Ông đụng độ với chính phủ muộn hơn, chứng minh rằng những người sa ngã ở Trung Quốc thông thường là những người có năng lực nhất. Nhưng khi lần đầu tiên tôi bắt gặp ông, ông ở trên đỉnh của trò chơi của ông.

Chúng tôi có cái gì đó Bồi Anh muốn – sự tiếp cận đến nhà Ôn. Trong nhiều năm, Bồi Anh đã bị kẹt ở mức một tổng giám đốc trong hệ thống thứ bậc chính quyền. Ông đã mong muốn thăng tiến lên một nấc thứ trưởng. Uy thế là một nhân tố. Nếu ông trở thành thứ trưởng, Bồi Anh sẽ vượt tất cả những người đứng đầu sân bay khác của Trung Quốc. Sự cất nhắc lên hàm thứ trưởng sẽ cũng có nghĩa là Bồi Anh sẽ bước vào hàng gaogan (cao cán). Như thế Bồi Anh có động cơ để làm việc với chúng tôi, gặp Cô Trương, và thỏa thuận với Thuận Nghĩa.

Không giống Bồi Anh, ông sếp của Thuận Nghĩa, Lí Bình, đã không khao khát một sự cất nhắc. Chỉ cao 1,7 mét với một cái bụng được biết đến như một laobandu, hay bụng phệ của sếp, Lí, ngày này qua ngày khác, mặc đồng phục của giới viên chức Cộng sản: quần xanh và áo sơ mi trắng, dài tay mùa đông, ngắn tay mùa hè. Trong khi Bồi Anh thích đi vào trung tâm thành phố để ăn với Cô Trương hay nhai sushi tại Khách sạn Kunlun hình hộp trong Quận Triều Dương (Chaoyang), việc khiến Lí Bình ngay cả để rời Thuận Nghĩa là một thử thách. Đối với ông, trung tâm Bắc Kinh là lãnh thổ nước ngoài. Tôi có thể đếm trên một bàn tay số lần ông đánh bạo vào thành phố để ăn với chúng tôi. Những lần duy nhất ông vui lòng làm vậy đã là khi Cô Trương trực tiếp triệu ông đến.

Tận đáy lòng, Lí Bình là một nông dân từ những ngày khi Thuận Nghĩa là một vùng nông thôn hẻo lánh. Trong quận quê ông, ông cảm thấy an toàn. Với chỉ một cú điện thoại, cảnh sát Thuận Nghĩa sẽ dẹp đường cho ông hay cho các khách của ông. Tất cả mọi người đều kính trọng ông; ông ấy là người đàn ông.

Ở Thuận Nghĩa, Lí nổi tiếng về tính hiếu khách của ông. Ông đặc biệt tự hào về khả năng uống của ông. Tất cả chúng tôi đều rất nghiêm ngặt về khả năng của chúng tôi đối với cồn và khả năng của Lí khoảng 0,8 lít, và đó là Mao Đài 53%. Ông là tay chuyên nghiệp khiến các đối thủ của ông say gục hơn là ông – một kỹ năng trong bộ máy quan liêu Trung Quốc, nơi uống rượu và ăn chiếm trung tâm sân khấu.

Các mối quan tâm của Lí Bình khác với của Bồi Anh. Ông là một sản phẩm của Thuận Nghĩa, đã ở suốt sự nghiệp của ông ở đó, và sẽ về hưu ở đó. Họ hàng của ông tản mác khắp bộ máy quan liêu quận. Ông muốn củng cố một di sản mà sẽ mang lại sự kính trọng cho ông trong những năm vàng son của ông như một danh nhân địa phương, một tuhuangdi (thổ hoàng đế) hay “hoàng đế đất” theo cách nói hiện thời. Ông muốn một thắng lợi mà ông có thể khoe khoang. Khi muộn hơn chúng tôi cãi nhau về sự chấp thuận cho cảng mở dựa vào sân bay đầu tiên ở Trung Quốc, chẳng hạn, Lí Bình đã có một cảm giác tuyệt vời về thành tựu. “Chúng ta là đầu tiên,” ông la lối tại buổi tiệc được tổ chức để ăn mừng sự kiện. Lí đã hăng hái làm cho các thứ xảy ra trong quận của ông, càng lớn càng tốt.

Vĩ Hồng đề xuất ý tưởng hình thành một liên doanh, gọi là Airport City Logistics Park (Công Viên Logistics Thành phố Sân bay), mà sẽ gồm phần hùn của Sân bay, Quận Thuận Nghĩa, và hãng của Vĩ Hồng, Đại Dương. Chúng tôi chiếm 40 phần trăm, với sân bay nhận được 45 phần trăm, và 15 phần trăm còn lại thuộc về Thuận Nghĩa. Tin rằng thương vụ sẽ thiết lập một mối quan hệ với gia đình thủ tướng, Lí Bồi Anh đã đồng ý rằng sân bay sẽ chiếm ít hơn một nửa của liên doanh. Dưới sự dàn xếp đó, ông được bổ nhiệm làm chủ tịch, với tôi như CEO.

Vĩ Hồng đã chẳng bao giờ cần nói rằng nhà Ôn quan tâm đến việc đầu tư. Vĩ Hồng để ngôn ngữ cử chỉ và thái độ của Cô Trương đối với chúng tôi nói điều cần thiết. Tại các bữa ăn với cả hai ông Lí, Cô Trương đã khen ngợi Vĩ Hồng và tôi và đưa ra những lời bình luận chung về kết quả mà tất cả chúng ta phải “đều hợp tác và xây dựng sự tin cậy lẫn nhau.” Bất kể ai bên trong hệ thống của Trung Quốc sẽ thật sự hiểu thông điệp và biết vì sao bà ăn cơm với họ và vì sao bà mang chúng tôi đi cùng.

Đề xuất sở hữu của chúng tôi đảm bảo rằng không một mình cổ đông nhà nước nào kiểm soát nhiều hơn một nửa dự án. Đó là điều quyết định. Nếu một công ty nhà nước chế ngự liên doanh, nó sẽ chẳng bao giờ thành công. Ý tưởng của chúng tôi mới và cần đến sự ban phước của nhiều bộ đến mức không công ty nhà nước nào muốn đảm nhận. Các bộ và các cục liên quan đến hải quan, kiểm dịch, giao thông, hàng không, hạ tầng, lập kế hoạch nhà nước, và các tài sản nhà nước đều có một tiếng nói. Chúng tôi cần lobby tất cả chúng. Việc giữ hai đối tác nhà nước của chúng tôi mỗi bên đều dưới một nửa có nghĩa rằng về các quyết định lớn Vĩ Hồng và tôi sẽ có sự linh hoạt đáng kể và sẽ bỏ lá phiếu quyết định.

Tại bữa ăn mừng việc ký liên doanh, Lí Bình đứng lên để nói một lời chúc khác. Lần này các lời đe dọa của ông được thay thế bằng lời khen. “Sân bay và chính quyền quận sẽ chẳng bao giờ ký một hiệp định nếu không có quý vị,” ông nói, chỉ vào Vĩ Hồng và tôi. “Quý vị là mô mềm kết nối chúng tôi lại.”

Chúng tôi có khả năng đóng vai trò đó bởi vì Cô Trương nhưng cũng bởi vì chúng tôi đã có một tầm nhìn. Không ai khác đã có thể thành công việc này, Lí Bình nói. Chúng tôi tham gia với tiền, know-how, và sự hậu thuẫn chính trị. Chúng tôi mang với mình các thứ mà không doanh nghiệp sở hữu nhà nước nào, không nhà kinh doanh tư nhân thuần túy nào, và không công ty nước ngoài nào có thể cung cấp. Với một sự đình chiến được thống nhất, công việc khó nhọc bắt đầu.

Việc kết hợp đất của sân bay và của Thuận Nghĩa đã cho chúng tôi một mảnh đất lớn hơn hai dặm vuông. Chúng tôi vạch ra các kế hoạch để xây dựng 1 triệu mét vuông nhà kho và bảy dặm đường và đường ống. Các nhà máy đã nằm trên đất cùng với ba làng. Đầu tiên chúng tôi phải giải phóng các công nhân và dân cư trước khi bất cứ thứ gì có thể xảy ra.

Tôi chẳng có ý tưởng nào tôi đang làm gì. Tôi chưa hề xây dựng bất cứ thứ gì, nói chi đến một trung tâm logistics tại một sân bay đô thị lớn mà cần sự tách biệt nghiêm ngặt giữ các hàng nhập khẩu miễn thuế quan và các hàng phải chịu thuế quan. Cũng có những mối lo an ninh nữa. Tôi đã tới xem các sân bay quanh châu Á và thế giới. Tôi đã đi Frankfurt, Seoul, Amsterdam, Hồng Kông, và các cơ sở khác để tìm sự hướng dẫn. Tôi đã xem xét khả năng đưa một đối tác nước ngoài với kinh nghiệm trong ngành này vào. Tôi đã bỏ ý tưởng đó khi vài người đưa ra rất ít vốn nhưng đòi phần hùn rất lớn.

Tôi cần học mọi thứ từ đầu. Các nhà kho phải cao bao nhiêu? Khoảng cách lý tưởng giữa các cột là bao nhiêu để cho phép xe nâng hạ thao tác? Chiều cao của một sàn chất tải là bao nhiêu? Độ rộng của các đường? Tôi có một giấc mơ khổng lồ trước mặt mình, nhưng trong mùa đông 2004, toàn bộ một năm sau khi chúng tôi nghĩ ra sơ đồ, chúng tôi vẫn chưa động thổ. Và việc xây dựng thậm chí không là phần khó nhất. Việc nhận được các sự chấp thuận còn đau khổ hơn rất nhiều.

Để xây dựng Thành phố Sân bay của Bắc Kinh, chúng tôi cần bảy bộ khác nhau thông qua hầu như mọi thứ chúng tôi lập kế hoạch. Và bên trong các bộ này có tầng tầng lớp lớp sự cấp phép. Tổng cộng, chúng tôi đã cần 150 con dấu khác nhau, các con dấu Trung Quốc được dùng thay cho chữ ký, và mỗi con dấu là một câu chuyện. Đã cần đến ba năm chỉ để bắt đầu xây dựng và thậm chí sau đó đã có vô số rào cản. Tôi đã cử người đóng ở bên ngoài văn phòng của các quan chức mà chúng tôi cần con dấu của họ. Tôi cử người đến các bệnh viện để có được con dấu của các quan chức nằm liệt giường. Các nhân viên của tôi đợi hàng tháng cầu cạnh ân huệ với các quan chức, mang cho họ chè ngon, làm các việc vặt của họ, đưa họ đến các sauna, chăm lo cho các bà vợ và con cái họ. Một trong các nhân viên của tôi đã đưa nhiều người đi tắm hơi đến mức da của anh ta bắt đầu bị tróc ra.

Các bạn tại chính quyền Thuận Nghĩa cười vào tôi. Không có cách nào mà một đại diện từ một hãng nhà nước sẽ làm câu chuyện không đâu vào đâu này, họ nhận xét, chỉ để khiến một dự án chuyển động. Trong các văn phòng nhà nước, mọi người đều bấm giờ giết thời gian, họ nói. Chẳng ai thực sự lo liệu dự án có chạy hay không. Nhưng không phải chúng tôi; đối với Vĩ Hồng và tôi, đấy là một nỗ lực kinh doanh. Đấy là cơ hội lớn của chúng tôi.

Để tận dụng nó tối đa, tôi đã phải cúi bò, cầu xin trước mặt những gã này bất kể cấp bậc của họ. Chắc chắn, đó là việc làm mất nhân phẩm. Và ngoài ánh hào quang nhợt nhạt, nhà Ôn đã cung cấp ít thứ khác. Cô Trương, Vĩ Hồng, và tôi đôi khi ra đi với một bộ trưởng hay thứ trưởng để lobby cho sự giúp đỡ, nhưng Cô Trương chẳng bao giờ ra lệnh. Bà hành động nhiều hơn như một nhân chứng, cam đoan cho năng lực của chúng tôi. Việc này khác với gia đình của chủ tịch Trung Quốc khi đó, Giang Trạch Dân. Các đại diện của ông đòi sự vâng lời. Nhưng bởi vì chồng bà không biết về sự kinh doanh của gia đình, Cô Trương đã không đủ khả năng để táo bạo như vậy. Bà để mọi người đọc giữa các dòng chữ.

Suốt dự án sân bay, tôi, giống tất cả các doanh nhân ở Trung Quốc, chú ý cực kỳ sát đến các chính sách kinh tế vĩ mô và tính thất thường chính trị của chính phủ trung ương. Mỗi lần chúng tôi xin một sự thông qua, đơn xin của chúng tôi phải chứng tỏ dự án phù hợp thế nào với các ưu tiên chính trị và kinh tế thay đổi của ĐCSTQ.

Thường, các thứ này là rất chủ quan. Nhưng chúng minh họa mọi khía cạnh lớn của nền kinh tế bị nhà nước kiểm soát, bất chấp tất cả lời nói về chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc. Bất kể dự án quan trọng nào ở Trung Quốc cần sự chấp thuận của một tổ chức gọi là Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, có văn phòng ở mọi mức chính quyền: trong các thành phố lớn, tất cả ba mươi hai tỉnh, và Bắc Kinh. Bất luận một công ty thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân, nếu nó muốn làm cái gì đó lớn nó cần sự ủng hộ của ủy ban. Để xây dựng trung tâm logistics của chúng tôi, chúng tôi cần đến sự thông qua từ các ủy ban này ở mọi mức. Và chúng tôi cần một sự tán thành từ Hội đồng Nhà nước, cơ quan chính phủ cao nhất nước.

Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia chịu trách nhiệm về Kế hoạch Năm Năm của Trung Quốc, một sự thoái lui về những ngày khi nền kinh tế của Trung Quốc được kế hoạch hóa và các giá cho mọi thứ do nhà nước quy định. Mặc dù Trung Quốc đã tiến hành những cải cách kinh tế quan trọng, những Kế hoạch Năm Năm đó vẫn quan trọng. Và mỗi mức của chính quyền Trung Quốc – kể cả nội các, các tỉnh, các thành phố, và các huyện – tất cả đều đề ra các Kế hoạch Năm Năm riêng của chúng, phù hợp với kế hoạch quốc gia. Với tư cách một CEO của một liên doanh liên quan đến một dựa án cơ sở hạ tầng lớn, tôi cần chứng tỏ, trong các đơn xin của tôi cho nhiều tầng nấc này, rằng dự án của tôi bám sát tinh thần của kế hoạch mới nhất như thế nào. Có một công thức để viết các đơn này. Bạn luôn bắt đầu với cái chúng tôi gọi là “một cái mũ,” là một sự gật đầu với tất cả các Kế hoạch Năm Năm của các tổ chức khác nhau có một tiếng nói trong dự án của bạn, và một bản luận văn dài về dự án phù hợp với các mục tiêu của họ như thế nào.

Một thách thức khác đối với chúng tôi là có được phép của Bộ Hải quan của Trung Quốc, mà quản lý nhập khẩu và xuất khẩu. Trong nhiều năm, thuế quan tạo thành phần lớn thu nhập của Trung Quốc, cho nên bộ có ảnh hưởng quá cỡ bên trong Đảng và chính phủ. Hải quan chịu trách nhiệm dựng lên các rào cản điều tiết được thiết kế để bảo vệ các công ty Trung Quốc khỏi sự cạnh tranh nước ngoài. Và chúng tôi xin sự chấp thuận để xây dựng một khu miễn thuế quan toàn diện, một sự phân biệt mà, lúc đó ở Trung Quốc, đã chỉ cho hai cảng biển và không sân bay nào khác.

Việc nhận được sự chấp thuận cho vùng này là vô cùng quan trọng cho tính sinh lời của sơ đồ của chúng tôi. Nếu dự án của chúng tôi có thể trở thành sân bay đầu tiên có được địa vị miễn thuế quan thì chúng tôi sẽ thu hút cầu bị dồn nén. Rất nhiều doanh nghiệp sẽ quan tâm đến việc bố trí trong khu chúng tôi. Hãy nghĩ về bảo trì máy bay. Nếu bạn có một khu miễn thuế quan, tất cả các phụ tùng, động cơ, và thậm chí máy bay có thể bay vào khu mà không phải trả thuế quan. Công việc được hoàn thành trong khu và máy bay sẽ khởi hành miễn thuế. Hãy nghĩ về việc lưu kho nữa. Các doanh nghiệp không muốn trả thuế quan về tất cả hàng hóa nhập khẩu tồn kho của họ ngay lập tức. Họ có thể sử dụng các kho ngoại quan của chúng tôi để chứa hàng hóa của họ và trả thuế quan chỉ khi họ cần đưa hàng hóa của họ vào Trung Quốc.

Trong quá khứ ở Trung Quốc, các khu hải quan khác nhau được thành lập cho các mục đích đơn nhất, một cho đậu nành và khu khác cho máy tính. Nhưng trong khu miễn thuế quan toàn diện mà chúng tôi đang lập kế hoạch, tất cả các sản phẩm có thể chảy qua khu theo cả hai chiều. Và vì Trung Quốc bao cấp hầu hết xuất khẩu của nó, một khi các nhà sản xuất chở hàng hóa vào trung tâm của chúng tôi, họ có thể ngay lập tức nộp đơn xin tiền (trợ cấp) từ nhà nước trước xa hàng hóa đến các khách hàng nước ngoài của họ. Chúng tôi cần tạo ra một chuyện kể để biện minh sự đột phá này.

Chúng tôi đã chuẩn bị một báo cáo liên kết dự án của chúng tôi với những cải cách cơ quan hải quan của Trung Quốc tiếp sau sự gia nhập của Trung Quốc trong năm 2001 vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các mối quan hệ của chúng tôi với gia đình Ôn cũng đóng vai trò vì chúng tôi cũng cần đến sự ban phước từ các bộ khác trong chính phủ trung ương nữa. Tất cả những đơn xin này đòi hỏi sự sáng tạo đáng kể về phía chúng tôi.

Ban đầu, tôi thuê CEO của một công ty mà ChinaVest đã đầu tư vào để quản lý dự án. Hãng của ông đã phát triển các nhà kho ở rìa đông nam của thủ đô, cho nên tôi nghĩ ông biết công việc và có các quan hệ bên trong Hải Quan và các bộ khác. Tôi trang bị cho ông một lái xe, một người tiếp tân, và một kế toán viên. Mỗi lần tôi đến thăm văn phòng, ông đều cười. Ông đứng lên từ bàn ông và cúi chào và khúm núm. Nhưng ông đã không thể khiến công việc được làm, cho nên tôi để ông đi.

Theo cách nào đó, Trung Quốc hơi khác với phần còn lại của thế giới. Tiền, tình dục, và quyền lực thúc đẩy mọi người. Vĩ Hồng và tôi có thể cung cấp sự tiếp cận đến quyền lực, nên chúng tôi cần cho ít tiền và dàn xếp ít tình dục hơn. Chúng tôi hiếm khi cho tiền mặt. Thay vào đó, chúng tôi phân phát các quà tặng: một bộ gậy đánh golf 10.000 $ ở đây, một đồng hồ 15.000 $ ở đó. Trên một chuyến đi Hồng Kông chúng tôi mua cả nửa tá đồng hồ giống hệt nhau từ Cửa hàng Carlson Watch ở khu quận mua bán trung tâm của Hồng Kông. Đấy là tiền lẻ đối với những người chấp nhận chúng. Nó không phải là sự hối lộ mà như một dấu hiệu của sự quý mến của chúng tôi.

Giống Cô Trương làm với gia tộc của bà, Vĩ Hồng kiểm soát ví tiền trong gia đình chúng tôi, và điều đó không thay đổi sau khi chúng tôi kết hôn. Trong khi tôi chịu trách nhiệm về việc lấp đầy hầu hết các vị trí trong công ty của chúng tôi, một nhà điều hành cô khăng khăng việc thuê trực tiếp là giám đốc tài chính (CFO) của chúng tôi. Ông ta phải là người của cô.

Khi chúng tôi bắt đầu sự chung thân của chúng tôi, Vĩ Hồng đã có nhiều vốn hơn tôi nhiều, cho nên là khá tự nhiên rằng tiền phải trong tên cô. Nhưng khi thời gian trôi đi và sự kinh doanh của chúng tôi tăng lên, vấn đề tiền nong trở thành một vấn đề tế nhị. Mỗi lần tôi mua, tôi phải nói với cô về nó và gửi hóa đơn đến văn phòng của CFO. Cô đã dùng tiền như một cách để kiểm soát mối quan hệ của chúng tôi. Về phần mình, tôi bị cuốn vào vấn đề thể diện mà tôi thấy khó đề cập vấn đề một cách trực tiếp. Tôi không tin rằng tôi phải hỏi cô để cho tôi sự kiểm soát ngang nhau về tài chính của chúng tôi. Tôi muốn cô nhường thẩm quyền đó một cách tự nguyện. Tôi không muốn nài xin. Chúng tôi đôi khi cãi vã về vấn đề này, nhưng nó đã chẳng bao giờ được giải quyết.

Chúng tôi tiếp rượu và cơm các mối tiếp xúc của chúng tôi trong các khách sạn quanh Bắc Kinh. Để tránh sự chú ý, chúng tôi chọn nơi gặp gỡ giống Khách sạn Bắc Kinh lôi thôi lếch thếch gần Quảng trường Thiên An Môn. Nó cung cấp sự riêng tư cần thiết và nhân viên quán ăn đều biết việc đó. Tầng trên cùng của khách sạn được chia thành các phòng ăn riêng. Vào mỗi buổi tối, ba hay bốn bộ trưởng và một nhúm thứ trưởng ăn tiệc trên tầng này. Khách sạn thuê hai người điều phối toàn thời gian để bố trí các khách, các món ăn, và kiểm tra để tránh bất kể ai đụng vào bất kể ai khác. Ai là chủ tiệc và đãi ai là một bí mật được giữ kín trong hệ thống nơi thông tin là rất quý báu. Toàn bộ công việc hoạt động như bộ máy đồng hồ.

Nhưng ngay cả khi chúng tôi nghĩ chúng tôi đã làm trôi chảy mọi thứ với các quan to, chúng tôi vẫn đối mặt với các vấn đề ở các mức thấp hơn. Các trưởng ban, các cục trưởng, và các trưởng bộ phận vận hành các phòng ban của họ như các lãnh chúa riêng. Họ có thể đưa ra cho bạn một ngàn lý do vì sao một sự chấp thuận bị dừng lại. Họ chẳng bao giờ từ chối thẳng thừng; họ chỉ bảo bạn hãy đợi. Họ gây ảnh hưởng nhiều đến mức họ được biết đến khắp hệ thống Trung Quốc như Băng đảng Trưởng Phòng hay Xử Trưởng Bang (Chuzhang Bang). Một trưởng phòng như vậy đã là Kuang Xin. Mọi người gọi ông là Ông nội Kuang.

I. Có 91 triệu người có họ Lí ở Trung Quốc.

Comments are closed.