Alex Sheal, The New York Times, ngày 18-2-2018
Hồng Anh dịch
Trung Trung Đỉnh. Ảnh: Colm Pierce.
“Anh ơi, anh nghĩ khi nào chúng ta mới có tự do?”, tiểu thuyết gia Trung Trung Đỉnh nhớ mình đã hỏi một trong những anh du kích ông đã chiến đấu bên cạnh suốt bảy năm trong rừng núi An Khê, ở Trung Bộ. “Khi cái này hoàn toàn mòn nhẵn,” người đồng chí trả lời, tay chỉ vào đôi dép lốp đang mang, “đôi dép Bác Hồ” bền nổi tiếng. “Chỉ khi đó chúng ta mới có tự do!”
Đó là một trong những kí ức chiến tranh mà ông Đỉnh nhớ lại với một nụ cười làm tỏa rạng quán ăn trên con phố Hà Nội bụi bặm, nơi chúng tôi đang ngồi. Thật vậy, bất chấp tất cả những hiểm nguy, hãi sợ và sự tàn phá khi ông miêu tả về những năm tháng đó, khi “bầu trời đầy ắp máy bay Mỹ”, khi “cái chết là điều bình thường”, bạn có cảm tưởng ông luyến nhớ cuộc sống đơn sơ trong rừng sâu. Dẫu sao, đó là tuổi trẻ của ông.
“Tôi vẫn còn giữ vài bức ảnh chụp tôi thời điểm đó. Tôi có một bộ râu bờm xờm, nhưng khuôn mặt tôi rất sáng. Ông khẽ lắc mái đầu 69 tuổi của mình như có vẻ băn khoăn. “Những năm tháng gian khổ nhất về sau mới đến”, ông thừa nhận, “đấy là khoảng thời gian sau năm 75”.
Ông Đỉnh là tác giả của nhiều tác phẩm kịch và tiểu thuyết, nhưng tiểu thuyết đầu tiên của ông, “Lạc rừng”, là tác phẩm chúng tôi đem ra thảo luận. Gần đây, cuốn sách đã được tái bản lần thứ 19, và nhiều người ở Việt Nam cho rằng đó là tác phẩm kinh điển về “Cuộc chiến Mỹ [tại Việt Nam]”, dù nó chưa bao giờ đạt đến lượng độc giả quốc tế như “Nỗi buồn chiến tranh”, một tác phẩm của người bạn và là “bạn rượu” [nguyên văn tiếng Việt của NYT] của ông, nhà văn Bảo Ninh.
Ông nhớ lại thời thơ ấu của mình một cách thân thương. “Khoảng thời gian từ 1949 đến 1959 là những năm tuyệt vời nhất đời tôi khi tôi vẫn còn ở làng quê,” ông nói. “Trong kí ức của tôi, đó là thời êm đềm nơi thôn dã. Chúng tôi đã trải qua những ngày đi bắt cá, bắt ve sầu, chăn trâu. Tôi là đứa trẻ nghịch ngợm, hái trộm trái cây và bắt trộm cá nhà hàng xóm”. Ông Đỉnh là người Vĩnh Bảo, Hải Phòng, thậm chí ngày nay vẫn còn là một vùng nông thôn hẻo lánh, nơi một khuôn mặt người nước ngoài sẽ thu hút những cái nhìn chằm chặp hiếu kỳ.
Hầu hết người thân của ông đều chết trong chiến tranh: một người anh rể bị giết trong trận ném bom miền Bắc đầu tiên của Mỹ, các anh em trai của ông hi sinh trước và sau khi ông nhập ngủ. Ông liệt kê gần như máy móc nhiều thành viên trong gia đình ông đã mất. “Lạc rừng” kể câu chuyện về Bình, một bộ đội chính qui Miền Bắc, bị mất liên lạc với trung đoàn của mình ở vùng rừng núi Trung Bộ, được cứu sống và sau đó kết nạp vào một nhóm du kích người dân tộc Bahnar đang chống Mỹ. Bình sống và chiến đấu bên cạnh người Bahnar trong nhiều năm, học tiếng nói và hòa nhập văn hóa của họ, trong khi phải ẩn núp tránh máy bay trực thăng chiến đấu của Mỹ và đặt bẫy chống quân thù. Nhưng tựa đề cuốn sách đã phản ánh sự bất ổn về “việc trở thành người bản địa.” Ông Đỉnh chỉ tay vào đầu mình, “Hắn bị lạc ở đây”.
“Câu chuyện bao nhiêu là thật?”, Tôi hỏi ông. Giống như nhân vật chính trong “Lạc rừng”, ông Đỉnh đã chiến đấu vai kề vai với người Bahnar từ năm 1968 cho đến khi chiến tranh kết thúc. “Đó là một tác phẩm tưởng tượng, dựa trên sự thật, ông giải thích. “Đó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi viết sau chiến tranh, kí ức vẫn còn sống động. Một số câu chuyện tôi kể trong cuốn sách rất gần với những gì đã xảy ra”.
Vào cuối buổi sáng, ông Đỉnh chia sẻ vài giai thoại về những năm tháng trong rừng. Một cuộc săn lợn rừng; những chuyện lấy cắp đồ ăn và vũ khí từ lính Mỹ đóng quân gần đó; và chuyện treo một cái dù nhảy trên ngọn cây cao nhất trong rừng như một lá cờ và đứng ngắm từ xa máy bay Mỹ ném bom vào đó. “Chỉ là để chọc họ thôi, anh thấy đó”, ông giải thích.
Tất cả những chuyện này, có phần hư cấu, là nét đặc biệt của tiểu thuyết.
Các nhân vật cũng nhảy ra từ đời sống thực. Đó là một người Bahnar xưa, trong truyện được gọi là “Già Phới”, một nhân vật theo lời kể của tác giả hình như không thể bị tên lửa, bom đạn đụng tới, nhờ thế nhiều lần thoát khỏi cái chết tưởng là chắc nịch. Và dĩ nhiên có cả Bin, chiến binh Bahnar dữ dội nhất, và người giám hộ của Bình, che chở và hướng dẫn anh.
Chúng tôi hỏi ông về nhân vật Kohler, một người Mỹ bị bắt giữ và bị đưa đi làm lao động như tá điền và đầy tớ cho người Bahnar trong tiểu thuyết. Nhân vật đó có thật không?
Ông Đỉnh giải thích rằng, cá nhân ông chưa bao giờ gặp bất kì người nào, có một vài lính Mỹ bị bắt và bị tống giam “vì những mục đích khác nhau”. Tuy nhiên, thông thường, các tù nhân chiến tranh như vậy thường được đưa về Hà Nội. Cảm hứng về một Kohler dễ sai khiến, lo sợ lại đến từ một cựu binh Mỹ ông gặp sau chiến tranh, tại một trong những chương trình trao đổi do hai nước tổ chức.
Không giống như “Nỗi buồn chiến tranh”, trong đó xung đột ảnh hưởng đến tất cả các phần của câu chuyện, phá hủy cuộc sống các nhân vật, trong tiểu thuyết của ông Đỉnh, nó giữ chức năng bối cảnh cho hành động. Ngoài vài cuộc chạm trán với lính Mỹ, và thỉnh thoảng có tiếng máy bay trinh sát trên không, cốt truyện tập trung vào việc hội nhập văn hóa Bahnar của Bình, mối gắn kết anh với cộng đồng, và những thách thức sinh tồn nơi rừng sâu. Thực ra, rừng, mặc dù có những hiểm nguy của nó, đã bảo vệ Bình và đồng đội ông khỏi cuộc chiến, đặc biệt che giấu họ khỏi lính Mỹ từ trên trực thăng và máy bay. Như ông Đỉnh viết: “Đôi khi rừng yên tĩnh đến mức chiến tranh không thể đánh thức nó dậy”.
Tuy nhiên, dù hành động trong “Lạc rừng” có xu hướng nhẹ nhàng, nhưng ông Đỉnh lại miêu tả những năm tháng chiến tranh của mình là những năm tháng đầy hãi sợ và bạo lực gần như thường trực. “Tôi nhập ngũ năm 17 tuổi, và không thực sự muốn chiến đấu. Nhưng thình lình tôi bị vây phủ bởi bom đạn và người chết khắp xung quanh”, ông nói. Trên đường ra tiền tuyến, ông bị sốt rét, và nằm trong một bệnh viện dã chiến ở Vùng Phi quân sự [DMZ] một thời gian ngắn. Ở đó ông gặp một thượng sĩ từ Gia Lai đến và tuyển ông vào chiến đấu với quân du kích trong Nam.
“An Khê lúc bấy giờ là nơi nguy hiểm nhất Việt Nam”, ông Đỉnh nói. “Chúng tôi không chỉ đối mặt với lính Mỹ, mà còn cả lính Úc, và gay cấn nhất là lính Nam Hàn, vốn là những binh sĩ dạn dày kinh nghiệm và thô bạo nhất trong rừng. Mỗi ngày có ít nhất hai hoặc ba trận đánh. Cái chết là điều rất thường. Những năm 68-69 là tồi tệ nhất, Mỹ ném bom không ngừng. Thỉnh thoảng, khi những chiếc máy bay cuối cùng vừa đi, bạn thấy mình mắc kẹt trong chùm rễ của những cái cây khổng lồ mà bom đã bật lên”.
Ông kể, trong nhiều năm sau, chiến tranh vẫn còn ám ảnh ông. “Tôi nghe thấy cái quạt tường quay và giật mình, nghĩ nó là trực thăng, có những cơn ác mộng về tiếng loa phóng thanh từ máy bay tuyên truyền bay qua khu rừng. Thời kì sau 1975, ông kể với tôi ông già đi nhanh chóng, không nghi ngờ gì là do chịu đựng từ cái mà chúng ta gọi là PTSD [rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý – ND ghi].
Ông bắt đầu viết “Lạc rừng” năm 1980. “Khi còn nhỏ, tôi là một người đầy mơ mộng”, ông nói, “tôi nhớ khi đọc cuốn “Ông già và biển cả” của Hemingway, về một người đánh cá lạc giữa đại dương, tôi đã nghĩ, “Một ngày nào đó, tôi sẽ viết một câu chuyện hay hơn thế này!”. Dĩ nhiên là trong chiến tranh, đâu có thời gian để viết gì. Tôi chỉ chủ yếu là ghi chú, vì mục đích chiến thuật. Nhưng tôi nghĩ rằng giấc mơ viết một quyển sách giống như “Ông già và biển cả” vẫn ở lại trong tôi”. Ông mất 10 năm để viết “Lạc rừng”, và năm bản thảo khác nhau, nhưng nó đã giành được vài giải thưởng và đưa ông Đỉnh trở thành nhà văn.
T ôi hỏi ông đã đọc cuốn tiểu thuyết chiến tranh nào của các nhà văn-lính Mỹ như Karl Marlantes và Tim O’Brien chưa.
“Một vài, nhưng không nhiều”, ông nói mơ hồ. Thực tế là, đến ngày nay, có rất ít tác phẩm như vậy bằng tiếng Việt, gây khó khăn cho người không nói tiếng Anh như ông. Ông đã đọc những tác phẩm kinh điển cùng thể loại, và cho rằng không ai qua được Erich Maria Remarque. “Ông ta nắm bắt được không khí chiến tranh thật tuyệt vời”.
Nhưng còn “The Vietnam War”, phim tài liệu nổi tiếng của Ken Burns và Lynn Novick, có bản phụ đề tiếng Việt, và có người bạn rất thân của ông, Bảo Ninh, trong đó?
Ông đã xem vài tập, ông nói. “Thú vị”, ông thừa nhận, “và chủ yếu là đúng. Nhưng tôi nhận thấy vài lựa chọn người phỏng vấn thật lạ. Họ đi vào tính đa dạng hơn là chuyên môn. Nó không thể khám phá về chiều sâu những điểm quan trọng nhất. Mọi thứ Bảo Ninh nói là đúng, nhưng một vài người khác, tôi tự hỏi, họ có tư cách như thế nào để phát biểu”.
Tôi hỏi ông giải thích thế nào về việc người Mỹ vẫn còn bị cuộc chiến ấy thu hút sự chú ý. Trong khi các văn nghệ sĩ Mỹ tiếp tục sáng tạo những tác phẩm mới về chủ đề này, người Việt Nam (ít nhất là ở Việt Nam) sáng tác tương đối ít kể từ thập niên 1990. Tương tự, khách du lịch Mỹ đến Việt Nam cảm thấy ngạc nhiên bởi tinh thần sẵn sàng tha thứ và hướng về tương lai của người dân địa phương. Phải chăng người dân Việt Nam ngày nay chỉ muốn quên đi những trải nghiệm của mình?
“Không”, ông trả lời thẳng thừng. “Đó chỉ là vì đối với người Việt Nam, cảm xúc và kí ức quá nặng nề. Nó không dễ dàng chia sẻ”. Và đối với tầng lớp thanh niên, ngay cả con trai ông, giờ đang học ở Luân Đôn, cũng không muốn nghe những câu chuyện chiến tranh, ông nói. “Nếu giới trẻ không hứng thú với chiến tranh, thì tốt thôi”, ông xua tay bác bỏ. “Để cho chúng sống”.
Tuy nhiên, gần như không có ưu phiền, ông Đỉnh tỏ ra thích thú về chuyến lang thang vào quá khứ này. Ông kể vài chuyện vui về các buổi mít-tinh động viên chiến sĩ có sự tham dự của các cán bộ cách mạng, thời ông còn ở An Khê. Họ dựng một tấm bảng đen vào một thân cây và dùng lý luận biện chứng. “Chúng ta đang ở thế đi lên hay đi xuống?”, một lần họ đặt câu hỏi tu từ như thế.
“Đi xuống”, ông Đỉnh trả lời tỉnh bơ.
“Đồng chí không thể trả lời như vậy!” Cán bộ khiển trách. “Chúng ta đang ở thế đi lên, chúng ta đang ở thế thắng!”
“Tôi chỉ nói đi xuống vì đi xuống dễ hơn”, ông giải thích.
“Tôi thật sự không muốn ra trận”, ông Đỉnh nói khi quán ăn của chúng tôi bắt đầu dọn dẹp cho giờ ăn trưa, “nhưng vào tháng Tư năm 1968, mọi thanh thiếu niên khỏe mạnh phải đăng kí nhập ngũ, tôi chưa từng nghĩ đến thắng lợi”. Ông trích dẫn thơ Nguyễn Duy: “Phe nào thắng thì nhân dân đều bại” [NYT để nguyên văn]