Nguyễn Đăng Hưng
Những ngày nằm dưỡng bệnh, tôi nhận được hai tập thơ do nhà thơ Phan Đắc Lữ gửi tặng. Một cuốn dày 175 trang, bìa cứng, DÃ TRÀNG và một cuốn mỏng, chỉ 48 trang, TÂM SỰ VỚI DÒNG SÔNG. Cả hai cuốn đều do tác giả tự xuất bản. Tập DÃ TRÀNG là thơ tuyển chọn, một trăm bài, do chính tác giả thực hiện. Tập thơ được học giả Hà Sỹ Phu viết bài giới thiệu, một bài viết rất đầy đủ và sắc sảo.
Ở đây tôi chỉ chủ tâm ghi lại cảm nhận của riêng tôi. Nỗi buồn Phan Đắc Lữ, một nỗi buồn hơn tám mươi năm. Thật vậy, điều toát ra trong thơ ông là nỗi buồn miên man tiềm ẩn trong từng câu chữ. Một nỗi buồn không bi lụy nhưng da diết làm ta cảm động! Hơn nữa tôi là người đồng hương với ông (quê
tôi ở làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, quê ông ở làng Bảo An, xã Điện Quang), đồng lứa với tác giả. Nay đời đã vào đông, không thể không nhìn lại ký ức, nhìn lại cuộc đời của chính bản thân mình, không may sống trong giai đoạn điêu linh kinh hoàng của lịch sử dân tộc!
NỖI BUỒN MẤT QUÊ
Bảo An vốn là vùng đất phát triển thịnh vượng một thời trước chiến tranh chống Pháp. Ca dao xứ Quảng Nam có câu: “Cây đa mô cao bằng cây đa Bàn Lãnh. Đất mô thanh cảnh bằng đất Bảo An”. Những thứ ấy không còn nữa làm ông nghẹn ngào đau đớn. Ta hãy đọc tuần tự:
Vườn xưa thất thổ lời ai oán
Quê cũ vong gia tiếng thị phi
Ngửa mặt trông đời con cháu thẹn
Thiên đường lạc hướng buổi ra đi.
Nỗi buồn sinh nhật
Ngày xưa
con gái Bảo An
“Sớm mai đi chợ tối đan mành mành”
Ra đường gái lịch trai thanh
Chợ đông tơ vải, cửi canh rộn ràng.
Ngày xưa
đình làng Bảo An
Bảy gian ngói đỏ, bốn hàng cột lim
Mỗi năm mở hội Kỳ Yên
Mưa hòa gió thuận khắp miền nhân gian.
Ngày xưa
trường làng Bảo An
Nhân tài như cánh chim ngàn bay xa
Bây giờ về lại quê nhà
Nhớ phong cảnh cũ xót xa trong lòng.
Ngày xưa…
Ngày xưa đâu nữa mà mong!
Ngày xưa
Ngày xưa, mỗi lần về thăm quê là mỗi lần hình ảnh cũ cứ chập chờn trong ông và hình ảnh cũ êm đềm ngày nào cứ hiện lại làm ông nhức nhối tâm can:
Giũ áo phong sương sông cứ chảy lặng lờ
Bên đục bên trong đôi dòng lẫn lộn
Thương và nhớ nơi chôn nhau cắt rốn
Còn đâu quê ngày lá rụng lại cội nguồn.
Đi lang thang như một giấc mơ buồn
Đất Cố Tổ không còn hình dáng cũ
Cây đa bên cồn trôi năm lụt lũ
Vườn nhà xưa giờ đổi chủ thay người
Ba mươi năm chiến tranh khói lửa ngút trời
Mồ mả ông cha đạn bom xéo giày tan nát
Mộ gió nghĩa trang hàng hàng lớp lớp
Ngày Thanh minh hương khói tỏa đìu hiu!
Người về quê cũ
Hay:
Ngày trở về tôi đứng lặng bâng khuâng
Làng bây giờ chỉ trồng cây ăn quả
Ổi mít cam xoài bốn mùa đủ cả
Chẳng ai buồn trồng lại một cây đa.
Cây đa đầu làng
Đọc kỹ mới biết lý do sâu thẳm của nỗi buồn trong lòng người đã quá tuổi cổ lai hy này:
Ngày đi một sớm mùa thu
Năm mươi năm gót lãng du mỏi mòn
Ngày về như nước ngược nguồn
Trăm năm Từ Thức mấy vòng Bồng Lai?
Quê hương giờ biết gửi ai
Lá không về cội một mai lìa cành.
Quê cũ
Sông Thu chở nắng Trường Giang
Câu thơ mất ngủ gió trăng mất mùa
Hồn ta lá rụng sân chùa
Lang thang tìm cội nguồn xưa đi về.
Tàn thu sực tỉnh cơn mê
Theo đàn đóm đóm lập lòe vườn hoang.
Vào thu
THÂN PHẬN MỘT ĐỜI LÀM NGƯỜI TỬ TẾ: “TUỔI XUÂN CHẾT ĐUỐI GIỮA DÒNG U MÊ”
Ông làm ta rơi lệ cho thân phận một người tử tế, đã hết lòng với quê hương, tổ quốc:
Ta là chiếc lá chưa rơi
Xác xơ qua mấy tơi bời bão dông
Chờ mai nhát chổi hư không
Quét ta lìa chốn bụi hồng trần ai.
Quét lá trong vườn
Trăm vui từ mọi ngọn nguồn
Đổ ra sông biển hóa buồn mênh mông
Hồn ta như cánh buồm dong
Rủi may đợi gió ngược dòng trầm luân
Trời cho dạt bến gian truân
Ngu ngơ mất trắng tuổi xuân chợ trời
Ta buồn từ thuở nằm nôi
Lời ru của mẹ nghẹn hơi thở dài
Buồn
Hay:
Những mùa Thu trước đã qua đi
Tổ quốc còn đau nỗi thịnh suy
Xương máu hai mùa sông núi chất
Lòng dân vận nước mãi sinh ly!
Thu điếu
Ông ý thức được bổn phận mình gắn bó với vận nước, thân phận của dân tộc, của sự bất hạnh chảy như một dòng lịch sử quanh co vô định…
Xa quê năm mươi năm ròng
Tuổi xuân chết đuối giữa dòng u mê
Mẹ cha đâu nữa mà về
Nỗi lòng thương kiểng nhớ quê dùng dằng
Thương kiểng nhớ quê thì về
Nửa đời còn lại nhưng vẫn ê chề như một định mệnh khó thoát! Lời thề đã trôi đi theo con sông ngày thơ ấu, như một giấc mộng du và khi thức dậy chỉ còn hình hài lơ láo!
Ta còn một nửa đam mê
Nửa xưa rơi vãi bên lề trần gian
Nửa nay nắng quái chiều tàn
Tỉnh cơn du mộng mang mang hình hài.
Tự thú
Ông tâm sự với dòng sông quê hương như một nhân chứng của lời thề năm xưa! Lời thề với dòng sông đã tan biến, nhưng kỳ vọng ngày xưa đã không được như ý:
Trời làm lũ lụt mênh mông
Người về đi dọc triền sông bàng hoàng
Cây đa bến nước đò ngang
Một dòng ký ức hai hàng lệ sa.
…
Người về trắng tóc ngàn lau
Nhìn sông khúc lở mà đau khúc bồi
Giang hồ như áng mây trôi
Nghe chuông thiền định bồi hồi tâm can.
…
Bảy mươi năm. Cõi làm người
Được thua như tiếng khóc cười trẻ thơ
Sông ơi! Mất bến còn bờ
Ta như chiếc lá đợi hờ gió thu.
Người về nghe tiếng mẹ ru
Vẳng trong tiếng sóng thâm u vọng về
Cố hương vời vợi sơn khê
Ra đi thả nổi lời thề… trôi sông!
Tâm sự với dòng sông
Thu Bồn ơi! Năm mươi năm lẻ
Ngày về kiểm lại buổi ra đi
Ta phung phí một đời trai trẻ
Nợ núi sông biết trả bằng gì.
Ký sự ngược sông Thu Bồn
Ông không ngần ngại chỉ rõ lý do chính nỗi buồn của mình, không chút bất mãn, chỉ xót xa cảm hoài:
Mỗi lần về thăm quê lòng lại băn khoăn
Không biết còn ai? Ai còn ai mất?
Đi ngu ngơ có còn ai nhận mặt?
Bà con xa – thân tộc – láng giềng gần.
…
Quá nửa đời người vui ít buồn nhiều
Đất địa linh sinh hiền tài nhân kiệt
Nhân kiệt hiền tài ra đi biền biệt
Bỏ lại quê lơ láo bọn gian thần.
…
Mỗi lần về thăm quê lòng nặng u phiền
Thắp một nén hương vái mười phương tám hướng
Tạ tội với tổ tiên: Xin Người lòng độ lượng
Lại ra đi. Có còn tuổi để quay về?
Người về quê cũ
CÒN QUÊ TỪ TUỔI LÊN MƯỜI
MẤT QUÊ TỪ BUỔI LÀM NGƯỜI GIỮ QUÊ
Và sự thật phũ phàng ở nông thôn hiện ra như một cảnh tỉnh:
“Sông xưa rày đã nên đồng”
Đồng phân lô – đổ béton xây lầu
Đất vàng: ruộng cả ao sâu
Nông dân tay trắng, quan giàu xổi lên.
Sông xưa
…
Luật đất đai đã tước đoạt mất mảnh vườn của cha ông xưa để lại, sau ba mươi năm ông đi kháng chiến chống ngoại xâm, ngày hòa bình trở về:
Khu vườn cũ nhà ta không còn nữa
Dấu tích xưa còn lại nửa vuông sân
Đất cụ tổ mười ba đời khai phá
Nay trở thành “sở hữu của toàn dân”.
Người xa lạ từ thập phương cư ngụ
Gốc người xưa giờ ai mất, ai còn
Ai cầu thực tha phương đi tứ xứ?
Người trở về như lữ khách cô đơn.
…
Mẹ để lại nhà ba gian ngói đỏ
Lửa chiến tranh thiêu rụi với quê hương
Cha dìu dắt đàn con năm bảy đứa
Một ngày Thu theo tiếng gọi lên đường.
…
Lá sắp rụng: con quay về tìm cội
Cội nguồn xưa thành nỗi nhớ vô chung
Sông trách móc khi con về tắm gội
Thuở đầu xanh trôi nổi ngọn Kỳ Cùng.
Lời khấn nguyện
Một đời làm kiếp mây trôi
Trôi cho hết kiếp luân hồi làm mưa
Mưa là nước mắt tiễn đưa
Khóc sông ra biển mà chưa về nguồn.
Chiều hôm ra đứng đầu truông
Chim kêu gành đá gẫm thương một đời
Còn quê từ tuổi lên mười
Mất quê từ buổi làm người giữ quê.
Dã tràng
Câu thơ cuối cùng của bài thơ trên đã như một tổng kết về bi kịch của đời ông. Một đời cống hiến tử tế nhưng đã không được nhìn thấy cục diện thuận theo chiều ông mong ước. “Còn quê từ tuổi lên mười / Mất quê từ buổi làm người giữ quê” và ông buồn cho đến hôm nay.
Thơ ông như những bài ca dao xứ Quảng, nhẹ nhàng như lời mẹ ru, nhưng có khá năng gây cảm xúc cho người đọc. Một thành công!
Sài Gòn 10-12-2022
Viết nhanh ngày nằm dưỡng bệnh!