Thái Kế Toại
Cuộc chiến Nhất định thắng
Thơ Trần Dần giàu tính đa nghĩa. Chỉ riêng một bài Nhất định thắng, đã có thể vừa quy kết ông là một tên phản động cực kỳ nguy hiểm, vừa có thể ca ngợi ông như một người yêu nước nồng nàn. Bắt đầu từ câu chuyện khổ cực của một đôi vợ chồng trẻ giữa lòng Hà Nội lúc đó, nguyên mẫu chính là nhà thơ, Nhất định thắng dẫn dòng mạch tâm sự vào chuyện đời sống Hà Nội, lòng yêu nước bàng bạc quyện vào nỗi khổ nghèo túng, thảm cảnh di cư, nỗi đau chia cắt đất nước. Có nỗi buồn nhưng có ý chí vươn lên từ chính màu cờ đỏ, như hết mưa lại bừng lên dưới nắng.
Một giai đoạn lịch sử buồn đau của đất nước hiện ra mồn một trong mỗi câu thơ của ông. Khi Trần Dần viết bài thơ ấy, đất nước đang bị phân đôi, ở miền Bắc chiến tranh kết thúc. Nhưng, cuộc sống của người dân thì không có ấm no hạnh phúc.
Trần Dần viết:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Hình tượng “vết chém ngang lưng” ông viết ở đây là để nói về nỗi đau chia cắt tổ quốc có thể hiểu về cái không khí ngột ngạt của xã hội mới ở miền Bắc, cái không khí mà đến 30 năm sau, Hữu Loan vẫn nhớ: “Thành viên nào (trong cộng đồng) cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh”.
Theo Hiệp định Genève, người dân có một thời gian dài để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc. Trong khi, hàng triệu người dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà trên đất Bắc. Thoạt đầu, có vẻ như Trần Dần trách móc, thậm chí ông đã buộc tội “những bạn đi Nam” là thiếu quả tim bộ óc! Nhưng rồi quan sát kỹ hơn, ông buột hỏi:
Họ vẫn ra đi
Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
“Cơm áo” không phải là những gì ngột ngạt nhất mà những người như ông đã từng nếm trải.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống Hoà Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Nhà thơ đau về nỗi đau chia cắt đất nước, nhưng rõ nhất là nỗi đau về cuộc di cư, một trong những nỗi đau đau đớn nhất mà cho đến nay lịch sử ít nói đến. Trong văn học miền Nam người ta có thể đọc thấy giai đoạn 1954 của Hà Nội trong văn Mai Thảo, Mặc Đỗ, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Khắc Khoan… Sớm nhất Trần Dần đã dám viết về cái bi kịch này của dân tộc. Những đoạn văn day dứt như thế này cho đến nay hầu như không có trong văn học miền Bắc:
NHẤT ĐỊNH THẮNG
1
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống Hoà Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm ngày hôm nay rớm máu.
2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
– Đứng lại!
– Đi đâu?
– Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
– Ở đây
khát gió, thèm mây…
Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
là có đô-la
Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
– Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
– Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
non bồng Mỹ
triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
– thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
– Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá
– Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
– Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ –
Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ
3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
– Anh ạ.
Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
4.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
– từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
– từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo – Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
trên màu cờ đỏ
6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Uỷ ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
– Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
– thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau
đi ngoài phố
Hôm nay
hàng triệu mối thù sâu
tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
tiếng kêu ngồi cạnh
giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
– chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
đương vẩy máu
đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!
7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
– Chúng phá hiệp thương
– Liệu có hiệp thương?
– Liệu có tổng hay chẳng tổng?
– Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hoà Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
– Giả miền Nam!
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết…
8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xoá trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT
9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
đỏ nhà
đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
– Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
– Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ giạo ấy
mà em chẳng rõ.
– Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
lửa loạn
bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?
Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đúc
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hoà bình
thêm vững
Anh bước đi
đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
trên màu cờ đỏ
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
nổi bão
biểu tình
Vung cờ đỏ
hát hò
vỡ phổi…
Hỡi những người
thành phố
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HOÀ BÌNH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
1955
Nhà giáo Lương Duy Cán, với bút danh Hà Nhật, vốn là sinh viên khóa 1 Sư phạm văn khoa Hà Nội có kỷ niệm với bài Nhất định thắng như sau:
“Sau tháng 7-1954, đang là học sinh lớp Đệ Tam trường Trung học Chuyên khoa Khải Định, cũng đang chuẩn bị vào Huế tựu trường (tôi đã được đề nghị cấp học bổng), tôi bỗng quyết định: ở lại Quảng Bình, nghĩa là ở lại phần đất sắp trở thành Miền Bắc.
Với tâm hồn của chàng trai 17 đầy lãng mạn, tôi thấy mình đã có một sự lựa chọn đẹp. Cuộc kháng chiến là một cái gì thật tuyệt vời, những con người trở về từ cuộc Kháng chiến như là tượng trưng cho cái đẹp.
Thế rồi, tôi phải đi dự những buổi đấu tố, những lần chứng kiến “những tên địa chủ gian ác” đổ gục ngay trước mắt mình. Một cái gì đó đang bắt đầu vỡ ra.
May mà ngay từ đầu năm 1955, tôi đã ra Hà Nội. Tôi tiếp tục việc học hành.
Rồi đến đầu năm 1956, tôi đang học lớp Đệ Nhất, chuẩn bị dự kỳ thi Tú tài cuối cùng của Miền Bắc. Tôi đã đỗ Tú tài Toán, nhưng sau đó lại vào Đại học ở một cái khoa trớ trêu, bắt đầu mọi khốn khổ cực nhọc cho đời mình: Khoa Văn!
Còn nhớ cái buổi học chiều đầu tiên sau Tết năm 1956 ấy. Thầy Trương Tửu bước vào lớp với dáng vẻ khá xúc động. Ngày ấy, thầy Tửu là thần tượng của tất cả chúng tôi. Riêng với tôi, ở gần nhà (nhà thầy số 53, tôi ở số 10 phố Hàng Gà) nên càng cảm thấy vinh dự.
Thầy kể cho cả lớp biết một sự việc quan trọng: hôm qua thầy vừa dự một cuộc họp để trao đổi về một hiện tượng văn học bất ngờ. Đó là một tập sách có tên là: Giai phẩm mùa xuân.
Đây là một tập hợp gồm truyện, tiểu luận, phê bình, thơ, tranh… được phát hành bởi một nhà xuất bản tư nhân có tên là Minh Đức, mà chủ nhân tên là Trần Thiếu Bảo. (Sau này thì các báo gọi ông này là Trần Thiếu… bảo đảm). Người viết toàn là những tên tuổi “ghê gớm” những ngày này: Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Đạt, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Đặng Đình Hưng…
Hoá ra trong cái buổi gọi là phê bình văn học nghệ thuật hôm ấy, người ta đã đánh tới tấp cả tập sách, quyết liệt cứ như đánh một tập đoàn những quân phản động! Hầu như ai cũng phải lên tiếng, tìm cho ra chỗ để kết tội. Phải kết tội được kẻ xấu mới chứng tỏ được mình là người tốt chứ! Không thể đánh mất ý thức cách mạng, tinh thần cảnh giác cách mạng!
Tuy nhiên, cái đinh trong buổi kết tội này chính là một bài thơ của Trần Dần: bài Nhất định thắng!
Đến nay, ngồi đọc lại, tôi cũng không hiểu vì sao bài thơ này đã bị quăng quật đến như vậy. Bài thơ tuy có những ý buồn, những câu buồn, nhưng vẫn khẳng định niềm tin lạc quan vào tương lai kia mà! Tên của bài thơ còn là Nhất định thắng kia mà!
Bài thơ có những đoạn tâm sự tuy buồn nhưng rất đáng yêu:
[…]
Có những câu, những đoạn, những ý thơ cũng đầy lạc quan, nếu không nói là rất hào hứng.
Tuy nhiên, phần lớn những câu thơ, những ý thơ trong bài này lại dành cho những điều buồn, những chuyện buồn. Cũng phải thôi. Cuộc sống đang trải qua, vừa trải qua, những chuyện buồn, mà là buồn ghê gớm. Cuộc Cải cách Ruộng đất vừa nhận ra cả một đống sai lầm, mà là sai lầm ở tầm cỡ ghê gớm! Rồi một trận vỡ đê Mai Lâm! Rồi cả thiếu đói! Chỉ kẻ vô tâm, cứng lòng, mới không nhận ra, mới có thể vui, dù là vui gượng!
Trong cái buồn chung, lại còn cả cái buồn riêng. Làm sao mà không buồn! Làm sao mà bắt mình “lạc quan cách mạng” được?!
[…]
Cái hình ảnh cô gái trẻ Hà Nội đi trong cơn mưa “cúi đầu nghiêng vai” đúng là buồn, buồn đến nao lòng! Lại cũng là một hình ảnh mang sức mạnh nghệ thuật rất cao, cứ đọc là phải nhớ.
Phải nói rằng nếu gọi Nhất định thắng là một bài thơ thì quả là một bài thơ lạ lùng xưa nay chưa từng có. Bài thơ gồm đến 9 đoạn, được đánh số rõ ràng, mà đoạn nào cũng tương đương với một bài thơ dài.
Đúng hơn, đây là một bài xã luận, một bài chính luận bằng thơ.
Thì chính Trần Dần đã nói trắng ra rồi mà:
Chút tài mọn tôi làm thơ chính trị
Nói thật ra, tôi khá bị bất ngờ khi thấy tên tác giả bài thơ. Trần Dần là tác giả văn xuôi chuyên nghiệp cơ mà. Ông là tác giả ba cuốn Người người lớp lớp đang chiếm vị trí trang trọng trên các quầy sách kia mà!
Ai ngờ Trần Dần làm thơ, mà thơ ông điêu luyện đến thế, cao tay đến thế! Thì chính cái điêu luyện ấy, cái cao tay ấy đang làm khổ ông đấy.
[…]
Chết ai thì chưa biết, nhưng tác giả của nó thì chắc là phải chết.
Sau này, có những người, dù chưa hề đọc bài thơ của Trần Dần, nhưng thuộc cả đoạn thơ đó để rồi viện dẫn nó ra theo ý đồ này hay ý đồ khác.”
(Hà Nhật, Mọi chuyện bắt đầu từ một bài thơ của Trần Dần, https://vandoanviet.blogspot.com/2022/07/moi-chuyen-bat-au-tu-mot-bai-tho-cua.html)
Xung quanh những sai lầm của việc đánh giá Nhất định thắng người viết bài này thấy có mấy diểm như sau:
Những người phê phán bài thơ luôn xuất phát từ thành kiến quá khứ coi tư tưởng tự do là phản động. Phê bình duy danh định nghĩa cắt bỏ toàn bộ văn bản bài thơ, chỉ lấy hai câu để bình luận. Quy chụp theo suy đoán của phía kẻ thù. Định kiến kéo dài nhiều thế hệ, trong đó có sự a dua a tòng, sự mù quáng, rập khuôn. Từ một câu thơ duy cảm trở thành một bản án chính trị, vu vơ mà sắt đá, mà vùi dập chết người. Màu cờ đỏ trong Nhất định thắng là một biểu tượng hiện thực vì nó còn có cả hệ thống bài, còn có biểu tượng Nắng lên đỏ phố, đỏ cờ… Nếu khắt khe hơn đó là biểu tượng nghiêm nhặt đối với hiện thực Hà Nội lúc đó nhưng quyết không phải là biểu tượng bôi đen, phản động. Bởi vì với những năm của thế kỷ 21 khi Hà Nội bị lạm dụng cờ biểu ngữ màu đỏ ngoài đường phố, nhiều hôm người tôi cũng có cảm giác giống Trần Dần.