Về tiểu thuyết lịch sử

(tiếp theo)

Nguyễn Vy Khanh

Nếu Chiến tranh & Hòa bình (1865-9) của Tolstoi là bộ tiểu thuyết muốn cạnh tranh với lịch sử, mới hơn 50 năm sau biến cố đã “vội” viết, một lịch sử đang âm ỉ vận động, đang hình thành hoặc sắp hình thành – nói như các nhà Mác-xít sau đó, với chất liệu lịch sử, Sông Côn mùa lũ muốn cho lịch sử một số ý nghĩa nào đó nhưng chính Gió lửa với những kỹ thuật tiểu thuyết hóa cá nhân, trí thức, địa phương,… đã phần nào thành công cắt nghĩa rằng con người không thể thoát khỏi những biến cố thời đại mình sống, con người cũng không thể làm chủ tình hình khi chính con người dấy gió bụi và làm bùng lửa. Yếu tố tiểu thuyết đưa đến những giả thuyết mà người viết đưa ra để ông và người đọc cùng tra vấn và không hẳn dễ có câu trả lời. Sông Côn mùa lũ nói đến Ác để đề cao cái Thiện, Nam Dao kéo dài không khí của Ác, Ác tiềm ẩn thành một thứ văn hóa sống và hành, gió hay lửa qua 400 năm đều do đó mà ra cả!

Nguyễn Mộng Giác có dự phóng đảm bảo hóa người đọc về nội dung và chiều hướng lịch sử, nhưng thực ra không gian của bộ Sông Côn mùa lũ muốn làm sống lại lịch sử với chủ ý, chủ quan hơn những tiểu thuyết lịch sử trước đó. Còn tác giả Gió lửa như muốn người đọc sống lịch sử mà bộ tiểu thuyết viết lại như họ đang sống, qua trung gian thời gian và tâm thức. Một thời gian sống và một thời gian chết! Sông Côn mùa lũ tiểu thuyết hóa giai đoạn anh hùng của Sông Côn trong khi Gió lửa tiểu thuyết hóa nhưng có khuynh hướng bi kịch hóa vì Gió lửa được đặt trong một thời gian dài hơn và tác giả nó còn muốn vang vọng lâu hơn và được viết gần hai thập niên sau Nguyễn Mộng Giác. Với Nguyễn Mộng Giác, người đọc như phải bơ vơ trước bề dày lao đao bấp bênh của lịch sử, trong khi đó Gió lửa và những tác phẩm “lạc đường” trình bày lịch sử như thế đó nhưng có những tác động với ý thức cá nhân, với lương tâm con người như hôm nay nhìn lại, tổ tiên ta diệt nước Chàm với gả bán và võ lực, không lẽ không gây suy nghĩ! Thế hệ trẻ như Lan Cao trong Monkey Bridge (12) cũng còn vang vọng tiếng nói ý thức và lương tâm chung này. Gần năm trăm năm loạn “quí tộc” đó đầy những lãnh chúa giàu tham vọng nhưng rồi thất bại (Trịnh Sâm, Trịnh Tông, Trương Phúc Loan, Nguyễn Nhạc,…), những vua hụt, chúa suýt, những tướng lãnh, hoàng tộc đầy tham vọng mà hậu vận cũng không khá (Đặng Thị Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm, Ngô Thì Nhậm,…): họ là những phản diện của Nguyễn Huệ,… những quỉ ám, ta bà bên cạnh những anh hùng đăng quang đầy quyền uy mà rốt lại anh hùng hôm trước hôm sau cũng bại trận, tả tơi! Muốn thoát cái nhìn khô cứng một chiều của sử chính thức nhà Nguyễn, có nhà viết truyện lịch sử như muốn đối đầu, hoặc đã đánh nhanh rồi rút (?) như Nguyễn Huy Thiệp, Trần Vũ, Trần Nghi Hoàng, hoặc chậm rãi nguyên tắc nhưng thâm sâu tâm lý nhị nguyên như Nguyễn Mộng Giác, hay muốn … đâu ra đó, nhiều bình diện, với tâm tình thất vọng với lịch sử hiện đại, thất vọng với loại lịch sử của “nhóm” người đề cao anh hùng áo vải, như Nam Dao. Nhưng thiển nghĩ tất cả đều có tính cách thoát ly hiện thực, không thật sự dấn thân cho thực tại đất nước, chính ở chỗ chủ quan dùng chuyện xưa để sửa sai mà thiếu nối mạch với hiện thực và dự phóng! Dĩ nhiên, chúng ta đã sống qua những thời nghi ngờ của thế giới tiểu thuyết Balzac, thời của Kafka, thời “tiểu thuyết mới” rồi trở lại thời ngờ vực của “tân tiểu thuyết mới”! Để hiện thực hay dự phóng? Dù lúc nào cũng có những người hoảng sợ trước bước đi của thời gian, trước những niềm tin đã bị lung lay, họ cần đến những nguồn tâm linh, thần linh, nói chung con người ngày càng xa thần quyền; khoa học kỹ thuật khiến con người tự tin hơn trước những lực siêu nhiên – dù chưa thật sự khuất phục được thiên nhiên. Nghi ngại bước đi của lịch sử, con người có lúc ra mặt mạnh dạn đảm bảo sinh mệnh chung, cả trong thế giới tiểu thuyết! Hết còn là thời của loại tiểu thuyết truyền thần, ảo hóa, thần thành hóa, ảnh hưởng khuynh hướng của các ngọc phả và chí quái!

Nam Dao đã ghi lại quan niệm về tiểu thuyết lịch sử mà ông gọi là “dã sử” trong Lời Ngỏ: “Tiểu thuyết là cách tác giả đối thoại với lịch sử. Tất nhiên đối thoại đó chỉ một chiều và chủ quan. Thậm chí tác giả không câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi khi cưỡng bức lịch sử để thai nghén ra tiểu thuyết” (tr. iii). Nguyễn Mộng Giác thì đã có lần “tâm sự” bị tác động bới hoàn cảnh miền Nam và giới trí thức lúc ông viết, nhất là chương 90. Nhiệm vụ của một người viết tiểu thuyết nếu có theo ông là “phức tạp hóa những điều tưởng là đơn giản, để người ta nhớ rằng con người, đời sống là cái gì mong manh dễ vỡ, phải cố gắng thông cảm với những tế vi phức tạp của nó, nhẹ tay với đồng loại những lúc bất đồng, kiên nhẫn với những yếu đuối khó hiểu...” (13). Chính văn hóa đã cách biệt văn và sử, và tiểu thuyết lịch sử đã thành “tâm sử”! Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, … ngay cả Kim Dung, đều dùng chuyện xưa để lồng tâm sự người sau, nhưng tại sao các tiểu thuyết gia lại cứ chọn Napoléon, Nguyễn Huệ và một số “sử gia” như ông Văn Tân thích so sánh Nguyễn Huệ với Napoléon? Phải chăng thời đại và triều đại hai nhân vật này đã làm đổ bức tường giai cấp trí thức, khiến giai cấp dân giả có kinh nghiệm sống, nổi bật bởi những biến cố lịch sử tức đem lại ý nghĩa cho lịch sử, cho bước đi của lịch sử? Những thời thái bình Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, … không gây được một kinh nghiệm lịch sử đáng kể? Hay “bản sắc” văn hóa Việt Nam” đã đi đôi với kinh nghiệm chiến tranh? Mây trăm năm nội chiến và phân tranh phải có biến cố ba anh em biện Nhạc ở Qui Nhơn và nhất là phải đi đến Nguyễn Huệ như một thiết yếu lịch sử. Nguyễn Mộng Giác và Nam Dao đã đi vào con đường ý thức hệ và quan niệm xã hội để cắt nghĩa những hiện tượng lịch sử. Hai ông xem Nguyễn Huệ như một hậu quả tất nhiên của xã hội chính trị thời đó, để rồi tán dương một cách dễ tính. Trước hai ông, Lương Đức Thiệp của nhóm Hàn Thuyên đã cắt nghĩa thất bại của nhà Tây Sơn: “Xã hội Việt Nam thời ấy cũng tương tự xã hội Pháp về thời Nã-phá-Luân (đầu thế kỷ thứ XIX) trong nhiều tính cách. Sau cuộc Cách mạng tư sản dân quyền (Révolution bourgeoise de 1789), xã hội Pháp làm sân khấu cho hai khối lực lượng gần ngang nhau xung đột : một bên khối tư sản vừa chiến thắng ở cuộc cách mạng đảo Phong kiến xong, nhưng chính quyền chưa nắm được vững trong tay, một bên thợ thuyền và một số nông dân cùng nổi dậy định cướp chính quyền. Hai khối ấy đương đầu nhau nhưng chưa bên nào thắng bại hẳn. Giữa tình trạng xã hội phân tranh này, Nã-phá-Luân nhảy lên sân kháu chính trị đóng vai trò trọng tài, tựa trên quân lực và sắc lệnh mà cai trị. Nếu khối tư sản quá mạnh, Nã-phá-Luân lấy lực lượng của thợ thuyền và nông dân chọi lại (…) để giữ thăng bằng cho hai khối lúc nào lực lượng cũng tương đương nhau. Song tình thế chông chênh này không kéo dài mãi được (…) và muốn giữ vững chính quyền, Nã-phá-Luân phải chinh phục Âu-châu để lấy chiến thắng bên ngoài mà cứu gỡ địa vị chông chênh ở trong nước. (…) Nhưng khi bị thua trận tại nước ngoài, địa vị của Nã-phá-Luân ở trong nước cũng lung lay” (14). Ông nghi ngờ việc xông pha chiến trận sau đưa đến chiến thắng Đống Đa có tính cách bonapartiste, sau khi đã bị nông dân và nho sĩ hết ủng hộ? “Triều đại Tây Sơn trút đổ là một lẽ tất nhiên của lịch sử “. Dĩ nhiên đây chỉ là một cắt nghĩa!

Thể loại tiểu thuyết lịch sử đã tiến xa, từ Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Hoa Bằng đến Nguyễn Mộng Giác và Nam Dao, theo con người Việt Nam sau những năm dài phân tranh chia rẽ, trở thành phức tạp, không thể đơn sơ! Đa số minh họa lịch sử, rất ít thành công văn chương. Thất bại vì cắt nghĩa, theo mẫu, mà không độc đáo hóa nhân vật, nhất là nhân vật phụ. Ngược lại Tolstoi đã thành công với Koutousov, vì chính những nhân vật phụ, những hoàn cảnh “dã sử”, “ngoại sử”, … giúp người viết giải quyết nhiều vấn nạn lớn mà chính sử không thỏa mãn ! Sông Côn mùa lũ có chất tiểu thuyết nhưng tổng thể lại là một văn liệu về những khám phá mới về Nguyễn Huệ và chưa đủ sâu đa diện văn hóa Việt. Nam Dao xử dụng phần nào phương cách điều tra về lịch sử, về một số nhân vật lẫn điều nghiên bệnh lý, tâm lý và xã hội học. Về phía sử, gần đây trong và ngoài nước có những tư liệu và suy nghĩ mới về Nguyễn Huệ như Nguyễn Gia Kiểng dựa theo tài liệu các thừa sai ngoại quốc có mặt hoặc nghe nói về chiến thằng Đống Đa, đã “khoa học” lại những con số đã được lịch sử rộng rãi đưa ra rồi được một chế độ vì hợp thuyết nên đã tiếp tục thần thánh hóa. Theo Nguyễn Gia Kiểng, sự tôn vinh Nguyễn Huệ khởi từ Hoàng-Lê nhất thống chí, một nguồn tiểu thuyết và thiên vị, và nguồn “sử” của cụ Trần Trọng Kim khi viết Việt Nam sử lược, cụ vốn dị ứng với nhà Nguyễn Gia-Long. Còn “Hà Nội” vì mục đích chính trị “cách mạng vô sản”. “Thần tượng Nguyễn Huệ thiên tài quân sự, anh minh sáng suốt và nhân nghĩa chỉ là một sự xuyên tạc lịch sử có dụng ý”. Chuyện chiến thắng “đập tan” 29 vạn quân Thanh, theo ông chỉ khoảng sáu ngàn, và Đống Đa chỉ là một trận “nhỏ”. Cũng theo ông, “anh hùng áo vải cờ đào” Nguyễn Huệ thật ra chỉ là một thảo khấu hiếu chiến hiếu sát, tàn ác cả với anh và thuộc hạ (15). Chuyến ra Bắc đánh quân Thanh mùa xuân năm 1789 bị nghi ngờ không thể tiến hành trong 20 ngày mà phải mất 40 ngày vì tình trạng đường xá thời đó, cũng như chuyện hai người lính cáng một người ngủ thay nhau để tiến quân cho nhanh. Ai cũng phải công nhận có chiến thắng (kể cả vua nhà Thanh) nhưng nên bỏ bớt những chi tiết thần thánh hóa con người hôm nay khó tin! Cũng Nguyễn Gia Kiểng trong một bài viết khác, “Để lịch sử đừng lập lại” (TL 137, 5-2000), “biện luận” (chữ của chính ông) rằng Tây Sơn là “loạn quân, một đám loạn quân thuần túy, cai trị một cách tàn bạo để rồi sau cùng cũng bị tiêu diệt một cách tàn bạo” như muốn phá hủy huyền thoại “anh hùng áo vải” Nguyễn Huệ, đối nghịch thuyết của tập đoàn cầm quyền ở trong nước hiện nay! Trong nước, nhiều năm sau “cởi trói” văn nghệ, giới sử học bắt đầu kêu gọi viết lại lịch sử và đặt lại, nhận định lại một số sự kiện và biến cố lịch sử như thời đại Hùng Vương, chiến thắng của vua Quang Trung, chế độ chiếm hữu nô lệ, niên đại văn bản hiện nay của bộ Đại-Việt sử-ký toàn-thư (16). Rồi những cái nhìn lại “chính ngụy” của các triều đại Hồ Quí Ly, Mạc Đăng Dung,…

Nói chung, truyện dựng trên nền lịch sử hay ngoại sử, các tác giả gửi gấm tâm sự, “làm lại” lịch sử, phê bình các triều đại. Có thể họ viết về con người hôm nay hoặc là một cách đi tìm đạt cái Chân Thiện Mỹ, cái thẩm mỹ văn chương. Kiêng kỵ, có tác giả dùng những phương pháp “phúng dụ”, xử dụng những ký hiệu, những hình ảnh tương phản, mà là như cuộc đời, có người vượt được “dư luận” thông thường để hiện thực hóa anh hùng hoặc nhân vật lịch sử: một Gia Long, Nguyễn Huệ “tầm thường” trước đàn bà, trước cái đói… Sử quá thần thánh hóa khiến con người đâm ra nghi ngờ, suy từ chế độ ra, suy từ những đen trắng cuộc đời,… Nhưng có những nguy hiểm đánh giá sai lạc nhân vật và sự kiện lịch sử, chủ quan đến quá đà, vì lý do chính trị hay không can đảm hiện thực đã đem tình dục vào các truyện lịch sử, gán cho các vua chúa và nhân vật lịch sử những hành vi, ngôn ngữ của người hôm nay, không tham chiếu, không sử liệu. Hay phải để cho văn chương chủ quan, quá đà, không tham chiếu? Cũng được đi, nếu nhân vật tiểu thuyết không cùng tên tuổi với nhân vật lịch sử; không được, vì chính tiểu thuyết lịch sử đã xử dụng lịch sử!

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua nhiều giai đoạn của thế kỷ đã chứng tỏ thực sự là viết về con người thời đại, hôm nay; so với hiện thực là cái thấy, cái hiện sinh, cái có đó, cái gây cảm xúc, nhận thức. Nhưng rồi ra hiện thực cũng chỉ là một ảo tưởng có khi chết người, vì phải qua lăng kính, cách nhìn. Mặt khác, tiểu thuyết lịch sử cũng được dùng để nói đến thảm trạng người trí thức chí lớn, luôn thao thức, lỡ thời, không được trọng dụng hay có công không được đền bù xứng đáng: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Thị Lộ, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Trường Tộ, … cũng là bi kịch của dân tộc, đất nước! Nói bi kịch xưa để thật sự nói đến bi kịch thời nay dù phần nào đã có khác khi người trí thức nay luôn thiên tả, thiên phe thiệt thòi nhưng dễ bị rơi vào thái độ “tháp ngà”, dễ bị thiêu hoặc gãy bút! Tiểu thuyết lịch sử trở thành di chúc của những oan hồn, buộc người đọc phải dừng lại nhiều giây phút để nhìn sâu vào tâm tưởng của lịch sử và dân tộc. Như thế, lịch sử không bao giờ tự khép lại… hay quá khứ chỉ có thể được khép lại bằng những nỗ lực chân chính của tất cả! Khẳng định hay phủ định biết chuyện lịch sử đều chỉ là những mơ hồ, tương đối, đối đầu mới là một vấn nạn to lớn. Nhà văn một khi xử dụng chất liệu lịch sử hay tham chiếu người xưa là đã có trách nhiệm phải nói ra!

Mặt khác, tiểu thuyết lịch sử ngày càng đối chọi với khuynh hướng lãng mạn, ở Pháp thế kỷ XIX cũng như ở Việt Nam hiện nay. Khi Khái Hưng, Lan Khai lãng mạn lịch sử thì văn học Âu châu đã đi vào biện chứng và khi Nguyễn Mộng Giác thần thánh biện chứng, lý tưởng hóa thì người trí thức đang trở lại không tương nhượng sau một thời “mất giá” thiên tả! Lãng mạn tự nhiên hay lãng mạn hiện thực, tranh đấu, đều đã bị tiểu thuyết lịch sử đối nghịch. Một bên trốn tránh sự thực, một bên dùng tiểu thuyết để tìm sự thực, đương đầu với sự thực lịch sử hay thực tại! So với sử gia, người viết tiểu thuyết lịch sử thành công hay không là ở tài năng riêng, tài vẽ tranh, biết xử dụng những sắc màu làm nổi nguồn gốc của sự kiện; ở cái tài vạch ra những bí ẩn của tâm hồn con người, nhân vật lịch sử, những tâm hồn với những biến chuyển cao thấp mà nhà viết sử thường phải bỏ qua, ở cái tài thi vị hóa, tiểu thuyết hóa những nhân vật lịch sử. Nhân vật lịch sử cần “sống”, tiếp tục sống sau khi người đọc gấp sách, khác với nhân vật sử đã được đồng thuận bởi thời gian và lịch sử, hay bất hạnh thay, bởi “tập thể”… cá lớn! Tuy nhiên nhân vật lịch sử phải ở lại với tầm thước con người, chứ không thể ngự với thần thánh con người phải vói cao mới đến! Những phá hủy “huyền thoại” bên cạnh chiến thắng Đống Đa của Nguyễn Huệ gần đây cũng trong ý nghĩa này thôi! Nếu sử gia không nhận tham chiếu những huyền thoại lập quốc, siêu nhiên, thì cũng không thể thêu dệt huyền thoại chung quanh những nhân vật lịch sử ! Khi đề tài được “yêu thích” của các tác giả vẫn là thời nội chiến năm trăm năm, phải chăng các tác giả muốn nhấn mạnh đến nội chiến, phân tranh,… mà nay hình như đã trở thành “cá tính” văn hóa của người Việt! Hay cần một “thống nhất” đúng nghĩa chứ không phải thống nhất kiểu triều Nguyễn Gia Long, kiểu 1976, mà không cả kiểu Quang Trung hoàng-đế vì không lâu là một, nhưng thứ nữa, ngay ba anh em còn chưa “thống nhất” nói chi đến thống nhất trăm họ ! Mộng tranh bá đồ vương, cái ngã quá lớn. Mạng người không ra gì, cả thân tín và quan tướng cho mình, chỉ là những con cờ muôn thuở ! Sử và văn sử về năm trăm năm phân tranh và chinh chiến cho thấy đa số vua chúa, lãnh tụ đều hiếu sát, hiếu chiến, tự ngã và tàn nhẫn; cái ác kéo dài, cái Thiện hiếm hoi hoặc ngắn ngủi!

Tự bản chất, văn chương thường đi đôi với dị thường, huyền ảo, tuyệt vời, đầy ngoạn mục và bất ngờ. Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, thêm những triết lý mới về lịch sử, đề cao sức mạnh và vai trò mới của tập thể, quần chúng, “nhân dân”, đưa đến việc tô màu những nhân vật anh hùng “bậc trung”, chìm trong đám đông vô danh hay từ đám đông trổi vượt lên: những nhân vật của Walter Scott chẳng hạn. Những nhân vật phụ của lịch sử “thật” trở thành chính trong các tiểu thuyết lịch sử mới (Nam Dao, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác,…). Những phiêu lưu tưởng tượng được gán cho nhân vật lịch sử. Hoặc cho những nhân vật của tiểu thuyết đóng những vai tượng trưng và gương mẫu. Ngay con người bình thường cũng mang sử tính, ở họ cũng đầy bi kịch và vấn nạn! Tính chất “kịch” manh nha với tiểu thuyết kịch của Nhật-Tiến, gây hứng khởi trí thức với Vũ Khắc Khoan, nay được Nam Dao tiếp tục. Kịch tính có thể đi với hiện đại hóa khi dựng những nhân vật lịch sử nhưng có hiểm nguy lãng mạn hóa, dễ tha hóa nhân vật và lịch sử – điều mà người mác-xít rất sợ, phải cảnh giác luôn (17)! Chiến-tranh Và Hòa-bình của L. Tolstoi đã được nhắc nhở nhiều đến nay có thể vì đã đi từ truyền thống W. Scott qua Pouchkine và Balzac tức đã không bị lãng mạn của V. Hugo và Vigny quyến rủ. Khởi hứng từ triết lý cách mạng Pháp, nhưng Tolstoi đã bắt nguồn trang truyện từ những hiện thực của xã hội của thời đại ông sống, từ những con người bình thường, từ những cải cách nông nghiệp 1861 đến cách mạng 1905 trên đất nước ông, mà âm ĩ tiếng pháo trận của Napoléon chưa xa lắm, mới vừa trên 50 năm!

Khi văn chương không có đất để bành trướng tự nhiên như dưới các chế độ độc tài, lúc đó nảy sinh những lý thuyết vụ hình thức như thuyết cấu trúc, cả biện chứng pháp và duy vật sử quan. Thật vậy khi có tự do, nhà văn không cần phải trốn trong tù ngục của hình thức tác phẩm mà người đọc cũng không cần chặt ý tác giả, suy diễn sứ điệp nhiều khi chẳng có! Có tự do, văn chương phức tạp tự nhiên, vẫn là trò chơi con chữ nhưng bám chặt toàn thể hiện hữu của nhà văn hơn! Mỗi lần có những chống đối, phê phán, là vì những vấn đề chung của tiểu thuyết lịch sử thực hay hư, có văn chương không hay chỉ là sách truyện chơi “rẻ tiền”. Lịch sử càng xa, người đọc càng khó tính đòi sự thực. Ngày càng nhiều tiểu thuyết lịch sử lên màn ảnh, sân khấu kịch, sống mạnh vì hình như con người có một kích thước lịch sử , dù duy tân, thích tân, vẫn thích vay mượn quá khứ (Bản Tuyên ngôn Độc lập 9-1946 chứa mấy câu của Jefferson). Đến với quá khứ như nguồn tư duy và hứng cảm cho con người thời đại! Nhưng lại nhậy cảm! Thời 1954-1975 hoặc 1975-2000 chưa đủ xa, chưa thấm phán xét của thời gian, dù sao cũng hãy như cấm kỵ, dễ trượt vỏ chuối chết người, mìn bẫy hình như sót lại còn hơi nhiều – những mảnh mìn trong tâm hồn và tham vọng,… Thành ra người ta thích đổ xô viết hồi ký hơn, chủ quan và tự ngã tha hồ, thực tâm có mà tà ý cũng đầy, cứ đọc mấy cuốn của Nguyễn Thị Ngọc Dung, Trần Thị Bông Giấy, Nguyễn Ngọc Ngạn, Đặng Văn Nhâm, ở ngoài nước, của Thế Phong trong nước,… đủ thấy tà-thực lẫn lộn! Thành thử tốt hơn nên theo vết người xưa, như Nguyễn Du viết chuyện Gia Tĩnh nhà Minh,… Dù biết tình trạng lý tưởng chỉ khi chúa thượng, ta bà, được tự do cho phiêu lưu vào tiểu thuyết, không phải theo chỉ thị hay ý của “lãnh đạo”, nghị quyết ! Bao cấp và bảo thủ bị động cho nên mới có phương hướng nhiệm vụ thứ năm của Đại hội Nhà văn tháng 4-2000 vừa rồi như một việc cấp thiết cho tình thế mới, và do đó mà có “sự cố” Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn! Trong nước do đó không thể đi xa vì điều khoản 4 điều 22 luật xuất bản (19-7-1993) vẫn như thanh kiếm Damoclès treo lơ lững trên đầu người viết: “nghiêm cấm các xuất bản phẩm có nội dung 4- xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu chung, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của nhân dân”. Trong hoàn cảnh đó, không nên đem Chiến tranh và Hòa bình của Toltoi ra so sánh, chờ đợi, vì hoàn cảnh khác, một bên ngoại xâm, một bên nội chiến, một bên khói súng vừa tắt ngấm 50 năm sau, một bên đã hai thế kỷ với nhiều triều đại cấm kỵ và nhiều chủ nghĩa ngoại lai, hòa chưa có mà bình cũng chẳng thấy!

Các tác giả tiểu thuyết lịch sử có thể hiện đại hóa, tráo đổi, biến hóa ngôn ngữ, nhân vật,… nhưng có thể nào tin tưởng họ có thể nói lên “tâm hồn” của cả một dân tộc ? Con người hôm nay khoa học, mất gốc, xa dần những huyền thoại về nguồn gốc, lại muốn tìm lại gốc gác, nguyên tủy văn hóa, … qua tiểu thuyết lịch sử !? Xét cho cùng, tiểu thuyết lịch sử hay lịch sử, văn hay sử, rồi ra cũng là trò chơi của con người, của giải mã và nhất là thuyết phục! Mở ra cho thế hệ tương lai! Phải bỏ ám ảnh của quá khứ, lịch sử, chánh tà, chính nghĩa,… người viết tiểu thuyết lịch sử mới có thể thành công để lại cho đời những tác phẩm văn chương lớn!

Nguyễn Vy Khanh

18-9-2000 

——————

Chú :

(1) Trần Nghĩa. “Sơ bộ tìm hiểu tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam”. Tạp chí Hán Nôm, 18, 1994, tr. 3-15. “Dẫn luận”, tr. 5-48 in Tổng Tập Tiểu Thuyết Chữ Hán Việt Nam (Hà Nội :1997), 4 v.

(2) Bà Chúa Chè (Houston, TX: Xuân Thu tb, 1986?), tr. 9.

(3) Nguyễn Văn Bổng. “Một trường hợp đáng bàn cãi” .Văn Nghệ, 36-37, (3-9-1988), tr. 7),

(4) Hữu Thỉnh. “Báo Cáo của Ban chấp hành Hội nhà văn khóa V… “Văn Nghệ, bm, 17, 22-4-2000, tr. 6).

(5) Văn-Nghệ 24, 16-9-1999, tr. 6).

(6) Nguyễn Tử Năng. “Tiểu thuyết Đường một chiều của Nguyễn Mộng Giác và sự tuyển trạch của trung tâm Văn Bút…”. Văn Học (Sài-Gòn) số 197, 1974, tr. 75-82. Khi nhà Nam Giao xuất bản đổi tựa là Bóng Thuyền Say. Bài viết này ghi nhận rằng lúc bấy giờ trên Chính Luận, Võ Phiến dưới bút hiệu Thu-Thủy đã phê bình giải không xứng đáng. Ngược lại, Hoàng Ngọc Tuấn (tác giả Hình Như Là Tình Yêu) trên tạp chí Thời-Tập số 15 (30-11-1974) lại khen phục cuốn BTS này “sáng tác rất công phu“, “kỹ thuật cao và khéo léo … đích thực là một tác phẩm văn chương đúng nghĩa” (tr. 79).

(7) Sông Côn Mùa lũ, 4 tập. Mai Quốc Liên giới thiệu, Đỗ Minh Tuấn viết Tựa bìa. 1998. 2008 tr. Chúng tôi xử dụng bản An-Tiêm, 1990, 1942 trang truyện.

(8) Xem tùy bút của Nam Dao “Một vị thuốc đắng, một vị thơ” Hợp Lưu, 52, 4&5-2000, tr. 116-133. Về Hội Việt kiều “yêu nước” và “đoàn kết“, xem Nhị Khuê. “Điểm sách The Vietcong Front in Quebec” Tạp chí Liên Hội (Ottawa), 19, 6-1987, tr. 28-32. Các báo, tạp chí và ấn phẩm “phản chiến” và “pro-Vietcong” hiện còn tàng trữ ở các National Library of Canada ở Ottawa, Bibliothèque nationale du Québec ở Montreal và đại học Cornell (NY), Hoa Kỳ.

(9) Lukács, Georg. The Historical Novel. Lincoln: University of Nebraska Press, 1983. p. 24.

(10) Bản dịch Ngô Tất Tố (Sài-Gòn : Phong Trào Văn hóa tb, 1958), tr. 104 và 103.

(11) Phạm Văn Sơn. Việt Sử Tân Biên, q. 4. Sài-Gòn: Tác giả xb 1961, Đại-Nam tb, tr. 247. Thù oán và phong thủy khiến Nguyễn Ánh cũng vậy, do đó mà nay không còn mồ mả anh em Tây Sơn và cả vua Cảnh Thịnh.

(12) Lan Cao. Monkey Bridge. New York: Viking, 1997. 260 p.

(13) “Nhìn lại những trang viết cũ”. Văn Học (CA), 167, 3-2000, tr. 34-57.

(14) Xã Hội Việt Nam : Việt Nam Tiến Hóa Sưû. Sài-Gòn : Hoa Tiên tb, 1971, tr. 66-67.

(15) “Phải chăng nhân vật Nguyễn Huệ qua lịch sử đã được tôn vinh quá lố?” Ngày-Nay (Houston) 377, 1-11-1997, tr. B3-4 (Cùng nội dung bài “Về một vấn đề lịch sử”, Thông Luận, 108, 10-1997).

(16) Tranh luận chung quanh cuốn Đối-Thoại Lịch Sử của Bùi Thiết và sáu tác giả. Hà Nội : Thanh Niên, 2000. Và quanh thuyết về 2 hoặc 5 ngàn năm văn hiến, đế Minh họ Nguyễn, v.v..

(17) Lukács, G. Sđd. Lukács tỏ ra độc tài lý luận khi nhận vơ tiểu thuyết lịch sử vốn phải là cách mạng, đề cao vai trò quần chúng, vì theo ông cuộc cách mạng từ 1789 đến thất bại của Napoléon là những kinh nghiệm sống thật của đại chúng (mass experience, tr. 23). Cho nên ông phản đối ảnh hưởng của lãng mạn tức của giới quí phái và tiểu tư sản phản động. Ông nặng nề phê phán E. Erckmann và A. Chatrian khi viết về Cách mạng Pháp đã sai lầm chính trị rơi vào cái bẫy vinh danh dễ dàng sự hồn nhiên thần túy của quần chúng (tr. 206-220). Ngày nay người ta phê ông lợi dụng lịch sử cho ý thức hệ!

http://nghiencuulichsu.com/2014/10/20/ve-tieu-thuyet-lich-su/

Comments are closed.