Khế Iêm
TWELVE
I was twelve when I murdered for silence.
The senile hero from number nine
trained me to shoot straight.
Silence played a deeper tune
than my father’s violin,
its bullets swifter and cleaner
than any note his dusty bow could fire.
So I shot this thrush in its hedge,
allowing it one last song –
the lullaby my mother sang,
my sister’s piccolo in flight …
before silencing it
and something else, forever.
I watched it fall through its cage,
the instinct to sing
still alive in its wings,
then listened again.
A sea wind
bowed the field of reeds beyond.
TUỔI MƯỜI HAI
Tôi chọn sự im lặng vào lúc tôi mười hai tuổi.
Người cựu chiến binh bị lãng quên nơi ngôi nhà số chín
dạy tôi cách bắn chuẩn.
Sự im lặng chơi một giai điệu sâu lắng
hơn cây đàn vĩ cầm của cha tôi,
những viên đạn của nó nhanh và gọn hơn
bất cứ nốt nhạc nào của cây kéo đàn đầy bụi có thể bật ra.
Như vậy tôi đã bắn con chim sơn ca này trong bờ rào của nó,
cho phép nó một tiếng hót cuối cùng –
bài hát ru của mẹ tôi hát,
tiếng sáo piccolo của chị tôi bay bổng…
trước khi im lặng nó
và điều quan trọng nữa, mãi mãi.
Tôi đã nhìn nó rơi qua cái lồng,
bản năng để hót
còn tồn tại trong đôi cánh đập,
rồi sau đó lắng nghe lần nữa.
Cơn gió biển
làm oằn cánh đồng sậy bên kia.
*Ghi chú
Đến một lứa tuổi có những bất bình với gia đình, cha mẹ, một số trẻ em thường chọn sự im lặng để biểu lộ thái độ của mình. Bài thơ nói về điều đó. Con chim sơn ca, bờ rào là những ẩn dụ về một thời tuổi thơ đã bị bóp nghẹt.
AT PENLLAIN
One night, when the sorrow of my family
met the sorrow of yours,
I slept on the landing outside your door,
heard your children talk in their dreams.
Inside the wardrobe in your room
your yellow beachdress –
the sun confined to darkness –
waited for the dawn.
And I tried
so hard to hear what they said,
your children, to learn
which pieces of love get washed up
on which shores and why
but I mistook the darkness for my home
and felt the sleep of home, and slept.
Ở PENLLAIN
Một đêm, khi nỗi âu sầu của gia đình tôi
gặp nỗi ưu sầu của gia đình em,
tôi đã ngủ ở đầu cầu thang ngoài phòng ngủ của em
nghe những đứa con em mơ ngủ.
bên trong tủ áo trong phòng em
bộ quần áo đi biển màu vàng –
mặt trời bị nhốt trong bóng tối –
chờ đợi bình minh.
Và tôi cố
lắng nghe chúng nói gì,
những đứa con em, để hiểu xem
những việc gì chúng nhớ được
trên bãi biển và tại sao
nhưng tôi tưởng lầm trong bóng tối là bóng tối ở nhà tôi
và cảm thấy giấc ngủ là giấc ngủ ở nhà tôi, và thiếp ngủ.
* Tiếng nói trong bài thơ là của người đàn ông bỏ gia đình đến ngủ nơi căn nhà người đàn bà có chồng đã bỏ đi. Giấc ngủ của những đứa trẻ làm ông nhớ tới những đứa con của mình. Ông yêu người đàn bà. Nỗi buồn ông mang đến ngôi nhà gặp nỗi cô đơn của người đàn bà sống một mình với những đứa con. Ngôi nhà ở đây cũng có thể là trái tim. Chúng ta có thể sống nơi căn nhà mà không thật sự là nhà vì nơi đó không có tình yêu.
SOLD
Others want this house and soon
we must either leave or stay.
Is it the house or love
we are moving out of ?
Perhaps we cannot say
but it hurts, all afternoon
our marriage has moved inside me –
the boys, the prints on the stairs,
the broken down cars, the holidays
in heaven and hell, long Saturdays
in market towns, mad neighbours …
I pick you a pear from the tree
but you have disappeared again
into that silence you inhabit,
your second home, where a whisper
might fall heavily to the floor –
an incendiary, pear-shaped
and loaded with pain.
Shall we stay or leave then, love?
It’s only the years moving inside us
and everything hurts in autumn.
Where shall we put them,
the years, in our new house?
the years we are moving out of ?
BÁN
Những người khác muốn căn nhà này và chẳng mấy chốc
chúng tôi phải rời đi hay ở lại.
Đó có phải là căn nhà hay tình yêu
chúng tôi đang dọn ra?
Có lẽ chúng tôi không thể nói
nhưng chúng tôi bị tổn thương, suốt buổi chiều
cuộc hôn nhân của chúng ta dọn vào bên trong tôi –
những đứa con trai, những dấu vết trên cầu thang,
những chiếc xe hỏng, những kỳ nghỉ
trong thiên đường và địa ngục, những ngày thứ Bảy dài
trong phố chợ, những người láng giềng điên rồ…
Tôi hái cho em một trái lê trên cây
nhưng em đã biến mất một lần nữa
trong sự im lặng em trú ngụ,
căn nhà thứ hai của em, nơi một tiếng thì thầm
có thể rơi mạnh trên nền nhà –
một trái bom lửa, hình dạng trái lê
và được nạp với khổ đau.
Lúc bấy giờ chúng ta sẽ ở lại hoặc rời đi, tình yêu?
Đó chỉ là những năm dọn vào bên trong chúng ta
và mọi thứ làm khổ chúng tôi vào mùa thu.
Chúng ta sẽ đặt chúng nơi đâu,
những năm, trong căn nhà mới?
những năm chúng ta dọn ra?
GESTURES
I could, of course,
walk to your house
and die on its step.
Warm from your bed,
mistaking my rattling
teeth for the milk
you’d open the door
in pink slippers
and find me lying there
with one eye open.
*
I spy … the last star
to disappear
through a giant curler in your hair.
*
In your absence
which is the rest of my life
and unlike Archimedes
who calculated the earth’s mass
in grains of sand
I will devote my sentence
to counting the minutes
as they fall
through the hourglass of your days.
*
The cat idles on my chest.
I hold your letter up to the sky.
How to decipher
your feline y’s, crucified t’s
open-topped a’s and o’s?
The cloudy watermark
becomes a woman’s face.
*
I want you close before I go.
I want you in the fire’s glow
then outside in the graveyard’s dirt.
I want you where the tide is low
and the sea’s lips barely part
for breath to say “I told you so.”
I want you close before I go.
*
I’ve made you my password.
Your name lets me in each day,
your name and your age.
Absurd, how these plastic keys
diminish you, stay silent
when your name is played
and how easily, without knowing,
you let me in each day.
*
Once I whispered in your ear
in the shrubbery of a summer.
Remember?
I even bought you a ring.
That was something.
Can you hear me singing
at the kiss-gate still,
at the sea wall?
Did we meet at all?
*
Here’s something cold for you –
the intelligence of water.
(I should like to see you shiver).
Lay down in its equation.
It will soon work you out,
intricately at first, then harder
lifting your back from the bed
so you’re half-fish, half-woman.
Years after you’ve surfaced
shivering, golden, I’ll be here,
student of the river
the cold pool where you lay.
*
It must have happened years ago,
this light between us, this hurt.
I want you close before I go.
*
In the fire’s glow,
in the graveyard’s dirt,
where the tide is low …
*
Who will console this room
now that you’ve come and gone?
The wind in the chimney?
The smouldering grate?
The last star
in its universe burns
then disappears.
from ‘Ingrid’s Husband’ (Seren)
ĐIỆU BỘ
Tôi có thể, dĩ nhiên,
tới nhà em
và chết trên bậc cửa.
Vừa mới thức giấc,
Nghe tiếng tôi đang ngáp chết
khi ra ngòai lấy sữa.
Em mở cửa
mang đôi dép màu hồng
và thấy tôi đang nằm đó
với một con mắt mở.
*
Tôi dõi theo… ngôi sao cuối cùng
cho đến khi biến mất
xuyên qua ống cuộn lớn trong tóc em.
*
Trong sự vắng mặt của em
là sự yên nghỉ của đời tôi
và không giống như Archimedes
đo khối lượng trái đất
bằng những hạt cát
tôi sẽ dành hết câu chữ của tôi
để đếm từng phút
chúng rơi
qua đồng hồ cát thời sung mãn của em.
*
Con mèo nhàn nhã trên ngực tôi.
Tôi giơ lá thư của em hướng lên bầu trời.
Làm sao giải đóan
chữ y giống như con mèo của em, chữ t giống như hình
thập tự giá
những khỏang cách ở đầu chữ a và o trông giống như một lọai xe thể thao?
Hình ẩn trong mây
làm thành khuôn mặt người đàn bà.
*
Tôi muốn gần em trước khi tôi đi.
Tôi muốn em trong ánh lửa đỏ
sau đó ở ngòai, trong đất nghĩa trang.
Tôi muốn em nơi thủy triều xuống
và phần hiếm hoi giữa sóng cao và thấp của biển
để thì thầm nói, “Tôi đã bảo em thế.”
Tôi muốn gần em trước khi tôi đi.
*
Tôi biến em thành mật khẩu của tôi
tên em cho tôi vào máy computer mỗi ngày,
tên em và tuổi em.
Vô lý, làm sao những bàn phím bằng nhựa này
thu nhỏ em, yên lặng
khi tên em được đánh lên
và làm sao dễ dàng, không biết được,
em cho tôi vào máy computer mỗi ngày.
*
Có lần tôi đã thì thầm bên tai em
trong một bụi cây vào mùa hè.
Nhớ không?
Thậm chí tôi đã mua cho em một chiếc nhẫn.
Đó là điều ý nghĩa.
Có thể nào em nghe tôi vẫn đang hát
nơi lối cổng hôn nhau từ biệt,
nơi con đê chắn sóng?
Chúng ta đã gặp nhau đó chăng?
*
Ở đây có gì lạnh với em –
Cách thấm tràn của nước.
(Tôi thích nhìn em run rẩy).
Nằm xuống trong sự kỳ diệu của nước.
Chảy vào mọi phần cơ thể,
mới đầu rắc rối, sau đó khó
nhấc lưng ra khỏi giường hơn
như thể em là nửa cá, nửa đàn bà.
Nhiều năm sau em thức dậy
run rẩy, da ánh vàng, tôi sẽ ở đây,
người học trò của dòng sông
hồ nước lạnh nơi em nằm.
*
Điều đó phải xảy ra nhiều năm trước,
ánh sáng này giữa chúng ta, sự khổ đau này.
Tôi muốn gần em trước khi tôi đi.
*
Trong ánh lửa đỏ,
trong đất nghĩa trang,
nơi thủy triều thấp …
*
Ai sẽ đồng cảm với căn phòng này
bây giờ mà em đã đến và đi?
Gió trong ống khói?
Lò sưởi âm ỉ?
Vì sao cuối cùng
trong vũ trụ cháy
rồi biến mất.
THE BLACK GUITAR
Clearing out ten years from a wardrobe
I opened its lid and saw Joe
written twice in its dust, in a child’s hand,
then a squiggled seagull or two.
Joe, Joe
a man’s tears are worth nothing,
but a child’s name in the dust, or in the sand
of a darkening beach, that’s a life’s work.
I touched two strings, to hear how much
two lives can slip out of tune
then I left it,
brought down the night on it, for fear, Joe
of hearing your unbroken voice, or the sea
if I played it.
GHI TA ĐEN
Dọn dẹp tủ quần áo sau mười năm
tôi mở nắp hộp đựng đàn và thấy chữ Joe
viết hai lần trong lớp bụi, bằng bàn tay trẻ con,
sau đó là nét tháu hình một cánh chim hải âu hoặc hai.
Joe, Joe
nước mắt của người đàn ông chẳng giá trị gì,
nhưng tên của đứa trẻ trong lớp bụi, hoặc trong cát
nơi một bờ biển quá khứ, đó là tác phẩm đời.
tôi chạm hai sợi dây, để nghe xem bao nhiêu
hai cuộc đời có thể vuột khỏi giai điệu
rồi tôi bỏ đó
đóng nắp hộp đàn lại, vì sợ, Joe
sợ phải nghe giọng êm đềm của mi hoặc của biển cả
nếu tôi gảy nó lên.
THREE TREES
for J, J& I
I planted three trees, for privacy
and for feeling near to the soil.
Three ferns, two a fairer shade
of green, the middle one a clone
of my father’s dark spire.
(One Spring, he swapped his violin
for a spade).
I planted three trees.
Leisurely climbers, I loved them,
suddenly taller when I turned
to look at them again.
Perhaps I planted them too close.
The wind blows in from the sea
and they seem to conspire
against me.
I planted three trees.
It snows. Sand hurries
through the kitchen’s hourglass.
I am nearer the soil
than ever I intended to be.
Above me
three, fern-haired men
point to the cold stars,
all is silence, but for a spade
played out of key.
from ‘Ingrid’s Husband’ (Seren)
BA CÂY
Tặng J, J& I
Tôi trồng ba cây, cho riêng tôi
và cho cảm giác gần với đất.
Ba cây dương xỉ, hai cây màu xanh
nhạt, cây ở giữa giống hệt
ngọn tháp đen của cha tôi.
(Một mùa xuân, ông đổi cây vĩ cầm
lấy một cái xẻng).
Tôi trồng ba cây.
Các chàng leo trèo nhàn nhã, tôi thích chúng,
bất thình lình chúng cao hơn khi tôi
quay lại nhìn lần nữa.
Có lẽ tôi trồng chúng quá gần.
Gió thổi vào từ biển
và hình như chúng cùng nhau
chống lại tôi.
Tôi trồng ba cây.
Tuyết rơi. Cát chảy vội
qua đồng hồ cát ở nhà bếp.
Tôi gần đất
chưa từng bao giờ gần hơn.
Ở trên tôi
ba ông dương xỉ um tùm lá
chỉ tới những vì sao lạnh,
tất cả im lặng, nếu không có cái xẻng
chơi bản nhạc ngòai cung điệu.
*Chú thích
Bài thơ nhiều ẩn dụ, tác giả trồng 3 cây dương xỉ để so sánh với đời mình. Thời gian trôi qua mau. Ba cây dương xỉ từ 3 chàng trai thành 3 người đàn ông, đến lúc đó thì tác giả cũng đã gần đất xa trời. Cái xẻng liên hệ tới chuyện đào đất.
THE SNOW DOME
First sun, then snow … my father floats up the lane
in white jeans, a white rose in his claw.
He cuts a Lear-like figure, drifting alone
through the sun and snow.
‘Wherever your mother goes, I follow,’
he mutters, brushing the icing from her stone,
its doorstep to a colder house. It snows
and shines about our ornamental scene.
We can’t see for the petals of the rose.
He says she kissed his bald head in the lane,
first with sun, then snow.
from ‘Ingrid’s Husband’ (Seren)
* Paul Henry is one of Wales’s leading poets. Described by the late U.A. Fanthorpe as “a poet’s poet” who combines “a sense of the music of words with an endlessly inventive imagination”, he came to poetry through songwriting. His work has been wide¬ly anthologised and regularly appears in journals as diverse as New Welsh Review and The TLS. Mari d’Ingrid, a translation of his fifth collection, Ingrid’s Husband, recently appeared from L’Harmattan and The Brittle Sea, New & Selected Poems has just been published by Seren. Henry has read at festivals in the UK, Europe, the USA and in India.
A Fellow of the Welsh Academy and popular Creative Writ¬ing tutor, he ran the Ledbury Festival’s Poetry Cafe at Hereford’s Courtyard theatre and is a regular tutor at Ty Newydd, Wales’s national writers’ centre. He occasionally teaches Creative Writing at the University of Glamorgan and has edited Poetry Wales. He recently presented the Inspired series of arts programmes for BBC Radio Wales and also Do Not Expect Applause, his pro-gramme on the Scottish poet W.S. Graham, for BBC Radio 3.
VÒM TUYẾT
Đầu tiên là nắng, rồi thì tuyết … cha tôi bồng bềnh qua
con đường hẹp
trong chiếc quần jean trắng, cầm bông hồng trắng trong tay.
Ông đứng có hình dáng của vua Lear, trôi một mình
qua nắng và tuyết.
“Bất cứ mẹ con tới đâu, cha đi theo,”
ông lầm bầm, quét lớp băng phủ trên bia mộ,
bậc cửa vào một căn nhà lạnh hơn. Trời đổ tuyết
và chiếu sáng khắp cảnh tượng trang trí của chúng tôi.
Chúng tôi không thể nhìn vì những cánh hoa hồng.
Ông nói bà đã hôn trên cái đầu hói của ông trong
con đường hẹp,
đầu tiên với nắng, rồi thì tuyết.
* Joe có thể là tên thời thơ ấu của tác giả và hai cuộc đời có lẽ là cuộc đời bây giờ và cuộc đời thuở thiếu thời (ghi chú của người dịch).
* Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca. Tác phẩm của ông được tuyển tập rộng rãi và xuất hiện thường xuyên trên các tờ báo thơ đa dạng như New Welsh Review và The TLS. Mari d’Ingrid, bản dịch tuyển tập thứ 5 của ông, Ingrid’s Husband, mới xuất hiện trên L’Harmattan và The Brittle Sea, New & Selected Poems được xuất bản bởi Seren. Ông đã đọc thơ tại các liên hoan ở Anh, Mỹ, và Ấn độ.
Ông là thành viên của Viện Hàn lâm Welsh và là một nhà phụ giảng nổi tiếng trong các lớp Viết văn, phụ trách Ledbury Festival’s Poetry Cafe ở nhà hát Hereford’s Courtyard và là người phụ giảng ở Ty Newydd, trung tâm những nhà văn của Wales. Ông thỉnh thỏang dạy ở lớp Viết văn của Đại học Glamorgan và đã biên tập Poetry Wales. Mới đây ông phụ trách chương trình Inspired nhiều kỳ về nghệ thuật cho đài BBC Wales và Do Not Expect Applause, chương trình của ông về nhà thơ Tô Cách Lan W.S. Graham, cho đài BBC 3.