Tin Lưu Hiểu Ba mất, tôi gửi đến Văn Việt hai bài thơ Anh thư và Malala tôi làm khi Aung San Suu Kyi còn bị kềm chế và Malala Yousafzai chưa được giải Nobel Hoà bình như để tri ân những người sống vì lý tưởng tự do, tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ.
Lê Thị Thấm Vân
anh thư
chẳng phải cánh gà, xương bò, đùi heo, đầu cá để gặm nhắm
mà là viên đạn quân phiệt khó lòng nhai.
thõng tay đi trước hàng loạt họng súng đang chĩa,
khoảng cách khác biệt giữa kẻ cầm súng và kẻ trắng tay.
là lãnh tụ tranh đấu dân chủ
là biểu tượng của hy vọng, quả cảm, can trường
là sự hy sinh to tát
là tấm gương tranh đấu nhân quyền.
“vui cũng chết, buồn cũng chết, vậy sao không vui?”
“sống một cách phóng khoáng và chết một cách phóng khoáng.”
ai đó ngoài kia cười nói râm ran.
hai mươi năm thầm thì cùng những trang sách. sắp xếp ý/suy tưởng trong đêm. ôm ấp mộng dữ mộng lành. và luôn giữ sóng lưng thẳng.
kiên trì chống lại bức tường u tối,
mong nhìn thấy ánh sáng soi rọi.
mùi hoa xứ miến điện bám trên từng kẽ tóc. đưa ngón tay áp út sờ rốn. dấn thân vào đường tranh đấu, không được nghe tiếng chân con đi học về trước cửa, không được nghe hơi thở chồng nặng nhẹ đêm khuya.
đành dỗ lòng mình vậy. hai mươi năm xa cách. lũ chuột vẫn không ngừng tru tréo. ngôn ngữ câm lặng. “she gives me hope.” chia sẻ, ủng hộ bởi những con chim và quả bóng bay.
phá tan gông cùm khiếp sợ. khiếp sợ không đồng hành tự do. khiếp sợ đồng nghĩa bạc ác. khiếp sợ mở ngỏ quyền lực. khiếp sợ mời gọi tha hóa. khiếp sợ hủy diệt nhân ái.
khiếp sợ một ngày không còn nhận ra mình.
“hãy dùng tự do của các bạn để thúc đẩy tự do của chúng tôi.”
nếu phải, không đứng yên, hãy lượm đá, nồi niêu, lon, chổi… liệng vào đám hiếu chiến.
nếu phải, không ngồi yên, hãy múc nước tạt vào đám cháy.
và nếu cần, nên yên lặng, nổ lực nhẫn nại phản kháng.
chọn con đường đấu tranh bất bạo động lắm gian nan tốn thời gian.
đàn bọ cạp cõng lửa diễn hành ngoài ngõ
trong này, mảnh trời xanh rọi soi mặt giếng trong.
dân chủ là tôn trọng quyền người khác. dân chủ là tranh đấu cho quyền của mình. dân chủ là đa nguyên. dân chủ là dân quyền. dân chủ là mọi người được quyền bình đẳng. bài học lịch sử cho thấy không ai tự động dâng tặng tự do dân chủ mà phải tranh đấu giành lấy.
vạt cỏ dại bên kia bức tường sắt. bóng tối âm âm u u. khi mọi thứ tĩnh lặng ở bề mặt, vẫn luôn có sự chuyển động bên dưới.
ôi, hãy yêu thương con người, kẻ đồng hành vai gánh nặng nỗi khổ đau.
tiếng thở hắt của con chó hoang trên triền dốc trước rạng đông. đuôi mang theo cơn lốc xoáy. sót lại những xác thây ung mủ tiền nhân. hốc mắt ủ giòi, họng hả kêu gào. dùi cui, lựu đạn, bắt bớ, giam cầm. những đứa bé chưa chào đời đã bị thiến.
trong đêm nóng nực, ngồi tựa phên lá, ngỡ đang xếp những cái t-shirt cho chồng cho con cho mình. tất thẩy cuộn ủ hơi hướm của nhau. thực tại, bầu bạn cùng ruồi-muỗi-nhện-kiến-sâu-mối-mọt. chúng khích lệ và thương cảm.
tấm mùng mộng ảo lung lay nghe tiếng con thầm thì con thương mẹ con cần mẹ con nhớ mẹ lắm lắm…
mưa lâm râm trên võng – trong mắt ai – đang nằm lặng yên – chiếu giường mền gối đợi chờ cánh tay ấm nồng da thịt nối dài xuyên lục địa.
khăn liệm, cổ áo quan chùi nước mắt. ôi da thịt người tình trăm năm đã vĩnh viễn lìa xa ta ở kiếp này.
nhìn ra ngoài nắng – chiều kích mười ngón tay đan xòe – ầu ơ lời ca dân tộc – giọng điệu bi hùng hòa cùng tiếng cánh cửa rỉ sét
tù nhân lương tâm ngay trên mảnh đất chôn chặt cuống rốn.
nhựa đọt chuối nhỏ giọt
đắm chìm nổi trôi
sự khốn cùng xứ sở trong cơn hấp hối.
dân chủ, nhân quyền, tự do
sao môi ai cũng lạnh tanh kim khí?
điệu nhạc hành quân man rợ.
hoa sứ tàn dần
rụng rơi trên thân thể mỏng tanh
bóng đèn ăn dần ánh trăng
trên nền đất nện
gió tháng tư luồn thổi tán dừa đong đưa
đấu tranh không có tuổi hưu trí.
buộc lại mái tóc, chợt nhớ bữa ăn cuối cùng có
chồng bên phải con bên trái
ôi, (như thể) chưa có gì
hai mươi năm chấm dứt đoạn trường.
người dân vẫn
bị cắt lưỡi, móc mắt, bao tử chứa độc không khí
vật vờ trong trời đêm.
* * *
chúng tước sạch những gì bà sở hữu,
ngoại trừ: hy sinh, bình tâm, can trường.
2/2009
malala
“Don’t worry, Baba. I am going to be fine and victory will be ours.” (*)
ngày thứ sáu giữa tháng mười năm 2012
lái xe băng qua xa lộ 280 north
mưa lướt thướt, cây cối ủ rũ
xe nối liền xe
trong tôi ưu buồn pha chan phẫn nộ
thứ tôi gắng rũ bỏ nhiều năm nay
malala malala malala
viên đạn taliban gắp ra từ cơ thể
đang dậy thì
malala sẽ bình phục
ngẩng mặt ngang nhiên đến trường
không để học
mà để dạy nhân loại bài học dũng cảm
malala là tia sáng trên vòm trời âm u
malala làm bao trái tim mềm nhũn và khối óc bung mở
mọi màu da xếp hàng ngả mũ trước nụ cười nhân từ và ánh mắt trong veo
thung lũng swat
in dấu chân malala
những thân cây
lắng nghe nhịp thở malala
từ điển nhân loại định nghĩa malala
là tranh đấu cho quyền của mình và quyền của những bé gái khác
được tung tăng đến trường
quyền làm người tự do
malala làm đàn bà nghĩ lại
đàn ông nghĩ lại rằng đàn ông học được
thì đàn bà cũng học được
malala không để nửa số óc não của loài người phí phạm
biến thành bụi tro
trong tay malala không có súng, sau lưng malala không đảng phái hộ tống
malala không ham “tử vì đạo” để lãnh tấm vé vào cửa thiên đường
malala cũng chẳng cột bom vào thân mình để tiêu hủy kẻ khác
như con người vẫn thường giết nhau cho những đấng thần linh không hề hiện hữu
tôi đến từ xứ sở có lịch sử chiến tranh nhiều hơn hòa bình
bom đạn giới nghiêm bắt bớ chém giết giam cầm dọa nạt
vì thế, tôi thấm thía
cái đầu bị chặt bất cứ lúc nào
nay nhân loại có malala
với hai cánh tay có mười móng hồng thắm
để nương vịn, khi cần
(*) Malala
6/2012