Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 26): Phillip A. Ellis (tiếp)

 Khế Iêm

JUDAS EVANGELIUM

 

What shall I say to save my soul this day?

          You think me evil now, what of before?

          When I seek salvation, you slam the door

straight in my face; nauseous and grey,

          what shall I say?

 

          You drive me out, the trees above me draw

me close, to scale, to climb and clamber away

with rope around my neck, to pad away,

          to fall into the grey, betray my friends no more.

 

And this, my final will, won’t last for long nor stay:

          my breath’s confession lies within, to bore

          whoever cons from now to evermore,

from puzzled youth, to old and wise, or fey –

          what shall I say?

 

JUDAS, PHÚC ÂM

 

Tôi sẽ nói gì để cứu vớt linh hồn tôi hôm nay?

          Bạn nghĩ tôi xấu xa, vậy đã nghĩ gì về tôi trước kia?

          Khi tôi tìm kiếm sự cứu rỗi, bạn đã đóng sầm cửa lại

ngay trước mặt tôi; buồn chán và ảm đạm,

          tôi sẽ nói gì?

 

          Bạn đẩy tôi ra, cây cối kéo tôi lên

cân nhắc, trèo, leo, quằn quại

với dây thừng quanh cổ, đi rón rén,

          trở nên ảm đạm, không phản bạn nữa.

 

Và đây, ý chí cuối cùng của tôi, sẽ không ở lâu hay lưu lại:

          lời thì thầm thú tội nằm bên trong, làm chán ngán

          bất cứ ai học từ bây giờ tới mãi mãi,

từ tuổi trẻ mù tịt, tới già và khôn ngoan, hoặc phù phiếm –

          điều gì tôi sẽ nói?

 

A BUSH MEDITATION

 

The pardalotes have rustled through the grass,

until their tracks have twisted, with the dust

that fades into a spray of greying dirt

that, dumped on the steps, patters under foot

and shoe, that sinks into one’s socks, when worn

alone; and I know nothing of these tracks

that have passed, twisting through the grass that grows

around the worn wood of the house, that’s faded, greyed.

 

I am no hunter, nothing of the sort:

the feral cats are calling round about

my house, when night is hunched over my tea

with its retinue of stars, as I am freed

from twilight, as the day had to die down

with fading light, like eyes of dying pardalotes.

 

* pardalote: a species of small Australian birds

 

TRẦM TƯ VỀ BỤI GAI

 

Những con chim Úc sột soạt xuyên qua bãi cỏ,

cho đến khi lối đi của chúng xoắn lại, với bụi

mờ nhạt trong khoảng mù bay của đất màu xám,

thứ bụi đất lẹt xẹt dưới chân hay dưới giày,

đổ trên bước chân, lọt vào vớ nếu chỉ mang vớ;

và tôi không biết gì về những lối đi này

đã qua, xoắn lại xuyên qua bãi cỏ mọc

chung quanh cánh rừng xơ xác của ngôi nhà, mờ nhạt, xám xịt.

 

Tôi không phải thợ săn, không phải là thứ:

những con mèo hoang đang quanh quẩn gần

nhà, khi đêm khom mình trên tách trà của tôi

với đoàn tùy tùng là những vì sao, như tôi đã

thoát khỏi hoàng hôn, như ngày phải tắt dần

với ánh sáng tàn phai, giống đôi mắt

của những con chim Úc lúc chết.

 

A FINE POEM TO GLOW IN

 

I have considered night, and dreams

that die in the day, like wisps of darkness,

shadows that shrink into the earth

with the rising of the sun at dawn.

 

I have been thinking of how the shapes

of objects at dawn are revealed as the light

opens its eyes, and slowly grows

it gaze over the wakening earth.

 

No more do I roam the false dawn streets,

when the swallows clamour, chattering shrilly

over the seaside avenues, pines

that grasp the salt air with their hands.

 

And the green of the land, and greener water

filling the shallows with breaking waves,

and the green in my eyes and the green in my heart

shall find a fine poem to glow in.

 

ĐỂ RỰC SÁNG MỘT BÀI THƠ HAY

 

Tôi coi như đêm, và giấc mơ

chết trong ngày, như những vệt tối,

những cái bóng thu về trái đất

với mặt trời mọc lúc bình minh.

 

Tôi đang suy ngẫm làm sao những hình dạng

của vật thể lúc bình minh được phát hiện khi ánh sáng mặt trời

mở đôi mắt của chúng, và chậm chạp làm tăng

cái nhìn đăm đăm của chúng qua trái đất đang thức dậy.

 

Không còn chăng tôi lang thang trên con đường tờ mờ sáng,

khi những con chim én huyên náo, ríu rít

trên đại lộ ven biển, những cây thông

hứng lấy không khí mặn nơi tàn lá.

 

Và màu xanh của đất, màu xanh của nước

tràn lên chỗ nước cạn với những đợt sóng vỡ,

và màu xanh trong mắt tôi, trong trái tim tôi

sẽ tìm ra một bài thơ hay để rực sáng.

 

CHURCHILL

 

In the valleys, the fire

is now catching at grasses:

 

it is whispering, bringing

up the smoke it has spun

 

in the skies of the morning,

in its voices the voices

 

of the people who died here,

in the land I was born in,

 

in the shadow of mountains,

in the wake of its gathering.

 

* Churchill: a country town in rural Victoria, near my birthplace of Tra­ralgon

 

CHURCHILL

 

Trong những thung lũng, lửa

đang bắt cỏ:

 

lửa thì thầm

cuộn khói

 

trong bầu trời buổi sáng,

trong giọng nói của lửa

 

của con người đã chết ở đây,

nơi mảnh đất tôi sinh ra,

 

trong bóng những ngọn núi,

tiếp nối sự tập hợp của lửa.

 

DEAD, WHITE WOOD

 

Out of the futile grasp

of ghost-white ghost gums,

a cold moon rising,

coloured the hue

of cold smoke furling in flat,

florescent shapes

that were formed beneath

an overarching lamp

falling asleep in the declining

hours of sinking mercury,

and sleepiness settling

like emptied dreams

lazily turbulent

as from cigarettes,

ash-grey as moons

in ghost gums’ ringbarked grasps,

I dream of the trees

marching towards me,

an orchard of dead, white

wood.

 

KẺ CHẾT RỪNG TRẮNG

 

Thoát ra khỏi sự nắm bắt

vô vọng của những cây bạch

đàn ma – ma trắng một mặt

trăng lạnh nhô lên tô điểm

sắc thái một làn khói lạnh

gợn theo bề mặt tạo thành

những hình dạng huỳnh quang bên

dưới ngọn đèn trăng bao quát

như ai đó thiếp ngủ lúc

nửa đêm về sáng khi hàn

thử biểu xuống thấp thấm lạnh

và sự ngái ngủ làm thư

giãn như những giấc mơ trống

rỗng lộn xộn một cách uể

oải được nhả từ khói của

những điếu thuốc lá đầu ngày

và màu xám tro không khác

gì những mặt trăng phản ánh

từ những khoang nhẫn của vỏ

những cây bạch đàn ma, tôi

mơ những cây bạch đàn ấy

bước đều về phía tôi, vườn

cây của kẻ chết, rừng trắng.

 

 

Comments are closed.