Khế Iêm
JUDAS EVANGELIUM
What shall I say to save my soul this day?
You think me evil now, what of before?
When I seek salvation, you slam the door
straight in my face; nauseous and grey,
what shall I say?
You drive me out, the trees above me draw
me close, to scale, to climb and clamber away
with rope around my neck, to pad away,
to fall into the grey, betray my friends no more.
And this, my final will, won’t last for long nor stay:
my breath’s confession lies within, to bore
whoever cons from now to evermore,
from puzzled youth, to old and wise, or fey –
what shall I say?
JUDAS, PHÚC ÂM
Tôi sẽ nói gì để cứu vớt linh hồn tôi hôm nay?
Bạn nghĩ tôi xấu xa, vậy đã nghĩ gì về tôi trước kia?
Khi tôi tìm kiếm sự cứu rỗi, bạn đã đóng sầm cửa lại
ngay trước mặt tôi; buồn chán và ảm đạm,
tôi sẽ nói gì?
Bạn đẩy tôi ra, cây cối kéo tôi lên
cân nhắc, trèo, leo, quằn quại
với dây thừng quanh cổ, đi rón rén,
trở nên ảm đạm, không phản bạn nữa.
Và đây, ý chí cuối cùng của tôi, sẽ không ở lâu hay lưu lại:
lời thì thầm thú tội nằm bên trong, làm chán ngán
bất cứ ai học từ bây giờ tới mãi mãi,
từ tuổi trẻ mù tịt, tới già và khôn ngoan, hoặc phù phiếm –
điều gì tôi sẽ nói?
A BUSH MEDITATION
The pardalotes have rustled through the grass,
until their tracks have twisted, with the dust
that fades into a spray of greying dirt
that, dumped on the steps, patters under foot
and shoe, that sinks into one’s socks, when worn
alone; and I know nothing of these tracks
that have passed, twisting through the grass that grows
around the worn wood of the house, that’s faded, greyed.
I am no hunter, nothing of the sort:
the feral cats are calling round about
my house, when night is hunched over my tea
with its retinue of stars, as I am freed
from twilight, as the day had to die down
with fading light, like eyes of dying pardalotes.
* pardalote: a species of small Australian birds
TRẦM TƯ VỀ BỤI GAI
Những con chim Úc sột soạt xuyên qua bãi cỏ,
cho đến khi lối đi của chúng xoắn lại, với bụi
mờ nhạt trong khoảng mù bay của đất màu xám,
thứ bụi đất lẹt xẹt dưới chân hay dưới giày,
đổ trên bước chân, lọt vào vớ nếu chỉ mang vớ;
và tôi không biết gì về những lối đi này
đã qua, xoắn lại xuyên qua bãi cỏ mọc
chung quanh cánh rừng xơ xác của ngôi nhà, mờ nhạt, xám xịt.
Tôi không phải thợ săn, không phải là thứ:
những con mèo hoang đang quanh quẩn gần
nhà, khi đêm khom mình trên tách trà của tôi
với đoàn tùy tùng là những vì sao, như tôi đã
thoát khỏi hoàng hôn, như ngày phải tắt dần
với ánh sáng tàn phai, giống đôi mắt
của những con chim Úc lúc chết.
A FINE POEM TO GLOW IN
I have considered night, and dreams
that die in the day, like wisps of darkness,
shadows that shrink into the earth
with the rising of the sun at dawn.
I have been thinking of how the shapes
of objects at dawn are revealed as the light
opens its eyes, and slowly grows
it gaze over the wakening earth.
No more do I roam the false dawn streets,
when the swallows clamour, chattering shrilly
over the seaside avenues, pines
that grasp the salt air with their hands.
And the green of the land, and greener water
filling the shallows with breaking waves,
and the green in my eyes and the green in my heart
shall find a fine poem to glow in.
ĐỂ RỰC SÁNG MỘT BÀI THƠ HAY
Tôi coi như đêm, và giấc mơ
chết trong ngày, như những vệt tối,
những cái bóng thu về trái đất
với mặt trời mọc lúc bình minh.
Tôi đang suy ngẫm làm sao những hình dạng
của vật thể lúc bình minh được phát hiện khi ánh sáng mặt trời
mở đôi mắt của chúng, và chậm chạp làm tăng
cái nhìn đăm đăm của chúng qua trái đất đang thức dậy.
Không còn chăng tôi lang thang trên con đường tờ mờ sáng,
khi những con chim én huyên náo, ríu rít
trên đại lộ ven biển, những cây thông
hứng lấy không khí mặn nơi tàn lá.
Và màu xanh của đất, màu xanh của nước
tràn lên chỗ nước cạn với những đợt sóng vỡ,
và màu xanh trong mắt tôi, trong trái tim tôi
sẽ tìm ra một bài thơ hay để rực sáng.
CHURCHILL
In the valleys, the fire
is now catching at grasses:
it is whispering, bringing
up the smoke it has spun
in the skies of the morning,
in its voices the voices
of the people who died here,
in the land I was born in,
in the shadow of mountains,
in the wake of its gathering.
* Churchill: a country town in rural Victoria, near my birthplace of Traralgon
CHURCHILL
Trong những thung lũng, lửa
đang bắt cỏ:
lửa thì thầm
cuộn khói
trong bầu trời buổi sáng,
trong giọng nói của lửa
của con người đã chết ở đây,
nơi mảnh đất tôi sinh ra,
trong bóng những ngọn núi,
tiếp nối sự tập hợp của lửa.
DEAD, WHITE WOOD
Out of the futile grasp
of ghost-white ghost gums,
a cold moon rising,
coloured the hue
of cold smoke furling in flat,
florescent shapes
that were formed beneath
an overarching lamp
falling asleep in the declining
hours of sinking mercury,
and sleepiness settling
like emptied dreams
lazily turbulent
as from cigarettes,
ash-grey as moons
in ghost gums’ ringbarked grasps,
I dream of the trees
marching towards me,
an orchard of dead, white
wood.
KẺ CHẾT RỪNG TRẮNG
Thoát ra khỏi sự nắm bắt
vô vọng của những cây bạch
đàn ma – ma trắng một mặt
trăng lạnh nhô lên tô điểm
sắc thái một làn khói lạnh
gợn theo bề mặt tạo thành
những hình dạng huỳnh quang bên
dưới ngọn đèn trăng bao quát
như ai đó thiếp ngủ lúc
nửa đêm về sáng khi hàn
thử biểu xuống thấp thấm lạnh
và sự ngái ngủ làm thư
giãn như những giấc mơ trống
rỗng lộn xộn một cách uể
oải được nhả từ khói của
những điếu thuốc lá đầu ngày
và màu xám tro không khác
gì những mặt trăng phản ánh
từ những khoang nhẫn của vỏ
những cây bạch đàn ma, tôi
mơ những cây bạch đàn ấy
bước đều về phía tôi, vườn
cây của kẻ chết, rừng trắng.