Phạm Kỳ Đăng dịch
Bài thơ „Berlin, em – người đàn bà Đức“ của Wolf Biermann
Durs Grünbein
Ngày hôm nay thơ thể ballad (1) xem như đã chết. Một trong những đại diện cuối cùng, hay nhất và gây tác động mạnh nhất là Wolf Biermann, vào thứ ba tuần tới sẽ tươi tắn bước lên tuổi 80.
Có những nhà thơ và có những nhà thơ ballad. Với mọi sự nổi tiếng một Friedrich Schiller, một Heinrich Heine một Bertolt Brecht đạt được trong loại hình này, ngày nay những người cuối cùng đang bị đe dọa tuyệt chủng, và thực ra điều đó quả là đáng tiếc. Wolf Biermann- sắp vui tươi tám chục tuổi đời, thứ ba tới ông có sinh nhật – là một trong những đại diện cuối cùng của họ hát ca bằng tiếng Đức. Và ông khá giúp cho câu thơ ballad vươn lên những cung bậc biểu cảm rõ nét cuối cùng, không còn nghi ngở gì nữa, là một địch thủ trong môn phái tổng hợp này.
Nhà thơ ballad là một người kể truyện lịch sử. Anh ta chiếm hữu tình thế ngoại lệ lịch sử, trong trường hợp lý tưởng anh ta tạo ra nó và tự mình trở thành hiện thân của lịch sử. Trong đó không một ai khác, vào thời CHDC Đức và vượt ra ngoài phạm vi đó, gây tác động mạnh mẽ hơn Biermann, người hoa tiêu tâm thức cộng sản bay từ vùng phía Tây sang, một cậu thiếu niên vùng Hamburg bị giáo dục và thú mạo hiểm đánh dạt sang miền Đông và dưới những tình huống gay cấn đã lại quay trở lại phương Tây. Chí ít ông không phải là người „Ossi“, ông là người cánh tả toàn Đức với cội rễ thuộc về dòng họ trong môi trường cộng sản của nước Cộng hòa Weimar. Từ trường hợp của ông ta học hỏi nhiều thứ về những vụ tai tiếng Đức với Đức. Ông sẽ luôn đứng ở tâm điểm trong một bức tranh toàn nhóm gồm những người tham gia (nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, chính khách). Xung quanh thân thế ông kẻ tham gia hợp lại như mùn cưa sắt tụ theo mẫu hình mà nam châm quyền lực nhà nước điều phối theo hướng tổng quát đẹp mắt. Những sử gia có thể hàm ơn vì những hiện tượng kiểu đó thường chỉ có rất ít ỏi từ họ trong thời gian họ sống ở đời.
Hát ca các thành phố không phải là điều nhỏ mọn
Biermann có trong tay tất cả những gì cần có cho một sự vào vai độc nhất. Ông là con trai người công nhân bến cảng và người cộng sản, cương nghị tới mức thậm chí gánh nhẹ lên vai đời Do thái trong khốn khó tột cùng và cưỡng lại mọi lòng tự hào chủng tộc và giai cấp lạnh lùng quăng thân vào vòm họng của bộ máy tàn sát kiểu Đức. Bà ngoại yêu dấu Meume vượt qua, nhưng cha ông đã bị sát hại ở Auschwitz, bởi vì trong cuộc hỏi cung của Gestapo, từ chối mọi thận trọng, đã nhấn mạnh nguồn gốc Do thái của mình. Những thứ đó đã ghi dấu ấn nên người đàn ông, hiển nhiên được năng khiếu ngôn từ cũng như giác năng định hướng chính trị thả đặt vào nôi. Mãi cho tới những ngày này ông mới phổ cập tiểu sử của mình (tôi lượm lặt ở đây tất cả). Như một kẻ trong số ít ỏi người khác các người hãy chịu trận cho phương châm sống của Goethe: „ Anh khá vượt qua/ Kiểu nào cũng thế/ Là kẻ theo bầy/ Và đừng gãy cổ“.
Wolf Biermann là người hùng của tuổi trẻ tôi. Tôi sớm khâm phục ông. Ở tấm gương ông tôi nhận biết được những lời đúng đắn gây nguy hiểm cho nhà nước tới mức nào. Một số câu thơ được ca lên, lan truyền đi trên các băng ghi âm đã có thể phân rã một hệ thống toàn bộ với Bộ Chính trị, Biên phòng, Quân đội nhân dân và An ninh quốc gia. Lần đầu tiên tôi nghe những câu thơ-ca tại Dresden, tại nhà người cha của người tình đầu đời thủa học trò- những đoạn băng bị cấm ghi âm một trong những concert đầu tiên của ông (một chiếc chăn trải lên chiếc máy cát-xét), và mọi sự xảy ra quanh tôi. Cái miệng lưỡi hỗn, sự bất vị nể chất Biermann đối với các bề trên là một bài học ghi nhớ cho cuộc đời. Sự tháo dỡ quyền lực bằng một số lời hay – những dòng ca như hắt hơi lan rộng ra trên đất nước, đó là bài học của ông. Giờ giảng lịch sử của Biermann là bài hay nhất mà dạo đó ở miền Đông những người trẻ tuổi có thể có được. Giả ước rằng họ cảm nhận được thông điệp của bất tuân lệnh.
Một sự ngây thơ ngữ nghĩa nào đó
Ngày hôm nay tôi muốn nói: vấn đề không phải là thơ hóc hiểm. Người viết bài hát, người songwriter xướng hát, như trong tiếng Anh người ta nói về những người như Bob Dylan (2) hoặc Leonard Cohen (3), là một đẳng cấp hoàn toàn riêng, giải Nobel người này hoặc giải Nobel cho người kia . Đó là những nhà ma thuật về ngôn ngữ chỉ xuống dòng đã đóng ngoặc đơn cho thời đại, đã chiếm lĩnh hẳn những không gian. Thí dụ như các thành phố họ giang cánh phủ lên đó (thần Icarus Phổ bên cầu Weidendamm trên dòng sông Spree). Hát ca những thành phố không phải là điều nhỏ mọn, điều này phải có nghề và Biermann chiếm lĩnh được tay nghề. Chẳng lẽ vô cớ người ta đã bầu ông thành công dân danh dự của Berlin. Trong một ballade ca năm 1962, một năm sau khi xây bức tường, ông hát ca thành phố vừa mới bị cắt chia. “ Berlin, em người đàn bà Đức“ là một bài hát, không thể thiếu được trong các hợp tuyển thơ về chủ đề Berlin.
Trong đó thành phố được tụng ca như một người đàn bà, một mô típ văn học cổ xưa, chắc chắn. Nhưng sau đó là các chi tiết. Được gạch nhấn gấp đôi, một bản thể dân tộc toàn Đức, bây giờ có thứ đó hai lần, như một đất nước từng có hai phiên bản kể từ khi song song thành lập nước vào năm 1949 và sự chia cắt đất nước sau quyết định độc đoán của Walter Ulbricht (4) dựng xây bức tường vào năm 1961. Điều nghịch lý: Sự ly hôn được cắt nghĩa thành kết hôn. Giờ đây người ta được phân ly thành kẻ bị giam cầm và khán giả nhìn từ ngoài. Cảm xúc bè bạn của nhà thơ hướng dành cho những người còn trong đó (với họ ông dành cho tình cảm của người chăm thú đối với những động vật cần bảo tồn trong bách thảo). Quan trọng với ông là những người đàn bà trong tình cảnh này – và người ta biết, có rất nhiều người quỳ xuống chân ông. Quái lạ: Bản thân Margot Honecker (5), First Lady của thể chế (bà bộ trưởng bộ giáo dục thời tôi), tin chắc vào bản năng đã nhận thấy trong ông một đứa con đã mất và ở một cuộc thăm viếng tại nhà đường phố Chauseestraße 131 huyền thoại đã mặc chiếc áo măng tô lông thú vắt vẻo ngồi trên mép ghế bành da như một mụ Potiphar (6) tìm cách quyến rũ ông. Tức là những người đàn bà: họ là những người duy nhất có thể sưởi ấm lòng kẻ muốn làm ra người cộng sản đang bế tắc trong một tình huống lịch sử đã lạc đường.
Như thế với ông toàn thành phố trở thành giấc mơ về người đàn bà có thể cho sống chung với, nếu như điều kiện cho phép một kiểu bồng bột tư tưởng và dục tình như vậy. Một bài thơ trong truyền thống barock: Nhân tính hóa một thành phố như Andreas Gryphus (7) từng làm, bao gồm ẩn dụ và ám chỉ, cả đến phép nghịch hợp cũng không thiếu vắng. Mông mỏng đét như đường phố rộng. Bầu trời xanh – chó – và đấy là siêu thực, ở đây có kẻ muốn đùa chơi với mường tượng. Khô khốc là làn gió Bắc – không làm sao cả, kể cả khách chơi, người tình thành phố gặp gỡ vẻ ơ hờ và lạnh lùng như có thể nghĩ. Qua những dòng viết hắn vận động như xuyên qua những mâu thuẫn (mác xít) nổi bật – kể cả mâu thuẫn thế hệ. Tất nhiên đó là một âm thanh sùng tính đực, nhưng thời thế từng là vậy. Ngày hôm nay không một tác giả trẻ ở Berlin được phép viết những câu thơ như thế này, nếu làm vậy người ta sẽ bắt quỳ gối chịu nhục hình dọc đường Frankfurter Allee. Nếu như vậy hắn sẽ cũng không còn cây đàn dây láy tiếng theo người (cũng không guitar, nếu có may chăng chiếc DJ-Equipment).
Vậy thì hôm nay cảnh tượng gồm hai khổ thơ vẻ bộ ngây thơ như thế này thông báo cho ta biết điều gì? Rằng thành phố là một người đàn bà trói chặt lấy anh ư? Rằng người ta không nhận gì trở lại, nếu người ta yêu cô (những cái hôn nhạt nhẽo) và thế đó vẫn bám lấy cô- phó mặc trao về một địa phận người ta chắc mẩm rằng đã chiếm đoạt được. Từ giác độ hôm nay, tất cả gây tác động như một tập hợp các khuôn mẫu to tát. Nhưng là vậy, như ở một bài hát thời thượng, chính trong đó tiềm ẩn sự hồn nhiên nào đó về ngữ nghĩa, chính là thế mạnh của nó. Bài hát Schlager (bài hát thời thượng ưa thích) là một bậc hao mòn của ballade, một tài sản văn hóa đã đắm chìm, gắn bó với phương pháp của những nhà cổ điển và xét về kỹ thuật hồi tưởng vận hành một cách tuyệt hảo. Có người nói, một bài thơ chỉ khi là bài hát do người hát ca lên (bằng đàn guitar hay kèn harmonika), mới thành khúc quẩn quanh trong đầu. Cả hai câu thơ cuối cùng của khổ thơ tám dòng lặp lại làm thành điệp khúc. Wolf Biermann không những chỉ đọc những gì ông viết, mà còn bằng một giọng nói giàu biểu thức ấn tượng cũng đã dám ca lên „and that has made all the difference.“
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Nguồn: FAZ- Frankfurter Anthologie – Hợp tuyển Frankfurt
Berlin, em, người đàn bà Đức
Wolf Biermann
Berlin em người đàn bà Đức
Anh là kẻ hứa hôn em
Ôi bàn tay em sao nhám thô
Vì lửa và băng giá
Ôi chao mông em sao gầy đét
Như phố đường rộng rãi của em
Ôi nhạt thay là những nụ hôn em
– Tôi bao giờ có thể thôi em
Tôi không sao rời bỏ em đi
Ở bên Tây đứng đó một bức tường
Bạn bè tôi đứng ở bên Đông
Làn gió Bắc là gió làn khô khốc
Berlin, em, người đàn bà tóc vàng
Anh là khách chơi của em, lạnh giá
Bầu trời em xanh lam màu chó thế
– trên đó treo cây đàn láy tiếng tôi.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ tiếng Đức
Berlin, du deutsche deutsche Frau
Wolf Biermann
Berlin, du deutsche deutsche Frau
Ich bin dein Hochzeitsfreier
Ach, deine Hände sind so rauh
Von Kälte und von Feuer
Ach, deine Hüften sind so schmal
Wie deine breiten Straßen
Ach, deine Küsse sind so schal
– ich kann dich nimmer lassen
Ich kann nicht weg mehr von dir gehn
Im Westen steht die Mauer
Im Osten meine Freunde stehn
Der Nordwind ist ein rauher
Berlin, du blonde blonde Frau
Ich bin dein kühler Freier
Dein Himmel ist so hunde-blau
– darin hängt meine Leier.
Chú thích của người dịch:
Durs Grünbein (sinh năm 1962 tại Dresden): Nhà thơ, nhà viết tiểu luận và dịch giả.
Wolf Biermann: Ca sĩ, sáng tác bài hát, nhà thơ, sinh năm 1936 tại Hamburg, con trai một người Do thái ủng hộ cộng sản chết trong trại tập trung Auschwitz *1950 đại diện CHLB Đức ông tham gia Liên hoan thanh thiếu niên thế giới lần đầu tiên tại CHDC Đức *1953 di cư sang Cộng hòa dân chủ Đức (CHDCĐ), học Triết học, Kinh tế-Chính trị học và Toán tại trường Tổng hợp Humboldt (1955-1963) *1957-1959 Trợ lý đạo diễn ở đoàn kịch Berliner Ensemble* 1960 Bắt đầu viết thơ và sáng tác bài hát *Xây dựng nhà hát kịch Công nhân và Sinh viên* 1962 In tập thơ „Những bài thơ tình“ * 1963 Bắt đầu tình bạn với nhà khoa học bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của CHDC Đức Robert Havermann. *1965 bị chính quyền CHDCĐ cấm biểu diễn và cấm xuất bản với tội danh „Phản bội giai cấp“ và „Tục tĩu“, sau những buổi trình diễn và chuyến du ca dọc CHLB Đức, và đặc biệt sau khi ông in tập thơ Drahtharfe (Thụ cầm dây thép) và ra đĩa hát *Tháng 12 năm 1965 Trung ương Đảng SED ra nghị quyết cấm ông biểu diễn và xuất bản. * Những tập thơ ông xuất bản thuộc về những tác phẩm của văn học hậu chiến được mua nhiều nhất *Sự tước đoạt quốc tịch Wolf Biermann đẩy ông sang Tây Đức vào năm 1976 gây ra sự phản kháng rộng lớn trong giới trí thức và sinh viên hai miền nước Đức, và từ đó ông như biểu tượng cho giới trí thức phê phán chế độ, phản kháng chủ nghĩa toàn trị ở CHDCĐ.* 1984 Giảng viên thỉnh giảng tại Ohio State University/USA. 1993-1995 Giáo sư thỉnh giảng tại trường Tổng hợp Heinrich-Heine-Universität * Nhận nhiều giải thưởng Văn chương* 2006 Nhận Huân chương chữ thập Liên bang – Bundesverdienstkreuz và 2007 được bầu làm công dân danh dự của Berlin.
(1) Lưu ý phân biệt thể ballad thơ và ballade trong âm nhạc
(2) Bob Dylan (sinh năm 1941): Ca sĩ, nhà thơ, nhận giải Nobel văn chương năm 2016.
(3) Leonard Cohen (1934-2016): Songwriter, ca sĩ nhà thơ, nhà văn, họa sĩ người Canada.
(4) Walter Ulbricht (1893-1973): Tổng bí thư đảng SED (đảng cộng sản Đức) từ 1949-1973, theo đường lối cứng rắn stalinit, ra lệnh xây bức tường chia cắt Đông-Tây Đức.
(5) Margot Honecker (1927-2016): Bộ trưởng Bộ giáo dục, vợ (trong hôn nhân lần 3) của Erich Honecker, tổng bí thư đảng SED ( đảng Công nhân xã hội thống nhất Đức, tức đảng cộng sản).
(6) Potiphar: Theo Kinh thánh, bà vợ của quan Potiphar vì thất tình đã quyến rũ kẻ bầy tôi Josef. Người này bị đổ tội hiếp dâm và tống vào ngục thất.
(7) Andreas Gryphus (1616-1664): Nhà thơ và nhà viết kịch Đức thời Barock.
Bài thơ „Gửi chàng trai Elis“ của Georg Trakl
Hendrik Rost (1)
Ở những bài thơ của Georg Trakl, nội dung gần như luôn xoay quanh cái chết và buồn thương. Và mặc dầu thế người diễn giải của chúng ta lại viết rằng, ông cảm nhận điều đó như là sự giải thoát lớn. Điều gì đây an ủi Trakl? (FAZ)
Người giáo viên dạy tiếng Đức nới thắt lưng và hít sâu vào. Sau đó ông ngâm, phất cánh tay, lắc lư đầu khiến làn tóc uốn kiểu Chị em nhà Scholl bồng bềnh và mái tóc rẽ ngôi thả dài một bên đầu áp xõa xuống. Heym (2) và Lasker-Schüler (3), Benn (4) và, ôi chao người ạ, đó là giáo trình của ông.
Tôi là môn sinh của ông. Theo cái kiểu như ông ấy bất ngờ bê chiếc xe đạp của mình đặt lên bục giảng, vá săm thủng và sau đó cho học trò viết một bài luận về vá săm xe đạp. Ở trường, ông ấy bị coi là gàn. Người ta đồn, trong nhà thầy chất đống khoai tây. Nhưng rồi ngay cả ngày hôm nay, tôi còn có thể chữa lốp xịt hơi nhanh hơn so với người khác phân bua về việc nhà trường đuổi xua hết ở họ niềm hứng thú dành cho bài thơ ấy.
Thừa thãi cuộc đời
Dạo đó, khi nằm trên chiếc ghế sô-pha nhung to sợi nhà chúng tôi, và lấy tay với bừa một cuốn sách từ cái giá ở trên đầu xuống, tôi đã sẵn sàng. Đó là một cuốn thơ mỏng, khổ nhỏ. Ngay từ tên tác giả đã đã là một câu đố: Trakl. Nghe sao thần bí. Và huyền bí là những bài thơ tôi đọc . Đại bàng, Cối xay gió, Các tu sĩ, Ảm đạm, Rượu vang, Mùa thu, Cái chết.
Thoạt đầu tôi đã ngờ rằng mình đã chạm vào bí mật đen tối nhất của cha mẹ mình. Chưa bao giờ họ chỉ cho tôi xem những văn bản này. Chưa bao giờ chúng tôi nói về sầu thảm. Và như áp lên chúng tôi là tác động nụ cười của người lớn, mỗi lúc khách đến và kế đó họ trò chuyện về những người khác. Nói về thuế, về thời tiết và về thời trước nữa. Nhưng mà cái Thời trước này nó hoàn toàn không là thời tôi từ đó khởi nguồn. Thời trước đó của tôi là thứ không được nói về nó. Cái thứ tôi cho rằng khả thể nhưng mà tôi không có sự tiếp cận và thậm chí, vâng, thậm chí không tìm ra một cái tên cho nó. Và bây giờ tôi tìm lại rất nhiều thứ của nó trong cuốn sách này – tương tự thế ít giấu diếm như một bí mật của đức tin. Tôi đã thấy và hiểu được rằng tất cả luôn sát nút xoay quanh cái chết, sự buồn đau. Và thông qua việc cùng đọc có chút gì đã xảy ra trong tôi, tôi cảm thấy như một sự giải thoát lớn. Một niềm hân hoan sâu sắc gần như chạm tới đớn đau.
Điều đó hiển nhiên đã đã là sức mạnh quá tải mỗi người trẻ tuổi lần nào đó một lần cảm nhận bằng quyền lực. Nó bao trùm lên người ta tựa một đoàn tàu chở hàng đang đi hết sức băng qua một nhà ga lúc ban đêm. Và trong mỗi toa là một sự thừa thãi cuộc đời giữ cho mình vận hành qua sự sinh thành và phá hủy, và không có cái gì có thể cưỡng lại điều đó.
Cuộc liên hoan của tổng thể
Việc đến như nó phải đến. Bản thân tôi bắt đầu viết và đưa một ngón chân vào giòng chảy của ngôn ngữ đã chiếm lấy, đã lôi kéo tôi và nhiều năm trào sôi lên tới những miền đây đó. Dạo ấy tôi đã đi xe đạp vào thành phố lân cận tới trường, mười ba cây số qua vùng đồng quê, và trên chuyến đi tôi kẹp quyển sách mỏng in thơ của Georg Trakl phía trước giữa ổ dây phanh, để trên chuyến xe tôi có thể ngó đọc vào trong đó. Và tôi nói to lên những câu thơ. Gần như đùng một cái tôi đã có thể thuộc lòng bài thơ „Gửi chàng trai Elis“. Tất cả những gì thuộc về bài thơ đều đụng chạm tới tôi. Trong chừng mực hiểu ít như vậy, thì cũng chính xác như thế tôi biết rằng, tôi đã trải nghiệm một niềm hào hứng tự thân không cần bao biện.
Là cậu học trò không chí thú lắm, có một lần tôi phải nộp bài tập về nhà sao lãng mất. Ngay đầu giờ, một học trò khác và tôi đi lên trước bục giảng và chỉ cho thầy giáo Ngữ văn sổ viết bài của chúng tôi. Thầy khen ngợi cậu học trò đứng trước tôi, rằng thế đó giờ đây cậu đã trả lời các câu hỏi mới ngăn nắp và chu đáo sao. „- Em phải thành luật gia“, thầy nói khi nhìn vào bài làm công phu và cho cậu ấy về chỗ. Tôi bước lên, đặt cuốn vở lên bục và hỏi thầy, nên chăng em cũng thành nhà luật gia. Ông yêu cho roi cho vọt chằm chằm nhìn tôi:“ Đừng“, ông nói và nghỉ một lát lấy hơi. Sau đó nói:“ Em nên trở thành diễn viên“. Với kết luận đó thầy cho tôi về chỗ; tôi bước khỏi địa ngục.
Có thể tại bài thơ này, ở đó thậm chí không còn chi li khác biệt giữa giới tính, giữa cái sống và chết, giữa cái tôi và vũ trụ, một thời gian dài đã cản trở hay là, nói khác đi, đã bảo toàn cho tôi trước cơ sự là một chút gì đã sẵn được định đoạt. Nhân danh Chúa tôi, làm sao mà cái đó cũng có thể khả thi trong thế giới này, trong đó tôi, hòa vào cuộc liên hoan của tổng thể theo Trakl, đã là tất cả.
Gửi chàng trai Elis
Georg Trakl (1887-1914)
Elis, nếu con sáo hót gọi trong rừng đen
Đó là sự lụi tàn của cậu
Môi cậu uống luồng mát lạnh của giếng đá xanh lam
Cứ để đó, nếu trán cậu âm thầm nhỏ máu
Những truyền thuyết cổ xưa
Và sự cắt nghĩa tăm tối của đường chim bay
Nhưng với những bước mềm mại cậu đi vào màn đêm
Treo những chùm nho no căng màu hồng tím
Và cậu vươn tay thanh thoát hơn trong màu xanh dương
Một bụi gai rên rỉ
Nơi mắt cậu như trăng
Ôi Elis từ bao giờ cậu chết
Thân thể cậu một bông dạ lan hương
Một nhà tu hành nhúng ngón tay sạch vào đó
Một hang đen tối là sự câm lặng của chúng ta
Thư thoảng từ đó bước ra một con thú dịu dàng
Và từ từ cụp hai hàng mi nặng.
Xuống thái dương của cậu nhỏ giọt sương đen
Vàng son rớt của những vì sao tàn lụi.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Nguồn: FAZ- Frankfurter Anthologie – Hợp tuyển Frankfurt
An den Knaben Elis
Georg Trakl (1887-1914)
Elis, wenn die Amsel im schwarzen Wald ruft,
Dieses ist dein Untergang.
Deine Lippen trinken die Kühle des blauen Felsenquells.
Laß, wenn deine Stirne leise blutet,
Uralte Legenden
Und dunkle Deutung des Vogelflugs.
Du aber gehst mit weichen Schritten in die Nacht,
Die voll purpurner Trauben hängt,
Und du regst die Arme schöner im Blau.
Ein Dornenbusch tönt,
Wo deine mondenen Augen sind.
O, wie lange bist, Elis, du verstorben.
Dein Leib ist eine Hyazinthe,
In die ein Mönch die wächsernen Finger taucht.
Eine schwarze Höhle ist unser Schweigen,
Daraus bisweilen ein sanftes Tier tritt
Und langsam die schweren Lider senkt.
Auf deine Schläfen tropft schwarzer Tau,
Das letzte Gold verfallener Sterne.
Bản tiếng Anh (tham khảo)
To the Boy Elis
Elis, when the blackbird calls in the black woods,
This is your decline.
Your lips drink the coolness of the blue rock-spring.
Cease, when your forehead bleeds quietly
Ancient legends
And dark interpretations of the flight of birds.
But with gentle steps you walk into the night,
That hangs full of purple grapes,
And you move the arms more beautifully in the blueness.
A thorn bush tinges,
Where your moon-like eyes are.
O, how long, Elis, have you been dead.
Your body is a hyacinth,
Into which a monk dips his waxy fingers.
Our silence is a black cavern,
From which a soft animal steps at times
And slowly lowers heavy eyelids.
On your temples black dew drips,
The last gold of expired stars.
Chú thích của người dịch:
Georg Trakl: (1887-1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được công nhận là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.
Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905: Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp và Toán), không đỗ tú tài * 1908: Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành Dược* 1910: Học xong bằng Y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocaine quá liều.
(1) Hendrik Rost (sinh năm 1969): Nhà thơ, nhà tiểu luận Đức, ông từng nghiên cứu Triết học và Ngữ văn tại Düsseldorf.
(2) Georg Heym (1887-1912): Trong cuộc đời ngắn ngủi, cùng chết khi cứu bạn là nhà văn Ernst Balcke (1887-1912) trượt tuyết trên sông băng, ông để lại 500 bài thơ và phác thảo thơ, được coi là một trong những nhà thơ quan trọng của ngôn ngữ Đức, là người mở đường cho chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) trong văn chương.
(3) Else Lasker-Schüler (tên khai sinh Elisabeth Lasker-Schüler; * sinh ngày 11.02 1869 tại Elberfeld, nay là Wuppertal; † 22. 01 1945 tại Jerusalem), nữ thi sĩ quan trọng người Đức gốc Do thái, đại diện kiệt xuất của trường phái Hiện đại tiền phong và của Chủ nghĩa Biểu hiện trong văn chương.
(4) Gottfried Benn (1886-1956): Nhà thơ, nhà tiểu luận, bác sĩ Đức, thuộc số ít nhà thơ nổi tiếng nhất nửa đầu thế kỷ 20.