Để thơ không “thất lạc nhau” nữa…

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật

        Cách nay tròn nửa thế kỷ, ấy là năm 1974, qua nhà thơ Trần Nhật Thu, tôi đọc được một bài thơ của Hà Thúc Sinh có tựa đề là “Uống rượu với bạn trên đường hành quân”. Nhà thơ Hà Thúc Sinh lúc đó là sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hoà. Bài thơ rất hay, tôi còn thuộc đến nay và xin ghi lại theo trí nhớ, có thể không hoàn toàn chính xác:

 

                               Dằn li xuống chiếu, cười gượng cười

                               Ta biết rằng chưa ấm bụng ngươi                           

                               Bực thay bạn đến từ muôn dặm

                               Mà rượu không hề đủ say chơi 

                               Con ta chợt ré lên sau bếp

                               Nắng chiều  đổ  lửa xuống nhà tôn

                               Hà Thúc phu nhân coi buồn lắm

                               Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng?

                               Bạn ta người của mùa chinh chiến

                               Quen thói ngang tàng, thú tiêu pha

                               Kéo ta ra quán, hề ra quán

                               Nhìn trời nhìn đất mà thương ta

                               Trăng kia sao chẳng nằm dinh thự

                               Mà chỉ nằm chơi ở ngọn cây

                               Bạn ta nào hiểu niềm vui sướng

                               Đời ta chưa hề bẩn đôi tay!

Có một niềm vui sướng nào đấy mà chắc gì mấy ai hiểu được trong con người Hà Thúc Sinh? Nhưng khi đọc bài thơ tôi đã nhìn thấy một tâm hồn trong trẻo nhân văn, dù người đó đang cầm súng trên đường hành quân ở bên kia chiến tuyến, tức là anh đang ở “phe quân địch”. Vậy mà tôi cứ nghĩ một ngày nào đó, tôi sẽ gặp chàng thi sĩ ấy và sẽ ôm nhau như những người bạn thân thiết xa lâu ngày.

Đời ta chưa hề bẩn đôi tay! Câu thơ vừa tâm trạng, vừa bày tỏ của một người trước cuộc đời đầy biến động, phi lý. Nhưng tôi không may mắn, vì ít năm sau nghe tin Hà Thúc Sinh đã mất.

Sự hiểu biết của tôi về văn học miền Nam không nhiều. Hồi đó, tôi đã ngưỡng mộ thơ Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư… và văn của Vũ Hạnh, Nguyễn Thị Hoàng, Phan Nhật Nam… Tôi ngưỡng mộ cái khí chất tự do, phóng khoáng trong bút pháp thể hiện. Những câu thơ của Du Tử Lê như: Bàn tay năm ngón/ tóc chảy nghìn hàng/ không lẽ chúng mình thù oán (Bàn tay sợi tóc cuộc đời, 1958). Và: Như que diêm trước sau gì cũng phải một lần bật sáng/ cũng một lần anh thắp rực đời em (Khởi đầu một kiếp, 25-3-69). Hoặc những câu thơ của Nguyên Sa, như: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông (Áo lụa Hà Đông)… Những câu thơ như thế đã cho tôi cái nhìn tin yêu về thơ và người làm ra nó, mặc dù lúc đó họ không phải người “phe mình”.

Thật thú vị là sau này, khi đất nước “Đổi mới”, trong một lần trả lời thư tôi từ tiểu bang Cali của Mỹ, nhà thơ Du Tử Lê đã thông tin ngay rằng: “Hà Thúc Sinh vẫn còn sống, hiện đã dọn nhà đi nơi khác”. Và “nếu về Việt Nam lần tới, tôi mong sẽ được ôm anh, như anh từng ước ao ôm anh Hà Thúc Sinh vậy”. Thế là chưa gặp nhau, chúng tôi đã thành người thân thiết, nhờ thơ.

Sau này, khi Nguyễn Đức Tùng từ Mỹ gửi e.mail những câu hỏi đầu tiên xung quanh chuyện “Thơ đến từ đâu?”, anh đã nói rất thực trong thư riêng gửi cho tôi: “Cám ơn anh Du Tử Lê đã cho em địa chỉ và dặn gửi thư cho anh. Em có một bà chị ruột, khi nào về Việt Nam, chưa kịp ngồi xuống ăn cơm, thì bà ấy đã nhét cái phone và bấm số sẵn. Có ba bốn ông anh họ ở xa, nên bà chị muốn chắc chắn là anh em giữ liên lạc với nhau, không thì quên nhau mất. Anh Lê giống như chị của em ở nhà vậy”. Thế là, nhà thơ Du Tử Lê đã nối Nguyễn Đức Tùng và tôi lại với nhau, khi giữa chúng tôi chưa thật sự quen biết. Dù Nguyễn Đức Tùng đọc tôi đã lâu, không nhiều, nhưng anh nói rất thích. Và tôi cũng đọc anh cả thơ và phê bình văn học, trong đó có lần, ở loạt bài “Đọc một bài thơ như thế nào”, anh đã dẫn thơ tôi khi nói về hình ảnh không những mang lại cảm giác vật lý cụ thể mà còn gây ra những thay đổi về giọng điệu của bài thơ…

Thế là tôi như người chạy ma ra tông trước những câu hỏi của anh, khi thì thư thả, khi vội vã, khi như đang bên nhau trò chuyện trong khuya khoắt yên tĩnh, khi gây hấn, tranh cãi, thách đố… Cuộc đối thoại giữa chừng, khiến tôi chạy từ Sài Gòn, ra lại Đồng Hới để tiếp tục công việc. Đã có lúc mệt mỏi, vì có nhiều chuyện tôi không muốn nói ra làm gì nữa. Nhưng dần dần, như một ma lực cuốn hút, không thế thoát. Và tôi cảm thấy hứng thú thật sự, cốt sao tìm đến cái đích mà bao đời nay con người muốn tới: Thơ đến từ đâu? Làm thơ để làm gì? Viết thơ cho ai đây? Nếu không có thơ thì cuộc đời này sẽ ra sao?…

Điều gì đã đưa đến sự gặp gỡ giữa nhà thơ Du Tử Lê, nhà thơ Hà Thúc Sinh và tiếp đến là Nguyễn Đức Tùng? Trong khi chúng tôi chưa một lần gặp, chưa nghe tiếng nhau qua điện thoại. Câu trả lời có lẽ duy nhất: Đó là thơ! Thơ chính là sự kết nối, ràng rịt tất cả lòng người Việt Nam lại với nhau, cho dù tận chân trời góc bể nào, cho dù xa xôi hẻo lánh nơi đâu chăng nữa.

Nếu trả lời câu phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng thêm một lần nữa, tôi vẫn sẽ nhắc lại lần nữa, dù rất cũ rích, dù loài người đã nói từ ngàn năm trước, rằng: Thơ đến từ lòng người!

Bởi khi tôi chưa gặp các nhà thơ, tôi đã đọc họ, ở đấy tôi gặp được họ, tôi thấy họ rất rõ… Những trái tim văn chương sẵn sàng mở rộng cửa và dung chứa nhau, sau những tháng ngày thất lạc. Cũng trong một thư khác viết sau này, Du Tử Lê cũng đã nói như thế!

Văn học Việt Nam nói chung, thơ Việt Nam nói riêng, một thời đã thất lạc nhau quá lâu, đã xa nhau quá dài, đã chối từ nhau như những kẻ đối nghịch. Điều ấy như tay chối bỏ chân, như răng chối bỏ miệng, nó trở nên bi hài trớ trêu.

Không gì có thể phủ nhận, có thể vùi dập văn hoá nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Nền văn học Việt Nam đích thực, tựu trung phải hội tụ đủ cả mọi miền Nam, Bắc, trong nước, hải ngoại; không phân biệt chính kiến chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc… Văn hoá là tinh hoa, tinh tuý, phản ánh đúng bản chất lịch sử xã hội, thể hiện khát vọng muôn thuở của con người. Văn hoá cao hơn tất cả, nằm ngoài dòng chảy quy định của xã hội. Văn hoá, văn học nghệ thuật phi biên giới. Đó là những lẽ tự nhiên, tất yếu, khách quan… Ấy vậy mà để cùng ngộ ra và thống nhất nhận thực, cũng phải mất một quá trình “thất lạc nhau” thật đớn đau phi lý. Và từ sự thức nhận chân lý đến những hành động thiết thực cụ thể vẫn còn phải tiếp tục nỗ lực kiếm tìm. Mãi đến tháng 10-2017, Hội nhà văn Việt Nam mới tổ chức được cuộc gặp mặt lần thứ nhất “Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc”, với sự hội ngộ của hơn 100 nhà văn đại biểu ở trong nước và các nhà văn Việt Nam sống tại 12 nước trên thế giới.

Trước đó, Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã chủ động giới thiệu trên báo chí, xuất bản nhiều tác phẩm của các nhà văn Việt Nam sống ở nước ngoài; tổ chức nhiều hội nghị quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài… Và cuộc hội tụ tháng 10-2017 là sự kiện quan trọng của tiến trình hòa hợp, hòa giải dân tộc trong lĩnh vực văn chương. Quá khứ đã khép lại, một tình thế mới, một cục diện mới đang đòi hỏi các nhà thơ trong và ngoài nước dùng chất keo bền vững của thi ca để siết chặt đội hình, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Tất cả đều chung “bản hòa ca đất nước”, để thơ không còn “thất lạc nhau” nữa.

Báo Văn Nghệ số 9 (3340) ra ngày 2-3-2024

Comments are closed.