Đêm giữa ban ngày (kỳ 14)

22

Dù sao mặc lòng, kể từ hôm ấy coi như tôi bị mất việc ở cơ quan tình báo xô-viết.

Huỳnh Ngự cũng thản nhiên lờ tịt, không quay lại đề tài bị thối lần nào nữa.

Tôi hiểu mình đã tước đoạt của các nhà chuyên chính vô sản một con bài quan trọng. Không phải đó là sự tước đi lý do buộc tội tôi, hoàn toàn không phải thế. Điều đó không làm họ suy nghĩ. Chẳng cần phải vò đầu bứt tai nghĩ cách buộc tội tôi người ta vẫn có thể tống tôi vào xà lim như thường. Cái chính là họ mất đi kỳ vọng dùng tôi làm tấm ván bắc cầu vào nhà người khác – Võ Nguyên Giáp, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Lê Liêm và các nhà cách mạng lão thành bị bắt trong vụ này.

Nhưng Huỳnh Ngự không cho tôi nghỉ ngơi.

Bắt đầu cuộc đánh vật mới về những nhân vật quan trọng. Tôi bình tĩnh, khiêm tốn nói tôi chẳng biết gì về họ. Huỳnh Ngự phát chán. Y để họ đấy đã, chuyển qua hỏi tôi về những người mà theo tôi, chẳng mấy liên quan tới chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Tính Tào Tháo của nhà cầm quyền cộng sản không phải là điều mới lạ. Nhưng nghi ngờ bất cứ ai, không căn cứ trên một chứng cứ dù nhỏ nào thì thật quá đáng. Đó là sự phỉ báng trắng trợn những người cùng chung hàng ngũ mà họ hàng ngày vẫn tay bắt mặt mừng, vẫn gọi bằng đồng chí.

Tôi xin kể một câu chuyện làm thí dụ.

– Anh ghê thiệt đó, chẳng kém ủy viên Bộ Chính trị bao nhiêu đâu. Ngồi tại Hà Nội mà có nhãn tiến[1] dâng tận miệng, ghê thiệt! – Huỳnh Ngự bỗng dưng nói một câu bâng quơ trong tuần trà thông lệ, trước khi bước vào cuộc hỏi cung.

Tôi nhớ ra: cách đây ít lâu anh Lê Quý Quỳnh, bí thư tỉnh ủy Hưng Yên, có gửi cho tôi một ít nhãn tiến làm quà. Thì ra cái việc cỏn con tôi chẳng hề để ý cũng đã đến tai nhà chức trách.

Anh Quỳnh cho cán bộ mang nhãn tới cơ quan chứ không mang tới nhà riêng. Lý do đơn giản: vào thời gian ấy cán bộ quan hệ với nhau thường dùng địa chỉ cơ quan chứ không dùng địa chỉ nhà riêng. Nói đến chuyện này, Huỳnh Ngự muốn khoe sự hiểu biết thần thông quảng đại của cơ quan công an hay còn có ý gì khác?

Y nói tiếp, mặt lạnh tanh:

– Tui cần một báo cáo về Lê Quý Quỳnh.

Tôi còn chưa hết ngỡ ngàng thì còi báo động đột ngột hú lên, cắt ngang buổi làm việc. Huỳnh Ngự lật đật ôm hồ sơ chạy ra ngoài.

Trên đầu tôi máy bay gầm rú, chẳng biết là máy bay Mỹ hay máy bay Nga. Súng cao xạ nổ như pháo ran. Thỉnh thoảng lại chen vào một tiếng nổ lớn của tên lửa địa-không. Huỳnh Ngự chắc đang co ro trong hầm trú ẩn. Tôi ngồi trong phòng hỏi cung một mình. Suy nghĩ vẩn vơ.

Bom Mỹ cứ việc rơi trúng Hỏa Lò đi, tôi nghĩ. Chẳng sao hết. Tôi có cuộc đời đẹp đến nỗi chẳng buồn tiếc nó!

Thành nói Hỏa Lò là nơi an toàn nhất Hà Nội, máy bay Mỹ không bao giờ ném bom Hoả Lò, là nơi có tù binh Mỹ. Theo lệnh quản giáo, tù xà lim phải chui vào gầm phản khi có báo động. Chúng tôi chưa một lần chui xuống đó. Còi báo động chỉ làm tôi nhớ nhà. Nhớ lắm! Từ nhà tôi tới Nhà Hát Lớn thành phố chỉ ba bước chân. Mỗi lần còi báo động trên nóc Nhà Hát Lớn hú lên là các con tôi phải bịt chặt tai lại. Tiếng hú đinh tai làm chúng sợ.

Hết báo động, Huỳnh Ngự quay trở vào, xếp lại hồ sơ lên bàn. Cuộc hỏi cung tiếp tục.

– Tôi biết gì về anh Lê Quý Quỳnh để có thể nói về anh ấy?!

– Anh biết quá đi chớ. Không dưng mà Lê Quý Quỳnh gởi nhãn tiến cho anh? Thứ nhãn quý ni, anh thừa biết, chỉ dành riêng cho Bác và Bộ Chính trị, đâu phải bí thư tỉnh muốn cho ai thì cho.

Thì viết.

Tôi lùi bước theo cách của tôi. Giờ Huỳnh Ngự muốn bắt tôi viết gì tôi cũng viết. Có thể coi việc viết những báo cáo này là cách tiêu thời gian trong tù lắm chứ. Bây giờ, khi những đề tài liên quan tới những người bị chúng liệt vào loại “xét lại chống Đảng” đã cạn, chúng bắt đầu khai thác tôi về những người khác. Cái bọn mao-ít này sao mà khờ! Chẳng lẽ chúng không hiểu được rằng chúng chẳng có thể sử dụng được những báo cáo của tôi để hại ai. Tôi thừa khôn để không trao cho chúng vũ khí hại người. Tôi viết, cẩn thận với từng chữ.

Tôi viết rằng Lê Quý Quỳnh là một trong những bí thư tỉnh ủy ít ỏi mà tôi được gặp. Hiếm có một bí thư tỉnh ủy gần dân như anh. Anh không mấy khi có mặt ở cơ quan tỉnh ủy mà lăn lộn hàng ngày với dân, giải quyết những vấn đề nảy sinh tại chỗ. Đám nhà báo tìm anh rất khó. Tôi quen anh lần đầu vào mùa thu năm 1963 trong khi đi viết về Hưng Yên, không phải về Hưng Yên đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà về vùng đất "thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến" ngày xưa. Lê Quý Quỳnh tiếp tôi trong phòng làm việc, nơi mọi vật bị bụi phủ một lớp dầy. Vừa cầm giẻ lau qua quít cái bàn để lấy chỗ tiếp khách, Lê Quý Quỳnh vừa nói: "Nhà báo ạ, nếu anh được một bí thư tỉnh tiếp tại một bàn giấy bóng lộn thì anh hãy cảnh giác – anh đang hỏi chuyện một tên quan liêu đấy!"

– Tại sao anh không viết về khẩu hiệu "Hưng Yên mở hội làm giàu" của Lê Quý Quỳnh? Mấy bận anh đi làm việc cho tòa soạn về Hưng Yên, chúng tôi biết Lê Quý Quỳnh vẫn lái xe đưa anh đi các xã, ăn cùng mâm, nằm cùng giường, thể nào Lê Quý Quỳnh cũng nói chuyện quan điểm với anh, đúng thế chứ?

Lại quan điểm!

Tôi nhìn thấy trên những bức tường ở Hưng Yên khẩu hiệu này. Chúng bị xóa lem nhem nhưng vẫn còn đọc được. Vì khẩu hiệu "Hưng Yên mở hội làm giàu", Lê Quý Quỳnh bị nguyên tổng bí thư Trường Chinh gọi lên Trung ương “cạo” cho một mẻ đến nơi đến chốn. Mở hội làm giàu là cái gì? Phục hồi chủ nghĩa tư bản, hử?

Lê Quý Quỳnh tính vốn lành, Trường Chinh vừa quát là anh nhận lỗi liền. Cãi lại cũng chẳng được. Vẻ phiền muộn, anh nói với tôi trong chuyến đi dọc đường số 5 rằng lỗi của anh chẳng phải cái gì khác ngoài ý muốn cho dân Hưng Yên của anh có được một cuộc sống tốt hơn, để xóa đi câu nói đau lòng "Oai oái như phủ Khoái[2] xin cơm". Hưng Yên có mật độ dân số cao nhất miền Bắc, suýt soát 450 người trên một cây số vuông, nếu tôi nhớ không lầm. Số người tha phương cầu thực cũng đông nhất miền Bắc. Ăn mày Hưng Yên nhan nhản trên đường phố Hà Nội, thỉnh thoảng Công an Hà Nội lại tổ chức vây bắt, chất lên xe tải trả về cho Lê Quý Quỳnh.

Người lành như anh chẳng dám ngang nhiên vượt rào. Anh có cách tính toán thực tế, rất nông dân của anh, là muốn khai thác những lợi thế tiềm tàng khác của đất đai ngoài khoản ruộng năm phần trăm[3] mà Đảng còn dành cho nông dân, để cho nông dân tỉnh anh được sống khấm khá hơn một chút. Anh thú nhận có giấu giếm làm thí điểm khoán sản phẩm ở một vài đội sản xuất và khoe rằng đó là phương án rất có lợi.

Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, theo tôi nhớ, còn đi sau Lê Quý Quỳnh trong sáng kiến khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ nông dân, tính về thời điểm khởi đầu cuộc thí nghiệm. Trường Chinh lập tức cách chức Kim Ngọc. Lê Quý Quỳnh mới khoán chui đã bị xỉ vả, bị đá lên[4], thì Kim Ngọc bướng bỉnh dám một mình cho "khoán hộ"2 trên diện rộng có mất chức bí thư tỉnh ủy cũng đáng.

Lê Quý Quỳnh kết thúc cuộc đời hoạt động cách mạng của anh bằng chức hội trưởng Hội những người nuôi ong[5].

Cơ chế khoán tới hộ lao động không phải xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam. Nếu như tháng 1. 1962 Mao Trạch Đông đã lên tiếng phê phán cơ chế này thì hẳn ở Trung Quốc nó đã có trước đó ít nhất cũng một năm. Trường Chinh là người chăm chú nghiền ngẫm các trước tác của Mao, ông có kiên quyết chặn đứng mưu toan của Kim Ngọc cũng không lạ.

Từ bản báo cáo nhạt như nước ốc về Lê Quý Quỳnh và một số nhân vật trong Đảng, tôi bị Huỳnh Ngự quay sang bắt khai về các văn nghệ sĩ quen biết: nhà thơ Dương Tường, nhà báo Mạc Lân, các nhà điện ảnh Huy Vân, Vũ Huy Cương, kịch sĩ Bửu Tiến, các nhà văn Châu Diên, Hứa Văn Định, Xuân Khánh, Nguyễn Dậu, Phù Thăng và nhiều người khác. Cứ như tôi là cán bộ tổ chức Hội Nhà văn không bằng.

Người tôi khẳng định đã nằm đâu đó trong Hỏa Lò là Vũ Huy Cương. Sau khi được thả, gặp anh tôi mới biết tôi đoán sai một chút – Cương bị giam trong Sở Công an, trước kia là Sở Liêm phóng, chứ không bị đưa vào Hỏa Lò. Người ta bắt Vũ Huy Cương chỉ cốt để hỏi về Hoàng Minh Chính. Vũ Huy Cương kể thời gian đầu anh còn được ở trong một căn phòng không có khóa ngoài, báo động còn được chạy ra hầm trú ẩn cơ quan. Sau đó, tất nhiên, anh cũng bị giam như chúng tôi ở các trại. Tội giao du với Hoàng Minh Chính làm cho Vũ Huy Cương phải ở tù sáu năm, cộng với ba năm lưu đầy ở địa phương, không khác Hoàng Minh Chính đầu vụ một chút nào.

Đã quen với những câu hỏi ngớ ngẩn, tôi vẫn phải ngạc nhiên khi Huỳnh Ngự đòi tôi khai về Dương Tường. Anh là bạn thân nhất của tôi. Dương Tường là nhà thơ. Trong chúng tôi anh ít quan tâm chính trị nhất, nếu không nói là chẳng thèm đoái hoài tới nó. Trong hai nhà sáng lập chủ nghĩa Marx anh thích Engels vì Engels khoái chuyện tình dân gian Tristan và Iseul. Anh không thích Marx vì Marx chỉ thích các saga mang chất anh hùng ca viking[6] vùng Scandinave[7]. Là người mơ mộng, anh chìm đắm trong cái đẹp của những con chữ, những vần điệu của thứ thơ không dễ hiểu đối với cả dân đen lẫn trí thức, đối lập với thơ hạt lúa củ khoai.

Châu Diên, tác giả tập truyện ngắn "Con nhện vàng" được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam đầu những năm 60 thì chỉ ham nghiên cứu. Vào thời kỳ nảy ra "cuộc đấu tranh giữa hai đường lối" tôi ít gặp Châu Diên. Anh học ở Trung Quốc vào thời gian những trò lẩm cẩm của họ Mao chưa đạt tới đỉnh cao vĩ đại. Chắc hẳn anh lại lỡ lời ở đâu đó về Mao chủ tịch kính mến nên mới bị Huỳnh Ngự hỏi đến.

Xuân Khánh chủ trương nhà văn không cần hư cấu, cuộc đời như nó có đã thừa đủ chất liệu cho nhà văn rồi, viết cả đời không hết. Nhưng viết thực về cuộc đời là trái với phương châm hiện thực xã hội chủ nghĩa rồi, làm sao in? Những nhà lãnh đạo quốc gia thì lại chỉ thích một thứ hiện thực, gọi là hiện thực trong chiều hướng đi lên, tức là không viết về cái xấu (nó là tạm thời) đang tồn tại, mà chỉ viết về những cái cũng đang tồn tại nhưng báo hiệu những cái sẽ có trong tương lai mà Đảng hứa hẹn. Trong khi những cái sáng lạn thuộc về tương lai chưa kịp lấp ló ở chân trời mơ ước thì nhà văn phải viết về người tốt việc tốt cho quần chúng noi gương. Viết theo lời Đảng dạy như thế khó lắm, bởi vì nó nhạt lắm. Cho nên sau cuốn Rừng Sâu, là cuốn được cấp trên khen, anh không viết nữa. Hẳn có bản thảo nào của anh rơi vào tay công an, cho nên người ta mới vặn vẹo tôi về anh.

Mạc Lân nóng như Trương Phi, ăn nói bặm trợn, bị vào sổ đen là chuyện đương nhiên. Anh là con trai cả nhà văn Lê Văn Trương. Thân sinh anh ở trong thành rồi vào Nam, còn anh nhập bộ đội rồi đi Nam, đến tận Sài Gòn. Vết thương trong một trận đánh ở cầu chữ Y để lại di chứng suốt đời – anh đi cà nhắc. Trở lại miền Bắc, sau khi vết thương đã lành, anh lại tiếp tục binh nghiệp cho đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng đơn vị với nhà thơ Dương Tường, nhà báo Tất Vinh, Việt Phương[8], Trần Dần. Anh có hoàn cảnh gia đình trục trặc, phải nuôi một lũ con đông, đâm ra rành nghề viết thuê. Những người muốn làm nhà văn mà không có tài thường tìm đến anh để thuê anh viết. Viết thứ văn nhảm nhí ấy anh viết "như bổ củi". Anh chỉ viết chậm những gì anh tâm đắc.

Hứa Văn Định viết rất nhiều. Làm việc ở Xưởng phim Việt Nam, anh ít khi tới cơ quan, mà làm việc ở nhà, cho mình nhiều hơn cho nhà nước. Tôi không biết Hứa Văn Định viết vào lúc nào, nhưng thỉnh thoảng gặp nhau anh lễ mễ khuân cả yến bản thảo ra khoe. Trong những sáng tác không được in của anh có những đoạn cực hay, chỉ có thể thấy ở những nhà văn bậc thầy. Anh bị công an để ý chỉ vì anh chơi thân với Kỳ Vân. Ngoài ra người ta chẳng có cơ sở gì để nghi ngờ anh hết.

Bùi Ngọc Tấn còn xa chính trị hơn nữa. Anh mê những “con chữ” (cách nói của Dương Tường) với một tình yêu e ấp, thẹn thùng. Chẳng bao giờ Tấn khoe những gì anh đang viết. Chúng tôi chỉ được biết anh viết gì khi sách đã ra. Anh không những khiêm tốn, mà còn rụt rè trước những ông bạn hùng hổ dám lên án cả thần thánh. Nhà cầm quyền mà bắt người như thế thì không những chỉ ngu dốt, mà còn đểu giả.

Tôi nói các bạn tôi chẳng hề liên quan gì tới “chủ nghĩa xét lại hiện đại” thì điều đó chỉ đúng với quan niệm của tôi. Với các nhà chấp pháp đầy cảnh giác thì khác. Những người bạn tôi bị họ coi là những kẻ bất trị, bởi vì họ không tỏ ra nhiệt tình với mô hình xã hội mà Đảng đang áp đặt lên quê hương. Cũng như tôi, các bạn tôi không ai muốn sống như người Trung Quốc, với vòng Kim Cô của chủ nghĩa Mao trên đầu. Trong tình hình đất nước đã hết chiến tranh, tưởng rằng đã đến lúc có thể buông súng để trở về với cây bút, thì họ thấy mọi cửa mở ra tương lai tự do sáng tác đều đã bị đóng chặt sau vụ "Nhân Văn – Giai Phẩm". Những cây đa cây đề của nền văn học quan phương đã che hết ánh sáng mặt trời và họ không còn điều kiện để lớn lên trước mắt bạn đọc.

Tôi còn nhớ nhà văn Phù Thăng từ vùng mỏ trở về Hà Nội gặp tôi: "Tao đến để mày giải thích tao nghe: đọc các tài liệu Trung Quốc tao thấy đúng ra phết, có lý lắm, dễ hiểu lắm, thuyết phục lắm, thế mà những thằng bạn tao cho là thông minh lại bịt mũi nói thối không ngửi được. Vậy trong cuộc cãi vã ầm ĩ cả thế giới này mày cho bên nào đúng?" Tôi hiểu, Phù Thăng đang đi tìm câu trả lời cho mình. Đúng vào lúc này cuốn Phá Vây của anh đang bị phê phán về mặt tư tưởng: nó miêu tả chiến tranh như một tai hoạ, một thảm kịch, chứ không như một bài ca tiến quân. Anh không hiểu tại sao người ta lại phê phán cái chuyện hiển nhiên ấy – chiến tranh không bao giờ đẹp, nó không phải là cái để mà yêu. Tôi thận trọng nói rằng chỉ có một bên không được nói tới là đúng – đó là cuộc đời. Không thể không thận trọng khi mà mỗi con người đều mang một mặt nạ, nếu không nhiều hơn. Phù Thăng hỏi tiếp: trong cái tương đối hiện có, mà tôi đã thấy, đã biết, thì cuộc sống ở đâu tốt cho con người hơn. Tôi đáp: tôi thích cuộc sống ở Liên Xô hơn, ở đó dù sao mặc lòng đã thấp thoáng bóng dáng một nền dân chủ. Chúng tôi nói chuyện suốt đêm. Sáng ngày ra Phù Thăng lại lên đường. Đen đủi, nhếch nhác, với cái xà cột cán bộ xã ngang hông, anh đi, đầu cúi, như lao về phía trước. Tôi nhìn theo, thương bạn vất vả. Anh là người lúc nào rất đáng yêu với những câu nói đùa hóm hỉnh. Bút hiệu Phù Thăng của anh là sự đọc ngược hai chữ “thằng phu”. Chả là tên cúng cơm của anh là Phu. Phù Thăng may mắn hơn các nhà văn bị cớm bạn anh – anh đã có cuốn Phá Vây dày cộp.

Huy Vân, căn cứ những câu hỏi đặt ra của bọn chấp pháp, cũng có nhiều khả năng bị bắt. Về Huy Vân chúng chỉ hỏi miệng, chứ không bắt tôi viết. Sở dĩ chúng không vặn vẹo tôi về anh là vì mấy năm cuối cùng trước khi tôi bị bắt chúng tôi ít khi gặp nhau. Quả nhiên tôi đoán đúng. Huy Vân bị bắt, rồi được thả ra, cũng sau sáu năm giam cầm, mặc dầu anh cũng không hề thuộc "nhóm xét lại chống Đảng" như bất cứ ai trong nhóm này. Trong “bọn xét lại hiện đại” bị bắt anh quen tôi và Vũ Huy Cương. Trong “bọn xét lại hiện đại” không bị bắt mà chỉ bị trấn áp, anh quen thân ủy viên Trung ương Lê Liêm. Tất cả đều là những quan hệ bằng hữu dính dấp tới nghề nghiệp điện ảnh. Bộ phim đầu tay và cuối cùng của anh là Một Ngày Đầu Thu, được thực hiện với sự trợ giúp của đạo diễn Liên Xô Ajida Ibragimov, là một bộ phim không tồi trong giai đoạn điện ảnh Việt Nam chập chững bước vào lĩnh vực phim truyện.

Cuộc sống trong xà lim cứ thế trôi – một chuỗi lê thê những cuộc hỏi cung, ngày này qua ngày khác, lãng nhách, nhạt phèo. Nói cho đúng, thời gian đầu không phải là như vậy. Cảm giác bất cần chỉ xuất hiện khi tôi trở nên lạnh lùng với số phận. Đã trót sa chân vào đây rồi tôi chẳng có thể làm gì hơn là ngồi rung đùi chờ xem sự thế xoay vần đến đâu.

Nhân nói về những cuộc hỏi cung lăng nhăng diễn ra trong Hỏa Lò tôi lại nhớ tới một chuyện nói lên cái hèn của lớp trí thức chúng tôi hồi ấy. Một hôm, Huỳnh Ngự bắt tôi khai về nhà báo Vũ Kiện[9]. Tôi giật mình. Chẳng lẽ cả Vũ Kiện cũng bị bắt? Anh là người cẩn trọng lắm mà. Tôi quen Vũ Kiện khá thân. Về quan điểm chính trị Vũ Kiện rất gần chúng tôi, hoặc y như chúng tôi. Tôi trọng anh vì anh sắc sảo trong nghề, giỏi nhiều ngoại ngữ, là người thiên kinh vạn quyển, rất mực uyên bác. Trước khi tôi bị bắt mấy ngày Vũ Kiện gặp tôi còn nói:"Mấy hôm nay có ai bị nữa không? Chúng mình rồi lần lượt cũng bị hết, chẳng đứa nào thoát đâu. Chủ nghĩa nhà quê (anh nói tiếng Tây: “le campagnardisme”) không bao giờ đội trời chung với trí thức. Nó chỉ công nhận có một thứ trí thức nông nô thôi". Hồi học Nghị quyết 9 Vũ Kiện có đọc cho tôi nghe một bài thơ của anh:

Mấy năm nay bị chứng nhức đầu,

Tìm thầy thuốc hóa ra loạn thị.

Cái thằng mình hèn nào láo thế.

Nhìn những bậc bệ vệ nghiêm trang

Thành toàn một phường ba lăng nhăng.

Tôi khoái bài thơ ấy của anh lắm. Khi Huỳnh Ngự hỏi tôi về Vũ Kiện, tôi chợt nhớ tới bài thơ hóm hỉnh ấy và tủm tỉm cười. Huỳnh Ngự hỏi tôi cười cái gì.

– Tôi buồn cười vì câu hỏi. Vũ Kiện không phải là người đáng nghi ngờ, nếu cơ quan an ninh muốn biết ý kiến tôi về anh ấy. Bác gặp Vũ Kiện bao giờ chưa nhỉ? Chưa hả? Thế thì cứ gặp anh ấy đi đã, sau hãy hỏi tôi. Nếu đến lúc ấy bác vẫn thấy cần phải hỏi.

Huỳnh Ngự ngờ vực nhìn tôi:

– Anh nói vậy nghĩa là thế nào?

– Bởi vì Vũ Kiện không phải người ta – tôi đáp – Anh ấy là người nước ngoài.

– Giỡn hoài.

– Xin lỗi, không phải theo nghĩa đen, tôi nói thế là vì chúng tôi quen nhìn Vũ Kiện như một người châu Âu, một người Pháp. Tôi biết anh ấy không nhiều, nhưng chỉ cần một lần gặp thôi cũng đủ thấy Vũ Kiện chẳng có quan điểm chính trị nào, trừ một cái là làm sao cho mình phải giống người Pháp, một thứ francophile[10] chính hiệu. Đến nói chuyện với chúng tôi anh ấy cũng nói với kiểu cách và điệu bộ người Pháp nữa là…

Nhìn vào mắt Huỳnh Ngự tôi biết y không tin tôi bao nhiêu, nhưng cũng không ngờ vực nhiều lắm.

Huỳnh Ngự còn quay lại với cái tên Vũ Kiện vài lần nữa, nhưng lần nào tôi cũng tìm cách bịa ra vài giai thoại vui vui để gạt đi và gạt đi được.

Thật đáng buồn, khi ra khỏi nhà tù tôi mới biết rằng trong thời gian chúng tôi nằm xà lim, bị hỏi cung thì chúng tôi tìm đủ mọi cách bảo vệ anh, Vũ Kiện lại đi khắp nơi bô bô nói tốt cho Đảng, rằng sở dĩ Đảng bắt chúng tôi là vì chúng tôi chống Đảng có tổ chức, chứ không có tổ chức thì Đảng chẳng bao giờ bắt. Cứ xem tôi thì biết, Vũ Kiện nói, tôi có ý kiến khác, có sao đâu, tôi vẫn được Đảng cho bảo lưu quan điểm, đã không bắt thì chớ, còn cho đi nước ngoài đấy thôi.

Tôi ngờ Vũ Kiện đã bị gọi tới Bộ Nội vụ như một số anh em có vấn đề, nhưng ông Tây to xác của chúng tôi không có lá gan tương xứng. Ông được bề trên vỗ vai khen ông thành khẩn, được hứa những tiêu chuẩn ưu tiên ưu đãi, rồi được dạy bảo cách ăn nói về vụ }nhóm xét lại chống Đảng”. Ông làm theo lời khuyên, được tưởng thưởng như Đảng hứa – một chuyến đi nước ngoài, không nhớ là Cộng hòa Dân chủ Đức hay Bungari gì đó. Hồi ấy được Đảng cho đi nước ngoài là một ân huệ lớn. Vì ân huệ ấy có nói vài điều trái với lương tâm kể cũng đáng. Nhưng cái trái lương tâm lớn nhất mà kẻ sĩ không thể làm thì Vũ Kiện làm tỉnh queo, không biết ngượng, Anh đổ cho bạn mình chống đối có tổ chức, tức là, như các cụ nói, nối giáo cho giặc. Hơn ai hết, Vũ Kiện biết rõ tôi và các bạn anh bị bắt chẳng hề có một tổ chức chống đối nào. Nếu có một tổ chức như vậy thì trong đó không thể thiếu Vũ Kiện. Hơn thế, anh phải là một trong những người đứng đầu.

Tôi không ân hận đã bảo vệ Vũ Kiện. Tôi không thể làm khác, cho dù có biết ở ngoài kia anh đang tuyên bố bậy bạ về chúng tôi theo sự mách bảo của “trên”. Cách sống cơ hội là cách sống mang tính thời đại. Người không biết sống cơ hội là dị vật trong xã hội. Tôi còn nhớ năm 1966, Vũ Kiện từ Thanh Hóa về, anh kể cho tôi nghe chuyện người ta dựng huyền thoại về một anh hùng thiếu nhi như thế nào. Có một nhà báo nào đó trong phút ngẫu hứng đã dựng nên câu chuyện một chú bé cứu bạn bị thương dưới mưa bom bão đạn và vì thế hy sinh. Người ta làm ầm lên về người anh hùng tí hon, như một phát hiện về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Vũ Kiện đang ở Thanh Hóa, anh đến ngay địa phương có người anh hùng, anh phát hiện sự thật là không có hai trận đánh bom liền nhau, như vậy không thể có chuyện vị anh hùng thiếu nhi kia cứu bạn giữa những trận bom được. Trở về Hà Nội anh chê bai sự không trung thực của các cơ quan tuyên truyền. Không biết có phải vì sự chê bai ấy mà anh được nhà thơ Tố Hữu mời cơm tối hay không, nhưng anh đã ăn và sau đó đã khoe ầm ĩ với bè bạn về bữa cơm vinh dự. Sau đó ít lâu một cuốn sách thiếu nhi được ra đời về người anh hùng không có thật nọ mà tác giả lại chính là… Vũ Kiện. Gặp tôi, Vũ Kiện quên mất chuyện bữa trước, khoe cuốn sách mới in, tôi hỏi anh nhuận bút "lừa già dối trẻ được bao nhiêu?" thì Vũ Kiện sượng sùng nói sang chuyện khác. Anh không tặng tôi cuốn sách mang theo trong xà cột.

Trường hợp Vũ Kiện không phải là trường hợp duy nhất, nhưng là trường hợp điển hình. Một số người, may mắn là không nhiều, trong lớp trí thức cứng đầu cứng cổ, trước rất thích giao du với chúng tôi, vậy mà chúng tôi vừa bị bắt vội vã phân trần rằng họ không hề có quan hệ với chúng tôi. Thậm chí họ không dám giáp mặt vợ con những người bị bắt để nói một câu hỏi thăm sức khỏe. Thì ra cái tiếng thơm là người dũng cảm dám đối lập với chính quyền chỉ là bộ cánh để cho họ chưng diện chừng nào chính quyền chưa vung lên cái dùi cui. Nói như thế, tôi không có ý lên án họ. Sống lâu trong xã hội độc tài toàn trị, con người được nhào nặn để trở thành đúng như thế. Sợ hãi là bản sắc của con người xã hội chủ nghĩa.

Cha tôi rất quý các trí thức trở về nước năm 1946 trong dịp phái đoàn chính phủ sang Pháp. Trong số đó ông đặc biệt cưng bác sĩ Trần Hữu Tước. Chính ông thuyết phục Trần Hữu Tước trở về Việt Nam để làm việc cho đất nước. Ông thương Trần Hữu Tước đã có gan bỏ cuộc sống sung sướng ở nước ngoài để về với đồng bào, chịu đựng khó khăn, thiếu thốn. Ông săn sóc Trần Hữu Tước như săn sóc đứa em út, ông lo chuyện vợ con, nhà cửa cho Trần Hữu Tước. Ông này mỗi khi giận vợ lại chạy sang với cha tôi, ăn dầm nằm dề trong nhà chúng tôi dăm bữa nửa tháng là thường. Thế mà đến khi cha tôi bị bắt, Trần Hữu Tước biến mất, không hề lai vãng, không dám thăm hỏi. Cha tôi bị đau răng, nằm trong tù ông tưởng đâu vẫn có thể nhờ cậy người bạn thiết, nhắn các em tôi gặp Trần Hữu Tước nhờ ông Tước lo thuốc gửi vào cho ông. Em gái tôi tìm gặp Trần Hữu Tước trong bệnh viện Bạch Mai, ngay tại khoa Tai Mũi Họng của ông, nhưng ông bạn thân mến của cha tôi tìm mọi cách thoái thác, không những không gửi thuốc, mà còn không gửi một câu hỏi thăm. Viện cớ bận họp, ông chuồn thẳng.

Tôi không trách Trần Hữu Tước. Nhưng tôi cũng không thân mật được với ông nữa. Tôi gặp Trần Hữu Tước lần cuối tại khách sạn Bến Nghé (Sài Gòn), năm 1983. Chúng tôi đi ngang nhau như những người không quen biết. Ông ngượng ngùng nhìn tôi, có vẻ ông muốn tiến đến bắt tay tôi, nhưng nỗi hổ thẹn giữ chân ông lại, còn tôi thì cũng không vượt qua được mình.

Sau khi ra khỏi nhà tù chúng tôi không bao giờ chủ động đến với ai. Trong sự xa lánh này có cả nỗi hờn mát lẫn lòng tự ái. Tôi không căm ghét, không thù hận những người quay lưng lại nỗi đau khổ của gia đình tôi, tôi chỉ không thấy cần phải giao du với họ nữa. Mất thời giờ.

Nói chung, hồi ấy tôi bắt đầu học được cách nhìn độ lượng đối với nhân quần. Tôi hiểu ra rằng chúng tôi chỉ là con cháu loài tinh tinh ngu độn bị những con đầu đàn ranh ma lợi dụng. Những con này sau khi thành chủ nhân liền bắt đồng loại làm tôi đòi. Được dạy dỗ bằng roi vọt kèm với mồi thưởng để làm các công việc mà chủ muốn, lũ tinh tinh xấu số giành giật nhau từng miếng ăn được bố thí, cắn xé nhau để được hưởng một đoạn xích dài thêm. Khả năng bỏ chạy không còn, vậy thì việc gì phải thương hại con nằm bên?

Huỳnh Ngự làm việc với tôi thưa dần. Thay chân y là một người đàn ông có dáng trí thức mà tôi nhắc tới ở trên.

– Tôi tên Hoàng. – anh ta tự giới thiệu.

Tôi có cảm tình với Hoàng ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Gương mặt sáng sủa của anh ta làm tôi yên lòng. Trông bề ngoài của Hoàng có thể thấy y thuộc về nhóm tinh tinh phát triển cao trong bầy tinh tinh nô lệ. Hoàng làm công việc Huỳnh Ngự thường làm, nhưng cách anh ta làm thì khác hẳn – rất từ tốn, rất nhã nhặn.

Tôi lập tức cảnh giác với anh ta. Đàng sau vẻ ngoài không hăng hái vì lợi ích của Đảng, biết đâu lại chẳng là sự tính toán khôn ngoan của một khối óc có nhiều nếp nhăn hơn óc con tinh tinh Huỳnh Ngự.

Làm việc với Huỳnh Ngự một thời gian, tôi hiểu tính y. Xét cho cùng, y là người mộc mạc,đơn giản, không biết thủ đoạn, chiều y chẳng khó. Chỉ cần viết những báo cáo dài thượt đầy ắp sự kiện vô thưởng vô phạt với những câu chữ ồn ào biểu lộ sự thành khẩn hết mình theo công thức thời thượng là y hài lòng.

Hoàng đọc báo cáo của tôi với nụ cười khó hiểu.

– Anh có khi nào nghĩ tới chuyện những mối quan hệ xã hội hình thành như thế nào không? Này, nghiên cứu chuyện đó cũng thú vị đáo để đấy.

Tôi không hiểu y muốn nói cái gì.

– Mối quan hệ giữa Đảng và đảng viên chẳng hạn…

– ???

Y cười ý nhị:

– Tôi để ý tới chuyện này, anh ạ, và tôi thấy trong cách nhìn nó có nhiều điều chưa rõ ràng. Quan hệ giữa Đảng và đảng viên, xét cho cùng, anh thấy không, chẳng qua là quan hệ hợp đồng. Hai bên thỏa thuận với nhau thực hiện một công việc nào đó, và mối quan hệ hỗ tương được thiết lập…

Tôi đỏ mặt. Liều lượng những lời ca ngợi Đảng được cho vào bản báo cáo vừa mới nộp cho Hoàng có hơi cao quá mức cần thiết, do thói quen làm việc với Huỳnh Ngự. Nhưng cái sự hô khẩu hiệu rầm rĩ để đánh trống lảng đã không lừa được anh ta.

Tôi thấy cần phải nói thêm một chút về những bản gọi là báo cáo của tôi. Sau khi quyết định lùi bước, thôi không đôi co với Huỳnh Ngự về tính hợp pháp của việc giam giữ nữa, nói cách khác tôi đã chịu vào khuôn vào phép, thì lẽ đương nhiên tôi phải chấp nhận các tập tục xã hội chủ nghĩa trong quan hệ đối với Đảng. Một trong những tập tục đó là phải bày tỏ sự trung thành của mình trong những lời ồn ào tôn vinh Đảng mỗi khi có dịp. Tập tục này bắt nguồn từ những năm 50, khi khởi đầu cuộc vận động giảm tô giảm tức.

Từ Cải cách ruộng đất trở đi tập tục này lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân mở miệng là "Nhờ ơn Đảng, Chính phủ". Người ta nói "Nhờ ơn Đảng, Chính phủ, mùa màng năm nay khá, gia đình em tạm đủ ăn", "Nhờ ơn Đảng, Chính phủ, nhà em vừa sinh thằng cu". Quen miệng, người ta còn nói: "Nhờ ơn Đảng, Chính phủ, cái mụn chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ!" Trong nhân dân, cũng vào thời kỳ này, xuất hiện câu ca dao thú vị, nói rất trúng cách tuyên truyền của Đảng về những thành tựu nhờ Đảng lãnh đạo mà có:

Mất mùa là tại thiên tai,

Được mùa là tại thiên tài Đảng ta.

Thấm nhuần tập quán được vun trồng từ thập niên này qua thập niên khác, lũ tinh tinh hiện đại tự nguyện xóa sạch bản thân để tuân theo Đảng ngõ hầu được Đảng thương đến. Đảng là Đấng Tối Cao, như Chúa Trời. Đảng còn hơn cả Chúa Trời nữa, vì Chúa Trời vô hình vô ảnh, còn Đảng là có thực, cũng như những nhà tù của Đảng là có thực, Đảng là người quyết định hết thảy, Đảng cho thì có, Đảng lấy thì mất.

Đùng một cái, nghe người của Đảng, lại là "cán bộ thực hành chuyên chính vô sản", nói một câu lạ tai, tôi sững sờ nhìn y.

Hoàng lấy thế làm thú vị, y nháy mắt với tôi:

– Anh không thấy thế là đúng à?

Tôi lo ngại một cái bẫy. Tất nhiên, cái bẫy này chẳng nguy hiểm. Nó không đụng tới một cái gì cụ thể, nhiều nhất chỉ là một sự thăm dò tư tưởng. Nhưng vẫn cứ phải cẩn thận – ở Việt Nam tư tưởng sai là tội, người ta trừng trị tư tưởng là chuyện thường ngày ở huyện[11]. Hơn thế, mình nhận tư tưởng sai thì ắt phải khai tiếp đã chia sẻ tư tưởng ấy với ai, có khi lại làm hại người khác.

– Cũng có thể là như thế. – tôi nói lấp lửng – Điều đó hoàn toàn đúng ở các hình thái xã hội trước kia. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa nội dung quan hệ này có khác, xuất phát từ một hệ khái niệm khác. Mối quan hệ giữa Đảng và đảng viên ở đây được đặt trong một bối cảnh đặc biệt, nó mang tính chất khác thường, có thể nói là một tính chất thiêng liêng…

– Anh muốn nói mối quan hệ ấy mang tính chất tôn giáo? – giọng tưng tửng, Hoàng hỏi.

Thằng cha giỏi, tôi nghĩ.

– Tôi không khẳng định, nhưng về mặt nào đó những mối quan hệ thiêng liêng trong Đảng và trong các tôn giáo có nét giống nhau.

– Có lý, có lý lắm.

– Tính chất thiêng liêng thể hiện trong sự thần thánh hóa vai trò của tổ chức thế tục, trong sự đặt ra nhiều hy sinh hơn hưởng thụ trong cuộc chiến đấu cho những mục tiêu thực ra không mấy thiêng liêng như cơm áo, việc làm, nhà ở…

– Anh đồng ý với tôi rồi đấy: quan hệ giữa đảng và đảng viên chỉ là quan hệ hợp đồng – Hoàng cười tủm tỉm – Hợp đồng là hợp đồng, nó chẳng có gì thần thánh, chẳng có gì thiêng liêng. Trên đời này chỉ có một mối quan hệ thiêng liêng – ấy là quan hệ huyết thống. Quan hệ máu mủ ruột rà là cái không thể chế tạo ra, không thể mua sắm được… Nhưng thôi, ta trở lại với công việc. Này, nhân tiện anh có thể nói gì về quan hệ giữa Văn Cao và Nguyễn Đình Thi[12] cho chúng tôi biết không nhỉ?

– Anh đang hỏi cung hay hỏi vì tò mò?

– Tôi đang làm việc với anh.

– Tôi nghĩ rằng nếu anh quan tâm đến mối quan hệ giữa hai người thì cách tốt nhất là hỏi thẳng họ.

– Tôi lại nghĩ rằng nếu anh có cho tôi biết chút ít thêm vào những gì chúng tôi đã biết rồi cũng chẳng chết ai. Đảng yêu cầu anh đóng góp ý kiến cho Đảng mà. Có khi những câu chuyện của anh lại có tác dụng làm sáng tỏ những điều chưa được Đảng hiểu đúng cũng nên.

Cách hỏi cung của Hoàng là như vậy. Anh ta không hùng hục đi thẳng tới đích, mà thủng thẳng mời tôi cùng dạo bước trên những câu chuyện mung lung rồi bỗng đột ngột rẽ vào đề tài mà y muốn biết. Nắm được phong cách làm việc của Hoàng, tôi tương kế tựu kế thỉnh thoảng lại nhân vui chuyện thọc một mũi thăm dò. Tôi muốn qua Hoàng tìm hiểu thái độ của Đảng đối với vụ chúng tôi, và đối với văn nghệ sĩ nói chung, trong giai đoạn hiện tại. Tại sao lại không kể cho anh ta nghe những điều xét cho cùng là vô thưởng vô phạt?

Một hôm tôi kể cho Hoàng nghe chuyện xảy ra trong cuộc chỉnh huấn cho văn nghệ sĩ tại ấp Hoàng Cao Khải thời kỳ Nhân văn – Giai phẩm. Trong cuộc đấm ngực tập thể Nguyễn Đình Thi lên diễn đàn xỉ vả Văn Cao và câu nói "trong giọt nước có cả trời xanh" của anh. Chửi xong, từ diễn đàn bước xuống Nguyễn Đình Thi ôm lấy Văn Cao thì thầm "Văn ơi, hiểu cho mình, cái thế mình phải thế!". Văn Cao kể cho tôi nghe câu chuyện này, với một ánh buồn trong mắt. "Trước cách mạng nó đâu đến nỗi thế. Nó là thằng anh hùng, bây giờ cam phận làm con giun".

Câu chuyện nhiều người biết, có nói ra cũng chẳng hề gì.

Hoàng chăm chú nghe rồi nói, giọng bùi ngùi:

– Có vẻ tinh thần nho sĩ Bắc hà chẳng còn lại bao nhiêu trong giới văn nghệ sĩ các anh, phải thế không?

Hoàng không tỏ ra muốn bảo vệ Nguyễn Đình Thi. Y không phủ nhận câu chuyện thực. Thái độ y bàng quan.

– Nguyễn Đình Thi không phải nho sĩ. – tôi nói – Nguyễn Đình Thi là con người hiện đại. Những người hiện đại không hành xử theo cách của nhà nho, họ không cần tới thứ tinh thần cổ xưa ấy, nhất là những người cộng sản. Đối với Nguyễn Đình Thi lợi ích của Đảng là cao nhất.

– Anh nghĩ rằng những người cộng sản không cần tới nhân phẩm?

Một câu hỏi nguy hiểm.

– Tôi nghĩ rằng những người cộng sản không có nhiều khả năng lựa chọn. – tôi thận trọng từng chữ – Họ làm những việc xét thấy có lợi cho Đảng, cho sự nghiệp của Đảng.

Hoàng lại nhếch mép cười. Một lần nữa y hiểu ý ngầm trong câu nói của tôi và tôi giật mình.

– Anh có quan hệ thân tình với Nguyễn Đình Thi, phải không?

– Không.

Tôi bao giờ cũng trọng Nguyễn Đình Thi vì phổ tài hoa của anh. Nó rất rộng. Có lẽ trong thập niên 40 chỉ có hai người đa tài như thế: Văn Cao và Nguyễn Đình Thi. Những bài hát của Nguyễn Đình Thi làm mê mệt lớp thanh niên chúng tôi một thời. Hát về Hà Nội tôi chưa thấy bài nào hay hơn Bài Hát Của Người Hà Nội. Thơ của anh cũng gợi nhiều. Nguyễn Đình Thi trong thơ như cá tung tăng trong nước, không cần phải lên gân lập trường "Đêm đêm rì rầm nghe tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về… ", "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh, Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây. Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh, Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây… ". Nhưng Nguyễn Đình Thi mà tôi biết cũng là người yếu đuối, anh luôn lúng túng trước những ngã ba, ngã tư của cuộc đời và tình yêu. Có thể tôi nhầm, nhưng giả thử tôi có nhầm thì cái nhầm cũng không lớn.

Nhớ một đêm tháng 10 mát mẻ năm 1954, vài ngày sau khi tiếp quản thành phố Hà Nội, chúng tôi ở cùng nhau trong khách sạn Splendid[13], Nguyễn Đình Thi qua phòng tôi rủ tôi đi chơi. Chúng tôi lững thững thả bộ từ Lý Thường Kiệt qua chợ Hôm rồi rẽ sang Trần Xuân Soạn. Đang đi, Nguyễn Đình Thi đột ngột rẽ vào Triệu Việt Vương hay Bùi Thị Xuân tôi không nhớ. Ở đầu phố anh rủ tôi ngồi xuống bậc thềm một ngôi nhà, đau đáu nhìn sang ngôi nhà trước mặt chìm trong bóng tối của giàn hoa giấy um tùm.

– Không biết bây giờ ai ở trong nhà này – Nguyễn Đình Thi thở dài – Trước đây là nhà người yêu mình…

Anh rủ tôi đi tiếp:

– Mình đã đi đi lại lại không biết bao nhiêu đêm trên vỉa hè này. Người ta viết nhiều về mối tình đầu, dường như nó lớn hơn bất kỳ mối tình nào khác. Điều có thật là con người không thể quên được mối tình đầu, cho dù nó thoảng qua, cho dù nó không sâu sắc. Trong điều kiện nó là mối tình đích thực…

Khi chúng tôi về tới khách sạn, trời đã khuya. Hà Nội còn đang trong thời kỳ giới nghiêm. Không đội tuần tra nào bắt gặp chúng tôi.

Chúng tôi ở mỗi người một phòng. Đến trước cửa phòng mình, Nguyễn Đình Thi bảo tôi:

– Mai đừng đánh thức mình đi ăn sáng nhé! Mình sẽ dậy muộn đấy.

Tôi về phòng. Lát sau, tôi gõ cửa phòng Nguyễn Đình Thi để lấy cuốn sách anh hứa cho mượn. Anh đã không còn ở đấy.

– Anh có biết về mối tình của Nguyễn Đình Thi với Madeleine Riffaud[14] không?

– Anh hỏi cung?

Hoàng cười hiền lành:

– Cung gì đâu, chúng ta đang nói chuyện vãn mà. Anh không thích trả lời thì không cần phải trả lời.

– Tôi biết hai người thân nhau trong thời gian chị Riffaud tới Việt Nam. Không rõ có phải là một mối tình không, tôi không nghe anh Thi tâm sự chuyện đó, nhưng nếu có thì cũng chỉ là một mối tình thoảng qua, nhiều chất hữu nghị hơn là tình yêu…

Đêm hôm ấy Nguyễn Đình Thi ở phòng Madeleine, tôi biết. Hồi ấy có nhiều lời xì xào về mối tình Việt-Pháp của anh. Nếu không phải là Nguyễn Đình Thi thì chắc chắn sẽ lôi thôi to. Anh sẽ bị buộc tội hủ hóa, tội luyến ái bất chính, là thứ tội nặng đối với cán bộ, khó tránh khỏi bị thi hành kỷ luật. Nguyễn Đình Thi được hưởng ngoại lệ. Trường Chinh, và nói chung các nhà lãnh đạo chủ chốt, rất quý anh.

Tôi không thích những lời xì xào ấy. Tôi quý Madeleine, người con gái anh hùng của nước Pháp trong cuộc kháng chiến chống phát-xít Đức, vì tình yêu khó giải thích của chị đối với Việt Nam. Madeleine yêu đất nước của những dòng sông nồng nàn phù sa bằng tình yêu bản năng chứ không phải bằng tình yêu quốc tế vô sản, như thể nó là nơi chôn nhau cắt rốn của chị vậy. Cùng ở Việt Nam vào thời gian này còn có Helena Lemanska[15] và Roman Carmen[16]. Helena Lemanska có cái nhìn đồng cảm dịu dàng của người Ba Lan Thiên Chúa giáo đối với một Việt Nam mới được phát hiện, bình dị mà nồng thắm, có pha trộn chút ít tính chuộng lạ. Từ Moskva Carmen đến với Việt Nam như anh đã đến với Tây Ban Nha trong cuộc chiến đấu của những người Cộng hòa chống lại bọn phát-xít, với hai tư cách: nghệ sĩ và chiến sĩ cộng sản.

Madeleine Riffaud ước ao "Rồi đây đũa ngọc mâm vàng có nhau", nhưng mộng không thành. Vì sao không thành, tôi không biết. Có thể vì Nguyễn Đình Thi không thể bỏ vợ. Mà cũng có thể do Đảng của anh cấm anh không được “luyến ái” người nước ngoài, một sự cấm đoán không làm ai ngạc nhiên trong thời kỳ ấy. Madeleine Riffaud Việt Nam và mối tình vụng trộm của hai người chìm vào quên lãng.

Mùa hè năm 1967 tôi có một buổi dạo phố tình cờ với Nguyễn Đình Thi. Anh vừa ra khỏi trụ sở Nhà xuất bản Văn học nằm trên đường Hai Bà Trưng thì gặp tôi.

– Sao dạo này không thấy cậu viết gì? – Nguyễn Đình Thi hỏi tôi.

– Có gì đâu, cái đầu tôi nó không ổn. Tôi có những ý nghĩ vô kỷ luật. Sau Đường Số 4 bị lên án vì chủ nghĩa ấn tượng mà tôi không có, thậm chí không hiểu nó là gì, đến Đêm Mất Ngủ bị ông Tố Hữu gọi là "bất mãn với chế độ hiện hành", rồi Đêm Cuối Cùng, Ngày Đầu Tiên bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh là “Chủ nghĩa nhân đạo chung chung”, chống chiến tranh thống nhất đất nước, tôi chán, không muốn viết nữa…

Nguyễn Đình Thi cười khe khẽ. Tôi quen với cách cười của anh. Cười để không nói, ai hiểu thế nào cũng được.

– Thảo nào cậu vắng bóng hẳn. Không viết thì có đọc được nhiều không?

– Thì tôi còn làm gì nữa ngoài đọc? Tôi đang mê châu Phi đây.

– Châu Phi à? Mà tại sao lại châu Phi?

– Văn xuôi ở đại lục này nhiều chất thơ, nhiều triết lý dân dã cội nguồn, chứ không phải triết lý tư biện, không tả chân lằng nhằng, không giải thích ba hoa, đọc thú lắm. Anh đọc mấy cuốn Con Báo, Ông Giê-su Khốn Khổ Ở Tỉnh Bomba chưa?

– Chưa. Mình dạo này ít đọc lắm. – Nguyễn Đình Thi thở dài – Toàn bận những chuyện không đâu. Đi lên thỉnh thị, đi xuống truyền đạt. Họp và họp. Thậm chí mình không biết có những cuốn ấy. Hay lắm à?

– Tuyệt vời! Tôi không kỳ thị chủng tộc. So sánh nền văn học của những người anh em da đen tôi thấy xấu hổ cho nền văn học của chúng ta. Toàn một thứ thuyết giảng dài dòng văn tự, minh họa thô thiển…

Nguyễn Đình Thi trầm ngâm một lát. Sau một quãng tản bộ dài, anh nói khẽ:

– Ở các nước khác cần phải có tài mới thành nhà văn…

Tôi hiểu đoạn cuối của câu nói: "… còn ở nước ta thì không ". Nguyễn Đình Thi có lối nói như thế – người nghe phải tự hiểu lấy điều anh không nói ra.

Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm trong kháng chiến chống Pháp. Giữa câu chuyện Nguyễn Đình Thi hỏi tôi:

– Cậu thấy Vỡ Bờ của mình thế nào?

Tôi lúng túng. Câu hỏi thẳng đòi một câu trả lời thẳng. Tôi không muốn làm Nguyễn Đình Thi mất lòng.

– Tôi không thú Vỡ Bờ.

– Có thể nói rõ thêm được không?

– Nó cũng là sự thuyết giảng. Mà thừa. Nó rõ ràng không phải là nhu cầu nội tâm của anh. Đọc qua cũng thấy tác giả không viết cũng chẳng sao. Không cảm thấy sự thúc bách của tâm hồn người viết – không thấy anh trong đó. Thêm nữa, tôi không thích cách anh chấm phẩy, xuống dòng trong cuốn này. Không chỉnh. So với Xung Kích là sự thụt lùi. Tôi thích thơ của anh hơn. Nó là tiếng lòng anh, đích thực, nó nói thay cho tiếng lòng tôi, tiếng lòng của người đọc…

Chúng tôi im lặng đi bên nhau một lúc lâu. Lúc chia tay Nguyễn Đình Thi nói, giọng buồn hẳn:

– Lẽ ra mình chỉ nên làm nhạc. Âm nhạc – đó mới là chỗ của mình.

Cái sự không tìm ra chỗ của mình có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người, sau khi đặt số phận mình vào bàn tay dìu dắt của Đảng đều phải gò mình vào cái tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô hình vô ảnh, phải chui vào trong nó, phải hoà tan trong nó, để tự biến mình thành nó. Trong cái tôi tập thể này ai cũng thấy vướng víu, không thoải mái. Nhưng đã chấp nhận nó rồi, người ta đành buông tay, mặc cho mọi sự xuôi dòng. Nhưng con người là con người, có những lúc nó không làm chủ được mình, trong trường hợp cái tôi đích thực bất thình lình vùng lên, thúc bách đòi lại vị trí tự nhiên của nó, đòi được là nó.

(Còn tiếp)


[1] Một giống nhãn rất quí ở Hưng Yên, ngày nay chỉ còn vài cây, nghe nói rất khó nhân giống. Nhãn này có tên là "nhãn tiến" vì ngày trước chỉ dùng để dâng vua.

[2] Phủ Khoái Châu, một huyện của tỉnh Hưng Yên.

[3] Trong những năm đó, ruộng đất không phải thuộc nhà nước dưới dạng các nông trang tập thể đều thuộc hợp tác xã, nông dân chỉ được phép trồng tỉa cho cá nhân trên số đất 5% được Nhà nước để lại cho mà dùng. Thế mà ở hầu hết các hợp tác xã nông dân thu hoạch trên đất 5% này còn lớn hơn thu hoạch được chia trong hợp tác xã.

[5] Để loại trừ đối thủ hoặc kẻ mình không ưa, người ta hất ra ngoài các chức vụ đang nắm giữ, cho về hưu non hoặc dùng cách khác có hiệu quả tương tự, gọi là “đá xuống”, “đá đi”, nhưng cũng có thể đưa lên chức vụ cao hơn, nhưng là chức vụ hữu danh vô thực nhằm vô hiệu hóa, gọi là “đá lên”. Sau “sai lầm” của mình, Lê Quý Quỳnh được đưa lên làm thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, rồi sau đó làm hiệu trưởng Hội những người nuôi ong.

[6] Viking, còn gọi là Norseman hoặc Northman, chỉ người đi biển, thương gia, hải tặc của vùng Scandinave hoành hành nhiều vùng rộng lớn của châu Âu và Nga (thế kỷ 8-11). Lịch sử vùng Scandinave gọi th`ky này là Thời Viking. Saga là hình thức chuyện thơ dân gian nhiều chất anh hùng ca của Iceland và Na Uy

[7] Truyện dân gian truyền khẩu ở thế kỷ 13 lưu truyền trong các dân tộc Anglo-Saxon. Bản dịch đầu tiên sang tiếng Việt của Vũ Trọng Phan có tựa đề: "Chàng Tiễu Nhiên và Nàng Mị Cơ"..

[8] Nhà thơ, nổi tiếng với những câu "Ai bảo trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ? Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ? " trong tập thơ Cửa Mở bị đánh vào thập niên 70. Vào thời gian này Việt Phương đang làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng.

[9] Không phải tên thật.

[10] Người mê nước Pháp, văn hóa Pháp một cách mù quáng, thiên vị.

[11] Một lối nói chỉ sự việc rất bình thường, không có gì đặc biệt, có xuất xứ từ tên một cuốn ký sự Chuyện Thường Ngày Ở Huyện của nhà văn Liên Xô Ovetchkin (bản dịch của Phạm Mạnh Hùng và Võ Minh Phú).

[12] Nguyễn Đình Thi (1924-2003), nhà thơ, nhà văn, từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo trong ngành văn hoá văn nghệ ở miền Bắc Việt Nam.

[13] Nay là khách sạn Hoà bình.

[14] Madeleine Riffaud (1924), nhà báo, nhà văn, nhà thơ Pháp, viết chủ yếu cho tờ nhật báo Humanité (Nhân Đạo). Tham gia kháng chiến chống phát-xít Đức, từng bị cầm tù. Sau chiến trường Algérie, Madeleine Fiffaud đến Việt Nam vào cuối cuộc chiến. Mối tình với Nguyễn Đình Thi là nguồn cảm hứng cho cuốn “Đôi đũa ngọc (Bagette de jade).

[15] Helena Lemanska, quay phim, đạo diễn của Xưởng phim Thời sự Tài liệu Warszawa. Bộ phim Cây Tre Việt Nam ("Bambuk mój brat" – Cây tre, người anh em của tôi) là kết quả chuyến đi thăm nước Việt Nam kháng chiến.

[16] Roman Carmen (1906-1975), nhà quay phim, đạo diễn, nổi tiếng trong ngành điện ảnh ký lục của Liên Xô và thế giới. Việt Nam Chiến Đấu (tên Việt Nam: Việt Nam Trên Đường Thắng Lợi) là cuốn phim về cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ.

Comments are closed.