Người làm vườn (3)

Nguyễn Đức Tùng

11.

Mẹ tôi bệnh nặng. Tôi đi học về, thấy trong buồng tối mẹ tôi nằm thiêm thiếp trên giường, những người phụ nữ đến thăm ngồi bệt dưới đất, bao quanh. Mọi người im lặng. Dì tôi ra dấu cho tôi đi theo ra sau hè nhà. Tôi biết mẹ tôi bị sốt mấy hôm nay, đau bụng, đi tiêu chảy, rụng tóc, người gầy rộc đi. Thần trí lơ mơ, có lúc mê sảng, có lúc tỉnh.

Dì tôi đưa cho tôi một cái lọ thủy tinh, sai tôi đi tiểu vào đó. Tôi làm theo, nhưng ngượng quá, hồi lâu không ra giọt nào. Tôi ngước nhìn lên, một con chim hót trong cành liễu. Đó là một cây trắc bách diệp cao lớn vượt qua đầu tôi, màu xanh sẫm, nhiều nhánh, nhiều lá. Tháng Tư vào mùa hoa. Liếc nhìn dì tôi đứng phía sau, tôi ráng hết sức, cuối cùng nước tiểu cũng vọt ra đầy ấp cả lọ, tràn ra ngoài. Dì tôi ngắt một cái lá trắc bách diệp thả vào đó, đem cho mẹ tôi uống. Mẹ tôi tỉnh lại, mấy ngày sau, bệnh bắt đầu nhẹ, hồi phục. Năm ấy tôi lên sáu tuổi. Mới đầu tôi tin rằng do nước tiểu của tôi mà mẹ tôi sống trở lại, sau đó tôi nghĩ rằng đó là do tác dụng của lá cây diệp liễu. Nhiều năm sau nữa, tôi nghĩ rằng bà tỉnh dậy không phải vì nước tiểu, không phải vì lá cây trắc bách diệp, mà vì đó là nước tiểu của con trai của bà, tức là của chính bà.

12.

Trên thế gian cũng vẫn còn những cặp vợ chồng. Chúng ta quên mất họ lâu lắm rồi. Đôi khi chúng ta nhìn thấy họ trên đường phố. Người đàn ông đi trước, mặc quần áo chỉnh tề, mang cà vạt, người đàn bà đi theo sau, khép nép, bám sát lưng chồng. Thật là một hình ảnh ít gặp trong thời đại chúng ta. Bạn thử tưởng tượng: những cặp vợ chồng với hình ảnh cổ điển người đàn ông đi trước người đàn bà theo sau và tôi nghe nói đêm đêm những người đàn bà như thế vẫn sẵn sàng để cho bọn đàn ông ấy nằm đè lên trên nữa. Thật là một điều khủng khiếp. Đôi khi chúng ta tưởng rằng không có họ trên đời, thế rồi họ bỗng xuất hiện, những cặp vợ chồng ấy, và đám đông tụ tập xung quanh họ ngày càng đông và nó khiến mọi người ngơ ngác, và sau khi ngơ ngác một lúc thì đám đông như nổi điên nổi rồ lên và bắt đầu bắt chước họ và bắt đầu nhớ lại thứ hạnh phúc ảo tưởng mà họ đã từng có mà họ đánh mất, và làm cho mọi người khác nổi hứng bắt chước theo trong nhiều ngày, cho đến khi những cặp vợ chồng lại biến mất trên đường phố, như họ phải thế, thật là một sự điên rồ không thể tha thứ được.

13.

Ở Đông Hà có một bức tượng của Fidel Castro. Người ta dựng bức tượng ấy để tưởng nhớ sự kiện vào năm 1973 sau hiệp định Paris, nhà lãnh đạo Cuba vào tận nơi ngủ lại một đêm ở đó, nơi được xem là thủ đô mới của chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một bộ phận của Mặt trận giải phóng. Đêm ngủ lại ấy có gì đặc biệt? Fidel tuyên bố rằng khi ngủ ông vẫn mặc quân phục và nhất định không cởi giày, bảo rằng dù đã có lệnh ngừng bắn vùng đất ấy vẫn là mặt trận, và người lính trên mặt trận không cởi giày khi ngủ. Fidel nổi tiếng về các huyền thoại. Một người lính gác cửa trước phòng ngủ của Fidel mà tôi đã gặp ở Đông Hà vào năm 2009, lúc ấy khoảng ngoài bảy mươi tuổi, bảo rằng hôm đón Fidel trời quá nóng. Thị trấn sau bom đạn chưa có điện, không có quạt máy, người ta phân công anh và vài người du kích tin cẩn khác bồng sung canh gác nghiêm ngặt trước cửa phòng ngủ. Anh mở hé cửa để thông gió, thỉnh thoảng mang nước uống vào, mang cả quạt mo. Người du kích già khẳng định rằng khi ngủ Fidel không mang giày, không mang áo quần gì cả, không cả quần lót và nằm dưới một cái chăn mỏng. Để kiểm tra điều này tôi đọc một số cuốn sách viết về Fidel, các tiểu sử, những câu chuyện bên lề và tin rằng ông có thói quen như nhiều người khác, khi ngủ thì không bao giờ mặc đồ gì cả.

14.

Người phụ nữ buồn nhất trên thế gian đã qua đời. Ngày hôm qua. Người đàn bà Ý, góa phụ, đến Canada năm mười ba tuổi trong đệ nhị thế chiến, và chưa bao giờ trở lại quê hương của bà, trên bờ hồ Garda, nơi bà sinh ra. Tôi đã đến đó, cái làng ấy, gần bên một địa điểm du lịch, sâu hơn trong rừng, theo những hướng dẫn tỉ mỉ của bà. Một tấm bản đồ bà vẽ bằng tay.

15.

Khi về nhà cũ ở làng quê, tôi nhặt được một cái điện thoại cầm tay trong luống khoai lang. Nó nằm vùi một nửa trong đất cát, tôi bới ra, nhặt lên. Không có điện, không đọc được gì ở đó, chỉ là một cái điện thoại được bán chịu gần như cho không những năm gần đây của các công ty viễn thông. Ở xóm tôi người ta không biết dùng nó làm gì, không xài được, chỉ sau một thời gian trẻ con lấy chơi rồi vứt bỏ. Người ta không có nhu cầu phải gọi cho ai cả, mọi người đều biết rõ về nhau, cô nào sắp lấy chồng, người nào mới chết, đứa trẻ nào vừa rơi xuống sông, người trong xóm tôi đều biết trước cái điện thoại.

16.

Căn phòng nhỏ trong chung cư. Bốn giờ sáng. Người đàn bà không ngủ được, dậy sớm, ngồi bên cửa sổ, sau lưng bà là cái coffee maker nước sôi sùng sục. Cà phê bốc mùi thơm khắp phòng. Người đàn bà đã lớn tuổi nhưng còn khỏe, ở một mình, quay lại bên máy cà phê, chuẩn bị sữa, kem, muỗng tách. Tôi lắng nghe tiếng réo sôi, tôi ngửi thấy mùi cà phê thơm lừng buổi sáng. Người đàn bà bỏ thêm một ít hoa thơm khô, oải hương, nhiều quế. Bà thích mùi quế, nghĩ đến, ở một nơi cách xa ngàn dặm, đứa con trai duy nhất của bà, một người đàn ông ba mươi tuổi, đang ngủ, vì họ cách nhau bốn giờ đồng hồ. Anh ngủ mê sau một ngày làm việc. Về nhà để nguyên quần áo nằm lăn xuống giường sau khi ăn vội miếng bánh mì.

Sau nửa đêm gần sáng anh thức dậy vì một tiếng động lạ. Tiếng động lanh lảnh khó chịu vang lên trong phòng im ắng. Tiếng của cái tách vỡ? Không phải, tiếng của một cái muỗng rơi xuống lanh canh trên sàn đá lạnh, kêu rất lâu trong không gian mờ tối. Anh bật đèn lên nhìn quanh, cúi xuống cả gầm giường, nhưng không thấy một cái tách nào cả, một cái muỗng nào cả. Anh vào bếp, cái máy pha cà phê vẫn còn ở đó, nguội lạnh, vì anh không có thói quen uống cà phê ở nhà mình. Độc thân, anh thường ăn uống ở bên ngoài, chỉ về nhà để ngủ. Anh gọi điện thoại cho mẹ, không ai bắt phone cả. Hôm sau, anh lấy vé máy bay cấp tốc về thành phố nơi mẹ anh sống, ngay sau khi được báo tin bà qua đời. Khi ấy, người ta đã mở cửa vào nhà và đã đưa mẹ anh đến nhà quàn. Anh vào phòng mẹ, và gần như ngay lập tức nhìn thấy một cái muỗng bạc rơi trên sàn nhà, nằm ở một góc tường.

17.

Phía sau nhà, gần mái hiên rộng, giữa hai cây đào bị bom cắt tận gốc, cỏ mọc xanh um, ngổn ngang những đống gạch đá, đã nằm xuống ở đó một linh hồn.

Tôi biết thế khi quỳ xuống, một mình trong buổi chiều, dùng hai tay đào bới, cúi người thật thấp trong ánh sáng nhá nhem, nhìn thấy hình dáng của nó, tựa như nhà khảo cổ nghiên cứu các dấu vết hóa thạch của con thằn lằn khổng lồ thời tiền sử. Nhưng đây là một con vật nhỏ bé, đã đi qua thời niên thiếu của tôi, bây giờ nằm xuống đó, bộ xương của nó lặn sâu vào đất. Tôi nhặt lên những khúc xương nhỏ bằng đầu ngón tay rồi đổi ý đặt chúng lại chỗ cũ. Tôi hình dung thấy chiếc hộp sọ nhỏ bé bằng nắm tay, bốn xương cẳng chân, xương sống, những xương sườn. Tôi hình dung ra rõ ràng cái dáng của nó. Thế rồi tôi bỗng đánh mất niềm tin của mình, và nghĩ rằng đây là một nhầm lẫn. Tôi ngồi thật lâu, mặt trời sắp lặn, rồi lặn hẳn, tôi bắt đầu nhìn thấy cái đuôi của nó, dù không có vết tích gì cả. Con vật từ từ đứng lên, mới đầu trên hai chân trước, rồi hai chân sau. Cái mõm của nó ngước lên. Tôi nhìn thấy nó ngồi trên bậc cửa, chồm dậy, vẫy đuôi, lao ra sân trong một mùa hè muộn, khi mọi thứ quanh tôi đều tan rã, và đất thu nhận lại tất cả. Trước khi xóa đi mọi vết tích của đời sống cũ, thế giới cũ, mặt đất dịu dàng chuyển động và nâng lên một lần nữa bộ xương của con chó nhỏ trong không gian, khắc một lần nữa vào buổi chiều tối cái dáng ấy của sự chuyển động, biểu tượng của sự chuyển động.

Comments are closed.