Thơ Lưu Hiểu Ba – Lưu Hà


Tôi đã dịch chùm thơ của Lưu Hiểu Ba vào đêm 13/7/2017, đêm biết tin ông qua đời. Việc dịch bắt đầu với một ý nghĩ giản dị: một con người, một cuộc đời như thế – thơ của ông sẽ ra sao? Dịch xong, định sẽ cất giữ vào ngăn kéo, như cách một người khóa gương mặt của mình lại.

Đó là một đêm không ngủ, trò chuyện với người bạn đang du học phương xa về những nông nỗi của đời sống. Đến bây giờ vẫn còn váng vất nhớ cảm giác về đêm ấy: việc chuyển ngữ những dòng chữ của một người vừa qua đời sang tiếng Việt, tiếng trò chuyện vô thanh, tiếng gõ bàn phím lách cách, mùi đêm…

Văn chương, thực ra chưa bao giờ là chốn an lành. Sa ngã với chữ nghĩa để đến lúc ngậm ngùi trót vì tay đã nhúng chàm…

Với cuộc đời, dù đến dù đi, vẫn thấy còn nhiều tha thiết quá?

Diễm Tường

Lưu Hiểu Ba – Bay trong cái chết

Lưu Hiểu Ba (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1955, mất 13 tháng 7 năm 2017) là một trí thức, nhà văn, nhà hoạt động nhân quyền người Trung Quốc. Ông được trao giải Nobel Hòa Bình vì “cuộc đấu tranh trường kỳ bất bạo động vì quyền con người ở Trung Quốc” vào năm 2010, bất chấp áp lực ngăn cản từ chính phủ Trung Quốc.

Lưu Hiểu Ba từng là giáo sư Đại học Bắc Kinh, tác giả của nhiều bài viết nổi tiếng, có thể kể đến như: Phê phán về quyền lựa chọn – Đối thoại với Lý Trạch Hậu, Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 1987; Thẩm mỹ và quyền con người, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Bắc Kinh, 1988; Huyền thoại về siêu hình học, Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 1989; Trần trụi gặp Chúa, Nhà xuất bản Văn học thời đại và Nghệ thuật, 1989; Độc thoại:Những kẻ sống sót của ngày tận thế, Nhà xuất bản thời đại Đài Loan, 1993; Chính trị và các học giả đương đại Trung Quốc, Nhà xuất bản Đường sơn Đài Loan, 1990; Tương lai của Trung Quốc tự do trong cuộc đời chúng ta, Quỹ Cải cách Lao động, 2005… Lưu Hiểu Ba cũng sáng tác thơ, trong số đó có nhiều bài thơ viết cho vợ ông – bà Lưu Hà, người bạn đường luôn cùng ông đồng cam cộng khổ. Quãng thời gian Lưu Hiểu Ba bị kết án và bắt giam dài hạn (từ năm 2009 đến nay) có nhiều bài thơ ông viết trong tù gửi cho vợ. Trong thời gian này, bà Lưu Hà cũng bị quản thúc tại gia. Dù không được phép công bố ở Trung Quốc, thơ của Lưu Hiểu Ba và vợ đã được in ở Hồng Kông trong tập Những bài thơ tuyển chọn của Lưu Hiểu Ba và Lưu Hà (Nhà xuất bản Quốc tế Xiafeier Hồng Kông, 2000) .

Sau đây là bài thơ “Thể nghiệm cái chết” của Lưu Hiểu Ba và bài thơ sáng tác gần đây của Lưu Hà, người vợ được ông gọi là “một mỹ nhân cho tôi viên thuốc tối hậu” – gửi cho ông.

体验死亡
刘晓波

纪念碑一阵阵抽泣
大理石的纹路浸透血迹
信念和青春扑倒在
坦克履带的铁锈下
东方那古老的故事
突然新鲜欲滴

浩荡的人流渐渐消失
犹如一条慢慢干枯的河
两岸的风景化作石头
所有的喉咙都被恐惧窒息
所有的颤抖都随硝烟散去
只有刽子手的钢盔闪闪发光

二.
我不再认识旗帜
旗帜象还不懂事的孩子
扑在妈妈尸体上哭喊着回家
我再不能分辨白昼和黑夜
时间被枪声惊呆
象失去记忆的植物人
我丢掉了身份证和护照
那个曾经熟悉的世界
在刺刀挑起的黎明中
找不到一捧泥土
掩埋自己

赤裸裸的心
与钢铁碰撞
没有水没有绿色的大地
一任阳光蹂躏

他们等呀等
等待变成野兽的时刻
等待时间编出精致的谎言
直等到
手指变成利爪
眼睛变成枪口
双脚变成履带
空气变成命令
来了
终於来了
那个等了五千年的命令

开枪——杀人
杀人——开枪
和平请愿与手无寸铁
拄拐的白发与扯着衣襟的小手
决不能说服刽子手
枪筒打红了
双手染红了
眼睛烧红了
一粒子弹
一股浑浊的宣泄
一次犯罪
一种英雄的壮举

多么轻松
死亡就如此降临
多么容易
兽欲就得到满足
那些年轻的士兵
也许刚刚穿上军装
还没有经历过
被姑娘亲吻的醉意
却在刹那间
体验到嗜血的快感
杀人是他们青春的开始

他们
看不见浸透连衣裙的血
听不见挣扎着的尖叫
对钢盔的坚硬和生命的脆弱
他们毫无感觉
他们不知道
一个昏庸的老人
正在把古老的京城
变成又一处奥斯维辛

残忍与罪恶拔地而起
象金字塔一样辉煌
而生命崩溃如深渊
听不到一丝回响
屠杀雕刻出一个民族的传统
岁月悠悠,如废弃的语言
做最後的诀别

四.
我本想在阳光下 加入殉道者的行列 用仅存的一根骨头 支撑起虔诚的信仰 但,天空并不会 为牺牲者镀上金黄 一群饱食死尸的狼 在正午的温暖中 喜气洋洋
遥远地 我把生命放逐到 一个没有太阳的地方 逃出耶稣生日的纪元 我不敢正视十字架上的目光 从一支烟到一小堆灰烬 我被烈士的酒灌醉 以为这个春天已经消逝
当我在深夜的烟摊前 被几个大汉拦路抢劫 戴上手铐蒙住眼睛堵住嘴巴 扔进不知驶向何方的囚车
蓦然醒悟:我还活着 当我的名字在中央电视台 变成新闻中的“黑手” 无名者的白骨立在遗忘里 变成一枚英雄勋章 我被自编的谎言高高擎起 逢人便讲我体验过死亡
尽管我知道 死是神秘的未知 活着,便无法体验死亡 而死了 就再不能体验死亡 但 我仍在死中飞翔 沉沦地飞翔 无数个铁窗后的夜晚 和星光下的坟墓 被我的噩梦出卖
除了谎言 我一无所有 1990年6月于秦城监狱

(nguồn: http://beijingspring.com)

http://beijingspring.com/bj2/2000/4…

Experiencing Death

translated by Jeffrey Yang

4. I had imagined being there beneath sunlight

with the procession of martyrs

using just the one thin bone

to uphold a true conviction

And yet, the heavenly void

will not plate the sacrificed in gold

A pack of wolves well-fed full of corpses

celebrate in the warm noon air

aflood with joy

Faraway place

I’ve exiled my life to

this place without sun

to flee the era of Christ’s birth

I cannot face the blinding vision on the cross

From a wisp of smoke to a little heap of ash

I’ve drained the drink of the martyrs, sense spring’s

about to break into the brocade-brilliance of myriad flowers

Deep in the night, empty road

I’m biking home

I stop at a cigarette stand

A car follows me, crashes over my bicycle

some enormous brutes seize me

I’m handcuffed eyes covered mouth gagged

thrown into a prison van heading nowhere

A blink, a trembling instant passes

to a flash of awareness: I’m still alive

On Central Television News

my name’s changed to “arrested black hand”

though those nameless white bones of the dead

still stand in the forgetting

I lift up high up the self-invented lie

tell everyone how I’ve experienced death

so that “black hand” becomes a hero’s medal of honor

Even if I know

death’s a mysterious unknown

being alive, there’s no way to experience death

and once dead

cannot experience death again

yet I’m still

hovering within death

a hovering in drowning

Countless nights behind iron-barred windows

and the graves beneath starlight

have exposed my nightmares

Besides a lie

I own nothing

(Nguồn: http://www.nytimes.com/2010/12/09/opinion/09liu.html)


Thể nghiệm cái chết

Lưu Hiểu Ba


1. Bia tưởng niệm từng cơn thổn thức

những phiến đá cẩm thạch đẫm máu

những tâm nguyện cùng với tuổi thanh xuân dốc xuống đây

gỉ sét dưới lớp bánh xe bọc thép

câu chuyện cũ phương Đông

đột nhiên mới mẻ và tươi nhuận

Dòng người cuồn cuộn cuối cùng từ từ biến mất

cũng giống như một dòng sông chầm chậm khô

phong cảnh đôi bờ hóa thành đá

mọi cổ họng đều nghẹn vì sợ hãi

mọi nỗi run rẩy đều theo khói tản đi

chỉ có cái mũ sắt của tên đao phủ là phát sáng

2. Tôi không hiểu được những tấm biểu ngữ[1]

những tấm biểu ngữ giống như một đứa trẻ không hiểu chuyện

phủ lên di thể của người mẹ khóc than đòi về nhà

tôi không thể phân tích rạch ròi đâu là ngày trắng đêm đen

thời gian bị shock bởi tiếng súng

giống như người sống đời thực vật đã mất đi ký ức

tôi mất đi chứng minh thư và hộ chiếu của mình

cái thế giới đã từng quen thuộc

trong lưỡi lê khiêu chiến của ánh sáng

Tìm không thấy một nắm đất

để tự chôn cất mình

Một trái tim trần trụi

va đập cùng sắt thép

mặt đất không chút nước, không màu xanh

bị mặt trời kia chà đạp

3. Họ chờ đợi chờ đợi

chờ đợi cho đến thời khắc biến thành dã thú

chờ đợi thời gian biên tập lại những lời nói dối tinh vi

chờ đến khi

những ngón tay biến thành móng vuốt

mắt biến thành miệng súng

bàn chân biến thành lớp bánh xe nghiền

không khí biến thành mệnh lệnh

đến rồi

cuối cùng cũng đã đến

mệnh lệnh chờ đợi năm nghìn năm

Nổ súng – giết người

giết người – nổ súng

cầu xin hòa bình với hai tay không vũ khí

với cây gậy trắng và bàn tay nhỏ giữ vạt áo

không thể thuyết phục tên đao phủ

súng nổ – đỏ rực

hai bàn tay nhuốm đỏ

đôi mắt nhuốm đỏ

một viên đạn

một vũng nước đục ngầu

một lần phạm tội

một công trạng anh hùng

Sao mà nhẹ nhàng

cái chết liền đi tới

sao mà nhẹ nhàng

thú tính dâng tràn

trong những binh sĩ trẻ tuổi kia

có lẽ vừa mới khoác lên người quân phục

vẫn còn chưa từng

được cô gái nào hôn vào má ngây ngất

trong lúc chém giết

họ thể nghiệm khoái cảm khát máu

giết người là sự bắt đầu của tuổi thanh xuân

Họ

không nhìn thấy máu thấm qua lớp áo

không nghe thấy tiếng hét tranh đấu

với cái mũ sắt và sự yếu đuối của sinh mệnh

họ không chút cảm giác

không biết đến

một người già lẩm cẩm

giữ lấy kinh thành cổ kính

đang biến thành trại tập trung Auschwitz

Sự độc ác và tàn nhẫn ngoi lên

huy hoàng giống như các kim tự tháp

mà sinh mệnh sụp đổ sâu thẳm

không nghe được chút vọng hưởng

sự tàn sát điêu khắc nên truyền thống của một dân tộc

thời gian trôi đi, giống như ngôn ngữ bị vứt bỏ

thành cuộc biệt ly cuối cùng

4. Dưới ánh sáng mặt trời, tôi muốn

ra nhập hàng ngũ của những người tử vì đạo

chỉ với một mảnh xương duy nhất còn lại

giữ vững đức tin thành kính

Nhưng, bầu trời sẽ không

vì những kẻ hiến tế mà mạ vàng

các xác chết như một bữa ăn no cho đàn sói vây quanh

ăn mừng vào giữa buổi trưa ấm áp

với vẻ hân hoan tràn ngập

Nơi thẳm xa vời vợi

tôi đã lưu vong cuộc đời mình đến

một nơi không có ánh mặt trời

trốn chạy khỏi kỷ nguyên có sự ra đời của Chúa

Tôi không dám đối diện với ánh nhìn của cây thập giá

từ một sợi khói thuốc đến một đống tro tàn nhỏ nhoi

tôi bị rượu của những kẻ tử vì đạo tưới say

mà tưởng rằng mùa xuân đã tan biến

Trong đêm khuya trước quầy hàng thuốc lá

tôi bị mấy kẻ cao lớn chặn đường

còng tay, bịt mắt, nhét giẻ vào miệng

ném vào xe tù chạy đi đâu chẳng biết

Đột nhiên bừng tỉnh: tôi vẫn còn sống

khi tên của tôi trên đài truyền hình[2]

trong bản tin biến thành “tên phản động”

tấm xương trắng dựng trong lãng quên của một kẻ vô danh

bỗng biến thành tấm huy chương anh hùng

tôi giương cao những lời nói dối tự mình biên tập

nói với mọi người về sự thể nghiệm cái chết của mình.

Mặc dù tôi biết

cái Chết là sự bí ẩn vô tận

Sống, càng không có cách nào thể nghiệm cái chết

mà chết rồi

lại cũng không thể nào thể nghiệm cái chết

nhưng

tôi vẫn bay lượn trong cái chết

bay trong nỗi trầm luân

vô số đêm khuya sau song sắt

và các ngôi mộ dưới ánh sao

đã phơi bày cơn ác mộng của tôi

Ngoài một lời nói dối

tôi không còn gì.

(Tháng 6 năm 1990 tại nhà tù Tần Thành, Trung Quốc)

倦了

刘霞

我厌倦了

我厌倦了 我的白色药片

我厌倦了 我对你的笑

我厌倦了 火车上的厕所

我厌倦了 你的名声

我厌倦了 我的心累

我厌倦了

我厌倦了 只能看不能走的路

我厌倦了 肮葬的天空

我厌倦了 哭泣

我厌倦了 所谓一尘不染的生活

我厌倦了 虚假的语言

我厌倦了 植物死去

我厌倦了 无眠的夜晚

我厌倦了 空空的信箱

我厌倦了 所有的责骂

我厌倦了 失语的年年月月

我厌倦了 身上醒目的红字

我厌倦了 牢笼

我的爱

我厌倦了

9/2016

(Nguồn: http://minzhuzhongguo.org)

Em mệt mỏi rồi

Lưu Hà


em mệt mỏi rồi

em mệt mỏi rồi, những viên thuốc trắng của em

em mệt mỏi rồi, nụ cười của em với anh

em mệt mỏi rồi, nhà vệ sinh trên tàu

em mệt mỏi rồi, danh tiếng của anh

em mệt mỏi rồi, trái tim em mệt mỏi

em mệt mỏi rồi

em mệt mỏi rồi, chỉ có thể thấy một con đường không thể đi

em mệt mỏi rồi, một bầu trời bẩn thỉu

em mệt mỏi rồi, thổn thức khóc

em mệt mỏi rồi, cái gọi là cuộc đời thanh khiết

em mệt mỏi rồi, những lời giả dối

em mệt mỏi rồi, cây cối chết đi

em mệt mỏi rồi, những đêm không ngủ

em mệt mỏi rồi, hòm thư trống rỗng

em mệt mỏi rồi, tất cả những lời thóa mạ

em mệt mỏi rồi, tháng tháng năm năm câm nín

em mệt mỏi rồi, những vết đỏ trên thân

em mệt mỏi rồi, tù ngục

tình yêu của em

em mệt mỏi rồi.

[1] Nguyên văn: lá cờ (ở đây, tôi tránh dùng từ “lá cờ” mà dùng từ “biểu ngữ” – Nd.)

[2] CCTV: đài truyền hình trung ương Trung Quốc.

Comments are closed.