Là nhà văn, nhà thơ và dịc hgiả, các tác phẩm của Nguyễn Bá Chung đã xuất hiện trên nhiều tạp chí văn học. Anh là tác giả của 4 tập thơ – Mưa Ngàn (1996), Ngõ Hạnh (1997), Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh (1999), và Nguồn (2009), và đồng chủ biên với Kevin Bowen và Bruce Weigl tuyển tập Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars 1948-1993 (1998); với Kevin Bowen: Distant Road, Selected Poems of Nguyen Duy (1999), và Six Vietnamese Poets (2001); với Fred Marchant: From A Corner of My Yard (2005); với Bruce Weigl: A Collection of Poems… by 175 Poets (2013); với Martha Collins: Trang The Hy’s Bitter & Sweet (2014). Anh cũng là đồng dịch giả tiểu thuyết A Time Far Past của LêLựu (1997) và tập thơ Thiền đời Lý Trần – Zen Poems in Early Vietnam (2005). Anh hiện làm việc tại Viện William Joiner ở Boston, Massachusetts.
Bùi Giáng, Người Điên Giữ Nước
Bùi Giáng
Mười Lăm Năm Chăn Dê Trên Núi Đồi Trung Việt
Tôi gặp người một sáng trời mưa
Thếp giấy thu phong bụi cũ mờ
Chữ xen từng chữ tình thu biếc
Gió mưa nhiều lệ đá ai mơ?
Ngõ hoa vàng còn xanh hay không
Tôi nhớ người qua đám cỏ hồng
Nhớ bóng người nghiêng con đường nhỏ
Lặng lẽ đi về mặc tháng năm
Giấc mơ xưa người có còn chăng
Hay đã tan trong cát bụi lầm?
Người có còn mơ làm thi sĩ
Lấy vần thơ vụn dựng trần gian?
Sách người còn đó thơ còn đây
Sóng lớp trường giang bóng tối dầy
Nhìn cuộc giả danh người giả dại
Lỡ tỉnh nên đành lại hóa say?
Người đứng đó thời gian đã chết
Người còn đây cây trái cô liêu
Ván cờ cũ ai bày lượt nữa
Để ngoài hiên đất nước tiêu điều
Kinh Vạn Hạnh pha bao mầu nắng
Gió Kim Cương trải mấy lần vân
Giờ mê hoặc người ngồi dịch sách
Bàng hoàng nghe gió lộng đầy sân?
Câu thơ cũ người đề tặng cỏ
Tháng ngày xanh người mải chăn dê
Trời Trang Phương đến giờ mở ngõ
Cõi thanh hiên người có đi về?
Tôi nhớ người cuối giờ mê hoặc
Nhìn trần gian đã thấy mùa thu
Đã thấy nắng trong biển sa mù
Đã thấy nước cuối bờ sa mạc
Và đã thấy thơ người tịch mặc
Sóng thời gian buốt lặng hư không
Mùa thu dại lá cồn xin hẹn ước
Mối đi về trùng ngộ gió xa mong…(*)
1971
(*) Thơ Bùi Giáng: Trở Lại (Mưa Nguồn)
Đêm nằm mơ Bùi Giáng
Tôi về ở ngõ bên kia
Em về em có đầm đìa lệ không
Bão qua ướt mấy cánh đồng
Người qua cỏ có ấm lòng mái quê
Bếp nhà khói ám bốn bề
Còn đâu rơm cũ mà mê mẩn màu
Thôi thì thương lấy cho nhau
Đau thì dạ ấy cũng nhàu quê hương
Đường xa sao mãi xa đường
Để hoang tưởng nhớ một phương em về.
Trung Niên Thi Sỹ
Người du thử làm người điên trần thế
Túi đầy vai quảy thời đại vô tình
Áo vụn vá sống bên lề phố chợ
Giữa trần gian người ngồi hát một mình
Câu thơ lạ mênh mang huyền ảo quá
Gọi từ đâu dòng suối vạn nguồn xa
Chiều phố thị người về đâu phố thị
Lá về đâu dâu biển giữa quê cha
Tâm sự ấy ngàn năm mưa rớt hột
Những nẻo đường lệ ướt mãi không quên
Người đứng đó làm người điên giữ nước
Để ngàn sau mây trắng chẳng quên nguồn…
Nhất Hạnh, Thiền Sư của Nhân Lọai
Một Chuyến Đi Về
Nhất sinh vạn, vạn quy về nhất
Hạnh nguyện nào sáng rực trời quê
Thắp đuốc cỏ vực vầng trăng khuyết
Bão qua đi, nước lại quay về
Ngàn năm lặng – ba đào ai biết
Vẫn tinh mơ dấu cỏ đường xưa
Tay nắm lại tình người vạn cổ
Thõng chân qua lũng lạc xa bờ
Đường thị phi người thường nếm đủ
Một trăm năm chiếc tháp Bập Bòn(1)
Bao vay mượn chia dòng lịch sử
Bao si cuồng ngự trái tim non
Hãy dừng lại – ngồi trong im lặng
Hãy nhìn nhau – thế giới kỳ tâm
Buổi chiều xuống chậm từng hơi thở
Nhận ra người – ánh sánh tình thâm.
4/2005
(1) Tower of Babel, hậu quả của những lần văn hóa đứt đoạn
Thiền Hành Trên Quê Hương
Bốn mươi năm cửa thiền vắng bóng
Cây đa già cằn cỗi gió sương
Thế kỷ lạc bầy kinh lạc tiếng
Rêu bụi mờ phủ lớp đau thương
Tim vỡ rạn chờ giờ hòang đạo
Người trở về dựng lại tình thâm
Từng bước chân thiền hành rất nhẹ
Tỉnh hay mơ – đây lại con đường?
Bà cụ già rưng rưng mắt lệ
Bao năm rồi sống lại phút giây
Chú thiền sinh bàng hòang tỉnh thức
Pháp thọai nào xanh gió xanh cây
Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ
Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi
Cũng thiền lạy – một thời vô úy
Cũng thiền hành – trời đất cùng đi
Giữa quê hương người về chia sẻ
Bao tháng năm gieo pháp xứ người
Nối lại truyền thông từng thế hệ
Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời
Bao trí thức hàn lâm tự hỏi
Lời thọai như nỗi nhớ không cùng
Sao cái học ngày nay chìm nổi
Càng học càng lạc nẻo mê cung
Từng hơi thở, đã về đã tới
Hiện pháp môn, bây giờ ở đây
Tâm buông thư, thảnh thơi vững chãi
Bước thiền hành, pháp lực tròn đầy
Thẳng hướng Xuân đã về đã đến
Dọc ngang vô niệm lại vô tranh
Đèn tâm tỏa rạng ngàn thế giới
Gieo pháp đông tây đạo đại thành1
Hãy trân trọng ngôi nhà vô úy
Ôm thương đau mọi nẻo quê nhà
Thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ
Đơm cội nguồn đất mẹ phù sa.
5/2005
(1) Dựa theo bài kệ của Hòa Thượng Thanh Qúy
Cuộc Tái Ngộ của Hai Thiền Sư
Từ bốn phương trời người trở lại
Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy
Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện (1)
Yên Tử quê nhà mây trắng bay
Thế giới loạn cuồng bom đạn đổ
Thân người cháy rụi lửa hờn cao
Chén trà đạo vị – bao năm – nhắp
Giọt nước cành dương sóng sánh trào…
Tay lại nắm tay hồn đất nước
Mái chùa lưu lạc đã bao phương
Tìm về đất mẹ dâng hương tổ
Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường
Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng
Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân
Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc
Đâu con đường thoát cứu muôn dân
Hương rừng Đà Lạt hoa đương nở
Đón người khách đến tự phương xa
Gió rừng như muốn ôm chân lại
Bạn cũ, nguyền xưa chẳng nhạt nhòa
Rồi mai người sẽ về nơi ấy
Oâm cả trần gian gói vết thương
Dù ở cách xa ngàn cánh nhạn
Niềm đau xin rửa với vô thường.
6/16/2008
(1) Về cuộc hội ngộ này, xin xem http://www.langmai.org/HTML_files/ChuyenDiVietNam2008/tin_tuc/2008_06_09/ThamHTThanhTu_2008_06_09.htm
(2) Phương Bối Am: ở Đại Lao, tỉnh Bảo Lộc, cũng thuộc một loại Làng Mai, do thày Nhất Hạnh thành lập cùng một số tăng ni trẻ với ý hướng cách tân đạo Phật, để đạo Phật chuyển hóa cuộc đời. “Muốn tới Phương Bối Am, ta phải từ Blao đi về phía đèo bằng quốc lộ. Đến cây số 180, ta phải bỏ quốc lộ băng qua chừng ba cây số đường rừng.” (Chương 1 Nẻo Về của Ý). Khoảng năm 1962, thầy Thanh Từ về đó dựng một căn nhà đơn sơ gọi là Thiền Duyệt Thất để tu tập.