Giáo dục đại học – cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó

Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson

Đại An dịch

 

 

TM & CN: Những vấn đề về chất lượng giáo dục đại học – cao đẳng ở Việt Nam, tình trạng cử nhân – thạc sỹ thất nghiệp, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, học giả bằng thật, mua bằng bán điểm,… không còn là là chuyện mới và luôn nhận được sự quan tâm của xã hội.

Gần đây nhiều tờ báo, tạp chí đang mở những diễn đàn về cải cách giáo dục. Rất nhiều những học giả, nhà khoa học, nhà giáo dục, và cộng đồng xã hội tham gia góp ý, bình luận dưới nhiều góc độ khác nhau.

5 năm trước (2009), hai tác giả Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson thuộc trường Kennedy – Đại học Harvard (Hoa Kỳ) đã có một nghiên cứu về giáo dục đại học – cao đẳng ở Việt Nam (được gọi là Báo cáo Harvard). Bản báo cáo đã lột tả được thực trạng nền giáo dục đại học – cao đẳng của Việt Nam.

Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc TM & CN.

 

Quy mô của cuộc khủng hoảng

Rất khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang đặt ra với Việt Nam trong giáo dục đại học – cao đẳng (ĐH – CĐ). Chúng tôi tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ thống giáo dục ĐH – CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng to lớn của mình [1].

Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH – CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần đây là Trung Quốc – mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao.

Một số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines và Indonesia – lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo. Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông Nam Á không mấy nổi bật của họ.

Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách được sử dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2], như những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây:

 

Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa học năm 2007

Cơ sở

Quốc gia

Số bài viết

Đại học tổng hợp Quốc gia Seoul

Hàn Quốc

5.060

Đại học tổng hợp Quốc gia Singapore

Singapore

3.598

Đại học tổng hợp Bắc Kinh

Trung Quốc

3.219

Đại học tổng hợp Phúc Đan

Trung Quốc

2.343

Đại học tổng hợp Mahidol

Thái Lan

950

Đại học tổng hợp Chulalongkorn

Thái Lan

822

Đại học tổng hợp Malaya

Malaysia

504

Đại học tổng hợp Philippines

Philippines

220

Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM)

Việt Nam

52

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Việt Nam

44

Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters

 

Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học.

Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.

Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất. Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác: đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu.

 

Chỉ số sáng tạo

Quốc gia

Số  bằng sáng chế được cấp năm 2006

Hàn Quốc

102.633

Trung Quốc

26.292

Singapore

995

Thailand

158

Malaysia

147

Philippines

76

Việt Nam

0

Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review

 

Nguyên nhân khủng hoảng

Di sản lịch sử

Những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay là một phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư rất ít ỏi vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực dân khác. Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong giáo dục ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong giai đoạn này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã được thành lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng thể chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn với Trung Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện nay đều được thành lập vững chắc từ trước cách mạng).

Quản lý

Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất thiếu [3].

Tự trị: Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến khích người Việt Nam học ở nước ngoài.

Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến [4]. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp hành chính cao hơn có xu hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu nắm giữ, những người này không nói được tiếng Anh và, trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây.

Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế: Sản sinh kiến thức là việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng các cơ sở học thuật ở Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy miêu tả, giới học thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản thân theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học – chỉ 1/10 người Việt Nam ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ.

Tự do học thuật: Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn.

Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết, rào cản chính đối với việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong giáo dục ĐH – CĐ lại không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính theo tỉ lệ trong GDP, Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước khác trong khu vực. Con số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính các gia đình Việt Nam đầu tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở nước ngoài. Nhưng tiêu tiền như thế nào lại là chuyện khác.

Thứ hai, đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy.

 

Đối phó

Các chính sách của Chính phủ

Trong phần lớn giai đoạn từ năm 1986 khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới, cũng chính là quá trình cải tổ và tự do hoá nền kinh tế của đất nước này, tốc độ cải tổ giáo dục ĐH – CĐ gần như đóng băng. Trong suốt giai đoạn này, chất lượng bị đình trệ đến mức một số nhà khoa học Việt Nam đã tin rằng chất lượng giảng dạy các môn học nòng cốt, ví dụ như các môn khoa học cơ bản, đã giảm sút [5].

Trong ba năm trở lại đây, Chính phủ đã đặt ưu tiên cao hơn đối với việc cải cách giáo dục. Năm 2005, Chính phủ đã đưa ra dự thảo Chiến lược giáo dục 14 nhằm “đổi mới toàn diện giáo dục ĐH – CĐ” đến năm 2020. Đây là một bước ngoặt, kêu gọi cải cách quản lý, bao gồm tính tự trị cao hơn về thể chế và các cơ chế chọn lựa dựa trên thành tích. Tuy còn chưa đánh giá được tác động của Chiến lược 14 đến quá trình hoạch định chính sách, nhưng tốc độ thay đổi vẫn còn rất chậm.

Gần đây hơn cả, Chính phủ đã công bố sáng kiến thành lập một loạt cơ sở mới kết hợp với các đối tác nước ngoài và thể hiện thái độ sẵn sàng cam kết với những nguồn vốn vay từ các tổ chức đa phương như Ngân hàng thế giới (WB). Tuy chính sách này cho thấy một sự ghi nhận nồng nhiệt đối với nhu cầu xây dựng những cơ sở giáo dục ĐH – CĐ mới, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi bị bỏ ngỏ.

Ngành giáo dục Việt Nam vẫn duy trì một cách nhìn “công quản” đối với việc hợp tác trong giáo dục ĐH – CĐ, trong đó, chính quyền, chứ không phải các cơ sở, mới là những đối tác chủ yếu. Cách tiếp cận này đặc biệt không phù hợp để làm việc với hệ thống phân quyền của Mỹ, trong đó mỗi trường đại học là một nhân tố quan trọng còn vai trò của Chính phủ thì rất hạn chế.

Thứ hai, Chính phủ đã thể hiện một tâm lý “kế hoạch tập trung” trong việc thiết kế những sáng kiến phát triển thể chế này, trong đó có việc định trước các lĩnh vực mà mỗi trường đại học sẽ tập trung vào (những đề xuất ban đầu còn cho rằng chỉ nên tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến khoa học và công nghệ, có thể loại bỏ khoa học nhân văn và nhiều khoa học xã hội khác).

Thứ ba, mặc dù sáng kiến này được xác định dựa trên ý niệm chung là các đối tác quốc tế sẽ cung cấp các nhà quản trị và cán bộ giảng dạy, nhưng cơ chế cấp vốn vẫn chưa xác định; vẫn không rõ ràng là nguồn vốn vay từ các nhà tài trợ đa phương có thể dùng cho các đối tác quốc tế không.

Cuối cùng, vẫn còn phải chờ xem các cơ sở này sẽ có thể có được bao nhiêu sự tự trị thực chất [6].

Trao đổi

Số người Việt Nam đi du học đã tăng lên đáng kể từ năm 1986. Trong những năm đầu Đổi mới, hầu hết họ đi học qua các chương trình học bổng song và đa phương như chương trình Fulbright, chương trình của WB… Khi xã hội Việt Nam trở nên khá giả hơn, nhiều gia đình Việt Nam bắt đầu cho con đi du học tự túc. Mấy năm gần đây đã chứng kiến số lượng tăng đặc biệt nhanh các sinh viên du học tại Mỹ; theo Viện giáo dục quốc tế, Việt Nam đứng trong số 20 nước có nhiều sinh viên đến Mỹ du học nhất. Các nhà kinh tế học Việt Nam ước tính các gia đình Việt Nam phải chi ít nhất một tỉ USD một năm cho con du học.

Du học cũng là phản ứng quan trọng đối với cuộc khủng hoảng trong giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam, nhưng đó lại không phải là giải pháp. Trước hết, du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ hoặc có đủ tiền hoặc may mắn giành được học bổng. Vẫn còn một khoảng cách rộng và ngày càng lớn về cơ hội giữa nông thôn và thành thị, giữa một số ít người giàu có và phần lớn người nghèo. Việt Nam là một quốc gia rộng và không thể “outsource” giáo dục ĐH – CĐ cho các trường đại học nước ngoài.

Thứ hai, chừng nào các trường đại học Việt Nam còn tiếp tục những điều kiện làm việc kém và những khuyến khích không hấp dẫn, những người đi du học về sẽ tiếp tục lảng tránh làm việc tại những trường này. Các cuộc điều tra không chính thức đối với các sinh viên cao học Việt Nam ở Mỹ cho thấy một phần rất lớn sẽ không quay về các trường đại học đang có ở Việt Nam nhưng sẽ cân nhắc trở về nếu môi trường làm việc hấp dẫn hơn.

 

Các nhân tố quốc tế

Các nhà tài trợ quốc tế đã ủng hộ việc trao đổi trên từ nhiều năm nay. Theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, các nhà tài trợ hiện đang đầu tư mạnh vào hệ thống giáo dục ĐH – CĐ. Theo chúng tôi, nỗ lực của các nhà tài trợ trong lĩnh vực này đã trở nên thiếu hiệu quả do họ không làm được gì nhiều với những vấn đề liên quan đến quản lý. Vốn tài trợ đã không được giải ngân dựa trên cạnh tranh, và các cơ sở nhận vốn cũng không được lên tiếng nhiều về việc vốn đó sẽ được sử dụng ra sao.

Các trường đại học quốc tế đang được khuyến khích thiết lập các chương trình đào tạo tại Việt Nam, hoặc là độc lập hoặc là (phổ biến hơn cả) liên kết với các cơ sở trong nước. Không có nhiều ngoại lệ, các sáng kiến này thường là vì lợi nhuận và hậu quả là tập trung vào một số nhỏ lĩnh vực mà thị trường đang có nhu cầu (ví dụ marketing, quản trị, lập trình máy tính…). Sinh viên được nhận chủ yếu phải có khả năng trả học phí, do đó chỉ bó hẹp trong một nhóm thiểu số nhỏ và nằm ngoài tầm tay của đa số. Nói chính xác nhất là những vụ đầu tư này chỉ chiếm một góc nhỏ trong hệ thống giáo dục ĐH – CĐ. Chúng không đáp ứng được nhu cầu về giáo dục chất lượng cao.

Chính phủ thì rất hăng hái thu hút các trường đại học quốc tế hàng đầu, đặc biệt là của Mỹ. Chúng tôi đã tranh luận rằng có ít nhất ba điều cốt yếu để hiện thực hóa được mục tiêu này. Đầu tiên, Chính phủ phải nhận ra rằng các trường đại học chất lượng sẽ không vào Việt Nam với tư cách nhà đầu tư. Hơn thế, trong cuộc đua giành người tài toàn cầu, các trường đại học Mỹ luôn là những đối tác được săn tìm nhiều nhất. Nói thẳng ra là Việt Nam phải chịu chi.

Thứ hai, và không kém phần quan trọng, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng các trường đại học danh tiếng sẽ không thỏa hiệp về các tiêu chuẩn giảng dạy của họ và Chính phủ phải cam kết một cách mạnh mẽ về việc quản lý tốt, bao gồm cả việc cho phép nhiều tự do học thuật và tự trị hơn là phạm vi hiện đang có ở Việt Nam.

Thứ ba, vì giáo dục ĐH – CĐ của Mỹ phân quyền rất mạnh, nên Chính phủ Mỹ sẽ chỉ đóng vai trò rất hạn chế, chỉ là vai trò tạo điều kiện trong việc đẩy mạnh sự tham gia của các trường đại học Mỹ.

 

Kết luận: Nhu cầu cải cách sâu rộng

Cải cách quản lý sâu rộng là chìa khóa cho việc cải thiện giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam. Tuy nhiên, đổi mới các cơ sở giảng dạy ở bất cứ đâu đều là một quá trình lâu dài. Đó là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Việt Nam phải xây dựng một cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hoàn toàn mới mà ngay từ khi bắt đầu đã phải có được sự quản lý tốt ngay trong gen thể chế của mình [7]. Một nỗ lực như vậy sẽ có một tác động mang tính biến đổi đối với giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam. Một cơ sở mới sẽ mở ra một mái ấm hấp dẫn đối với các học giả và nhà khoa học Việt Nam trẻ hiện đang không mặn mà lắm với việc theo đuổi sự nghiệp học thuật ở Việt Nam.

Thứ hai, một cơ sở mới sẽ là hình mẫu cho các trường đại học khác học theo và tranh đua – cũng là một nguồn sức sống và cạnh tranh rất cần thiết.

 

Chú thích:

1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách thức chính sách đối với Việt Nam, xem “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Việt Nam”, tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251.

2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là các cơ sở giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học nhưng chưa thành công, nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng 1, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không hoạt động tốt lắm.

3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo dục ĐH – CĐ, do WB và UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH Harvard và GS. Mamphela Ramphele của ĐH Cape Town làm đồng chủ tịch. Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries, Task Force kết luận rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết quả tốt. (Có tại http://www.tfhe.net). GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong các hoạt động liên quan đến cải cách thể chế ở Việt Nam.

4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho què quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất nhiều nguồn lực đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận. Kết quả là, những sinh viên được nhận vào học là những sinh viên tài năng và nhiều người có thể thành công trong việc bổ sung cho các giáo trình cũ kỹ bằng cách tự học.

5. Trong những năm gần đây, các trường đại học dân lập mọc lên như nấm sau mưa. Tuy nhiên, các cơ sở này vẫn phụ thuộc vào nhiều sự kiểm soát như các trường công. Hầu hết đều nhắm đến lợi nhuận và phụ thuộc vào học phí để có doanh thu; kết quả là chất lượng cũng thấp như nhau.

6. Trường ĐH Việt – Đức là trường đầu tiên trong số các cơ sở mới này. Đây là một dự án liên kết giữa hai Chính phủ Việt Nam và Đức.

7. Chúng tôi gợi ý cho Chính phủ Việt Nam tổ chức một công ty với các trường đại học Mỹ để xây dựng một trường chuyên về nghiên cứu, đầu tiên là cung cấp các khóa đào tạo đại học rồi dần dần tổ chức các chương trình sau đại học.

 

Nguồn: http://bautx.blogspot.com/2014/06/giao-duc-ai-hoc-cao-ang-viet-nam-khung.html

Comments are closed.