Cơn bấn loạn dưới đất (4)

Tiểu thuyết Nguyễn Viện

 

Nhà cảm xạ học ngồi trước tấm bản đồ. Ông ta đưa quả lắc vào vị trí ngang vĩ tuyến 17. Quả lắc quay vòng rất mạnh. Ông ta cố kìm nén hơi thở rồi ghìm quả lắc lại. Thiên đỉnh của ông ta mở ra. Trên con đường ngang của vĩ tuyến 17 là sông Bến Hải, đoàn người từ hai miền Nam Bắc đang tiến dần về phía con sông. Tôi nhìn thấy nhiều người từ những thế kỷ trước, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con và các cụ già. Tất cả họ đều mang theo khí giới. Bố tôi bảo đừng nhìn kẻo điên loạn. Nhưng tôi đã nhìn thấy trong số họ bên này là các chú và các em họ của tôi, bên kia là các anh ruột tôi. Ðôi mắt họ tóe lửa. Và khi họ đứng trước mặt nhau, họng súng bốc khói. Nhà cảm xạ học bảo xương cốt không phân biệt được chính tà.

Các anh tôi hỏi: Tại sao người ta lại bỏ chạy khi các anh đến? Tôi nói: Vì trên tay các anh cầm chiếc roi sắt.

Tất cả những kẻ phục vụ cho chế độ cũ đều phải học tập cải tạo, bất kể nghề ngỗng gì. Họ buộc phải nhận tội trước người chiến thắng. Và không một ai trong số họ không nhận tội. Ngày ấy, tôi là một người phu quét đường. Tôi đã nhận tội thế này: “Tôi có tội với nhân dân vì ngày nào tôi cũng quét đường sạch sẽ, vệ sinh để cho bọn ngụy khỏe khoắn chống phá cách mạng”. Nguyễn Huệ bảo: Con người lăng nhục lẫn nhau vì sự khốn cùng của tâm thức.

Tôi bước ra khỏi từ đường. Chiếc xe lửa chạy đường Bắc Nam rầm rập đi qua. Ở một đường ngang trên địa phận tỉnh Quảng Trị, xe lửa đã đâm vào chiếc ô tô chở các thương binh đi thăm lại chiến trường cũ. Mười bốn người chết tại chỗ. Chiếc ô tô bị dập đầu. Khi tôi đến nơi thì không còn một vết tích nào. Chiếc xe lửa vẫn chạy.

Các xác chết bảo: Ðừng quật mồ chúng tôi.

Trong một thời gian rất lâu, tôi không biết mình đi đâu. Bố tôi bảo hãy khép con mắt lại. Nhưng cô gái bảo hãy mở con ngươi ra mà đón nhận. Trước mặt tôi, cô gái đứng chắn trên bệ cửa, giạng chân, giang tay thành hình chữ X. Anh không thể đi đâu mà không bước qua xác em.

Khi ấy, nhà tiên tri đứng trên chiếc bục tròn giữa ngã tư của người cảnh sát hướng dẫn giao thông, to tiếng nói:

Các ngươi đừng bận tâm về việc phải đi bên trái hay bên phải, bởi vì trái hay phải không thuộc về các ngươi. Các ngươi cứ đi như các ngươi muốn, bởi vì sự muốn của các ngươi là sự muốn của người làm ra luật lệ. Các ngươi đừng sợ mắc nghẽn giữa đường, bởi đường đi ở trong lòng các ngươi.

Các anh tôi bảo thế giới toàn những thằng điên, cần phải cho chúng đi lao động cải tạo.

Ðêm 24.12.1980. Trong lán trại bằng lá giữa rừng, có một tiếng nói nhỏ: Chúa đã đến. Hơn một trăm người đang nằm thao thức đều ngồi bật dậy. Họ tiếp tục thầm thì: Chúa đã đến. Và rồi từng ngọn nến được thắp lên trên đầu giường họ. Ánh sáng giống như đêm phục sinh soi sáng thế gian. Những khuôn mặt người hiện ra, râu tóc bù xù và quần áo rách rưới. Họ khổ hạnh và tăm tối. Có tiếng người làm dấu thánh giá. Tất cả những người khác làm theo. Xin Chúa đến giải thoát chúng con khỏi sự dữ và mang bình an của người cho chúng con. Trong giây lát sự im lặng trở nên trầm trọng như thể Chúa đã thật sự đến và vỗ về họ. Rồi tất cả những ngọn nến đều tắt phụt như chưa hề có một thứ ánh sáng nào đã được thắp lên trên thế gian.

Chúa nhận lời cầu xin của họ.

Người cho bánh hứa mang họ đi khỏi sự lầm than và âu lo khi họ rời trại cải tạo.

Nhà tiên tri bảo: Các ngươi sẽ phải trốn chạy đồng loại và nguyền rủa lẫn nhau vì chân tay các ngươi đã mọc móng vuốt và máu các ngươi đã tràn đầy sự dữ.

Các anh tôi bảo chỉ có một nhà tiên tri cho thế giới này là Marx. Hãy san bằng mọi sự và làm nên một thế giới khác.

Ngày ấy, bọn địa chủ, bọn trung nông, bọn làm ăn buôn bán có tiền đều bị đập mặt xuống đất và đuổi ra khỏi nhà. Chỉ tiêu thành phần ác ôn được phân bổ về cho từng địa phương. Nơi nào không đủ thì cứ đôn lên cho đủ. Vượt chỉ tiêu có thưởng. Tấn tuồng nhân sinh ai oán mà hoành tráng. Tổ cha nhà chúng mày. Ông cố ông kỵ nhà mày. Ngày xưa bà rửa đít cho cả nhà chúng mày. Bây giờ thì cả nhà chúng mày cúi xuống ăn cứt bà. Cứt bà là tinh hoa chắt lọc của tổ tiên nhà chúng mày đấy. Người đàn bà mồm loa mép giải dí đầu ông lão xuống bãi phân dưới đất, đôi mắt đẫm lệ.

Tôi hỏi các anh: Tại sao người đàn bà được tổ chức cho đi đấu tố lại khóc, đấy không phải là vinh quang của giai cấp sao?

Các anh tôi bảo: Mày không hiểu lịch sử là gì. Cần phải biết ăn ớt và uống rượu mới làm chính trị được em ạ.

Chén đắng mà con người dành cho nhau khó uống hơn của Chúa. Tôi không biết ăn ớt cũng không biết uống rượu. Sầu thiên cổ đổ vào đáy vực đàn bà. Nhưng tổ mẫu Thị Màu bảo gian dâm cũng có chín mười đường gian dâm. Staline chết thì mặc mẹ nó, chúng mày khóc lóc như ông tổ nhà chúng mày thì bà tổ nhà chúng mày đây ai khóc? Tôi vội thưa: Có con. Mày là thằng nào? Con là con hoang của bà đây. Lại đây bà xem mặt nào. Tôi bước tới gần, trong lòng khao khát được ôm chầm lấy bà. Thị Màu bảo: Mặt mày giống Thị Kính chứ đâu giống tao. Tôi thưa: Bên ngoài con giống Thị Kính nhưng bên trong con giống bà. Thị Màu hỏi: Thế bây giờ mày làm gì? Dạ, con quét lá đa. Thị Màu cười sằng sặc: Mày quét lá đa thì đích thị là con Thị Kính chứ không phải con tao.

Nền văn chương ẩm ướt tạo ra nấm. Các anh tôi bảo đó là nấm độc. Các ông Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến… không trồng nấm độc nhưng cũng phải bỏ trốn. Chỉ còn Thị Màu ở lại, bà nói: Tao mới chính là tâm linh dân tộc.

Khi ấy nhà tiên tri đã vào tù, ngài rao giảng: Các ngươi có than khóc thì hãy than khóc cho con cháu các ngươi vì con cháu các ngươi đã chết trước khi chúng được sinh ra.

Người cai ngục nghe thấy thế thì kinh hãi bởi ông ta đã lấy ba bốn người đàn bà mà không một ai đẻ cho ông ta đứa con nào. Bọn quan quyền sai đem nhà tiên tri đến dinh thự của họ. Họ hỏi: Tại sao con cháu chúng tôi lại tật nguyền? Nhà tiên tri đáp: Các ngươi chỉ nhìn thấy tai ương mà không thấy ánh sáng soi rọi trên bầu trời. Hãy nhìn vào trong mắt con cái các ngươi, các ngươi sẽ thấy sự công bằng của đấng sáng tạo.

Bọn quan quyền sai đem trả nhà tiên tri về nhà tù. Họ nói: Chúng tôi không chịu trách nhiệm về cái chết của người này.

Người cai ngục treo cổ không một lời tuyệt mệnh. Các quan hỏi nhau: Tại sao không phải là nhà tiên tri mà lại là người của chúng ta phải chết? Trong song sắt, nhà tiên tri ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Thượng đế sẽ đến trong ánh sáng chói lọi. Kẻ mù sẽ được nhìn thấy và người sáng mắt sẽ đui mù. Người sẽ làm cho sự tàn rữa được hồi sinh và sự phù ảo trở nên vĩnh cửu.

Tôi vẫn nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ cạo đầu làm một hành giả. H bảo: Anh cạo đầu trông không đẹp trai bằng để tóc dài, nhưng em thích kẹp cái đầu chôm chôm của anh giữa hai đùi. Tôi bảo tôi đi tu rồi. H nói: Tình tu mới lãng mạn mà tu tình thì đáo bỉ ngạn niết bàn phật tính.

Nhà tiên tri bảo: Trước khi ngày ấy đến, con người sẽ hủy diệt nhau và thế giới đổ vỡ. Người sống sót không phải đã lên tàu của ông Nôe mà nhờ biết im lặng. Người ấy sẽ bắt đầu một ngông cuồng khác cho đến khi Chúa lại đến để kết thúc mọi sự.

Tôi hỏi: Chúa có khóc không?

Lúc nào Chúa cũng khóc.

Tạo vật do Chúa dựng nên còn khóc nhiều hơn Chúa.

Bởi vì chúng không nhận biết Chúa.

Sao Chúa không mang con người về?

Con đường phải đi không khác được.

Chén đắng của Chúa đấy ư?

Các anh tôi nói: Mày lầm bầm cái gì vậy? Triết học chỉ là thứ ngớ ngẩn của con người. Khi máu đã đổ thì tốt nhất là đọc kinh cầu hồn.

Cô gái đẩy tôi vào bờ tường: Hãy nói yêu em đi. Nói đi. Nói đi. Tôi há mồm bảo: Anh sắp chết. Cô gái nói: Hãy yêu em đi rồi chết. Hai tay tôi buông xuôi. Cô gái hét lên: Anh không được chết. Nhưng hai chân tôi đã khuỵu xuống. Cô gái quào vào mặt tôi: Hãy mở mắt ra.

Tôi nghĩ tôi chưa bao giờ nhắm mắt. Thế giới được tạo dựng để nhìn ngắm và hưởng thụ nhưng ngay cả sự hưởng thụ, con người cũng ép buộc nhau. Tôi đến và tôi đi trên con đường thép gai hoen rỉ có những bộ xương người co quắp. Ở đấy cỏ mọc lên nhưng không che giấu được sự hoang tàn của quá khứ, hiện tại và tương lai.

Tôi nhìn ngắm tấm ảnh. Ông Ngô Ðình Diệm mặc áo dài khăn đóng đứng dưới chân cụ Ngô Ðình Khả, bên phải ông Diệm là Ðức Cha Ngô Ðình Thục, bên trái là ông Ngô Ðình Nhu, kế tiếp là ông Ngô Ðình Khôi, rồi ông Ngô Ðình Luyện, cuối cùng là ông Ngô Ðình Cẩn. Cụ Khả nói: Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được và rồi chúng ta chết. Lịch sử là sự dối trá vĩ đại nhất được viết bởi máu của những con người nhỏ mọn. Nói xong cụ Khả quay lưng lại và bước lui vào trong. Những người con của cụ cũng quay lưng lại, nhưng câu chuyện của họ vẫn tiếp tục.

Ông Diệm buồn rầu nói: Chúng ta đã không được chết như chúng ta muốn.

Giọng ông Khôi trầm trầm: Và máu của chúng ta sẽ còn chảy mãi…

Ông Cẩn than thở: Em không nhắm mắt được.

Ðức cha Thục: Ở Phi châu xa xôi, đôi khi ta vẫn tự hỏi đâu là ý Chúa, khi số phận giáng lên gia đình chúng ta những cái chết khốc liệt. Những cái chết tức tưởi ấy minh giải điều gì?

Ông Luyện: Chúng ta đã chết như hàng triệu người Việt Nam khác đã chết trong sự nhầm lẫn ấy. Và không phải chỉ có máu của chúng ta mà máu của tất cả những người khác cũng không bao giờ khô được.

Ông Nhu không nói gì. Tôi nhìn thấy những sợi tóc sau gáy của ông dựng lên. Ở trên góc cao của bức hình, những người phu đào huyệt đang quăng đất lên và có rất đông người xếp hàng chờ bước xuống. Họ ăn mặc chỉnh tề và nghiêm trang như các vị thánh.

Ðồng chí Mao Trạch Ðông phát không cho mỗi anh trí thức một giải lụa, anh nào không thích màu mè thì cho một bát thuốc độc. Nhưng không anh nào dám tự xử. Tôi nghĩ đi chơi đĩ thì anh nào cũng thế. Ðồng chí Mao Trạch Ðông đã xiết dây thòng lọng quanh cổ họ và dắt xuống ruộng bắt cày thay trâu. Tôi lại nghĩ và được miếng cơm vào mồm thì ai cũng phải nhục.

Tôi thấy ông Nhu đứng lên đi về phía những người đang xếp hàng chờ bước xuống mộ. Ông xem mặt từng người. Vẫn im lặng. Chỉ có một người ông không quen. Hai người nhìn nhau cố nhớ một điều gì đó, nhưng rồi họ quay đi. Tôi biết người lạ mặt đó. Nhà tiên tri nói: Khi thằn lằn biến thành khủng long, trời khô hạn nắng nóng, rừng bốc cháy và không một hang hốc nào có thể trú ẩn, con người sẽ phải rời bỏ đất đai và than khóc trên biển cạn.

Kẻ biến hình bảo: Ta là đấng sáng tạo vĩ đại nhất của mọi thời đại. Hãy hoan hô ta trên mọi nẻo đường trốn chạy của các ngươi. Bởi sự trốn chạy chính là khởi nguồn cho mọi hy vọng và sáng tạo. Trong lòng bàn tay ta trái tim con người run rẩy và chân ta nhuốm máu dơ bẩn của những con vật hiến tế.

Ông Nhu quay lại hỏi nhà chính khách trẻ:

Anh có tin việc anh làm không?

Thay đổi bao giờ cũng là điều tốt.

Anh có biết kẻ biến hình không?

Ðấy là đấng sáng tạo.

Anh tin người ấy?

Không. Tôi chỉ tin việc tôi làm.

Thực sự nó là gì?

Xóa bỏ quá khứ.

Tôi bỏ tấm ảnh vào trong ngăn kéo. Tiếng ông Diệm vọng ra: Xin Chúa tha thứ cho kẻ không biết việc họ làm.

Tôi không muốn nghe nữa. Tôi cần xả xui. Em bán trinh được ba cây vàng cũng bõ đời con gái. Ðừng làm em nhột. Thế giới đã thay đổi. Kẻ biến hình bóp vú cô gái quê và bảo: Vấn đề không phải là vú to hay vú nhỏ, cái chủ yếu là có vú hay không. Vâng, tôi nói, có vú là có sữa, chúng ta sẽ không phải chết khát. Nhà chính khách trẻ bảo không cần phải cải tạo tư tưởng, quyền lực cách mạng đủ để áp đặt mọi cảm giác. Khi giơ tay đầu hàng, nước trong quần tôi chảy xuống, nước mắt tôi cũng chảy xuống. Cuộc chiến tranh kết thúc đã lâu nhưng những người lính vẫn cầm súng. Tôi vẫn giơ tay đầu hàng, trong tư thế ấy tôi ngửa mặt bú sữa từ một bầu vú không phải mẹ mình.

Ngày 13.10. 1977. Hôm nay Ðức Mẹ sẽ hiện ra cùng với con cái của người. Từ chín giờ sáng nhà thờ Fatima đã đông nghẹt. Người ta đến từ khắp nơi. Uống nước phép và để cho cơn khát nhân đức được thánh hóa. Con muốn sống không phải như một niềm hy vọng được cứu rỗi mà chính sự cứu rỗi. Con không chỉ muốn lau nước mắt kẻ khác mà chính con là nước mắt. Sông Sài Gòn đầy những bè lục bình trôi. Màu hoa tím nhạt của nó mờ ảo. Tiếng cầu kinh trong nhà thờ rợn lên như sóng.

Hãy cho chúng con một dấu hiệu về sự hiện hữu của Người. Tiếng cầu kinh mỗi lúc một lớn và khẩn thiết. Hãy gìn giữ chúng con trong thành trì của Chúa. Trời nóng hừng hực. Xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Mặt trời chói lòa. Nước Nga sẽ trở lại. Tin mừng và hy vọng của Người thiêu đốt chúng con.

Có rất nhiều người bảo họ đã nhìn thấy Ðức Mẹ trong chiếc áo của ánh sáng. Có người bảo họ nhìn thấy bánh thánh đỏ máu.

Ngày hôm sau cha sở nhà thờ Fatima bị bắt. Phép lạ của Chúa vẫn xảy ra ở những nơi mà con người cần.

Tháng 3.1975. Ông dân biểu chồng Mì hỏi thượng tọa Thích Trí Sáng:.

Thày ủng hộ chúng tôi để lật đổ chính quyền Thiệu chứ?

Hãy về nói với chủ của anh rằng, quyền lực phải được kiểm soát kẻo nó là tai họa.

Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ quyền lực.

Anh có quyền đến đâu để chia?

Chúng tôi cướp nó trên tay người khác.

Khi tôi chưa cho phép thì điều ấy không xảy ra được đâu.

Xin thày chỉ dạy.

Khi lịch sử chọn, anh chấp nhận chứ?

Tôi yêu nước.

Anh không cần bày tỏ điều ấy. Tôi không muốn anh chiến đấu, mà tôi muốn anh đầu hàng. Anh làm được không?

Thưa thày, nếu điều ấy có thể làm chấm dứt cuộc chiến.

Ðồng chí Mao Trạch Ðông bảo: Tao muốn chúng mày phải đánh nhau tiếp. Thế giới cần phải đại loạn. Ðứa nào thiếu đạn cứ đến gặp tao. Ðồng chí Pôn Pốt nói giết người bằng cán cuốc có nhiều ấn tượng thị giác hơn bằng súng. Nền văn minh cán cuốc được xuất khẩu từ Trung Quốc sang Campuchia. Chủ nghĩa thi đua lên cao trào. Ðếm sọ tính bậc lương. Thủ tướng Trần Văn Hương thưa bẩm: Chúng em chống cự với quân Minh mười năm oải lắm rồi.

Ðồng chí Mao Trạch Ðông gầm gừ trong mồm: Chúng mày không muốn đánh nữa thì tao đánh cho chúng mày một bài học.

Năm 1979. Việt Nam có một cuộc chiến tranh mới. Ngắn ngủi nhưng sinh động. Cú mìn cóc nhảy lên nửa thước chém đứt đôi chân đi đứng của người anh em làm công nương Diana thương cảm. Nhưng công nương đáng yêu nhất trần đời tử nạn quá sớm. Thế giới chưa gỡ hết mìn. Họa sĩ Thành Chương bảo không cần đụng vào tớ cũng biết quả nào nổ quả nào tịt. Ừ khôn chết dại chết biết thì sống. Tình hữu nghị anh em của thế giới đại đồng môi hở răng lạnh. Chúng mày chê súng đạn thì tao viện trợ cho cuốc xẻng. Tiện nghi kiểu Trung Quốc đấy. Giết người và đào mả lấp mộ đều tốt.

Nhà chính khách trẻ bảo tuẫn tiết như tướng Nguyễn Khoa Nam thì không nổi tiếng thơm bằng đầu hàng. Ông bác tôi trong trại cải tạo nói với những người bạn tù: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần phải giữ lấy tư cách và khí tiết. Làm chính trị thì chỉ có vấn đề thắng thua chứ không có chuyện đúng sai. Cho nên đứa nào nhận tội và không thắt cravate khi gặp ban quản giáo thì chỉ đáng vất vào sọt rác.

Tôi ở trong thùng rác chui ra nói: Bác ơi cháu là dân ngu cu đen thì thế nào ạ? Thì ở đâu cứ ở đấy là lẽ khôn ngoan của người đời. Ðứa nào muốn đổi đời thì đừng hèn. Bác lạc hậu rồi. Nhạc Bất Quần đứng trên đỉnh vũ lâm Trung Hoa nói: Ai trong số các bạn không ăn gian thì cứ xuống núi về quê chăn vịt. Quần hùng chĩa kiếm lên trời hô vang: Chúng tôi theo gương minh chủ. Các nhà phê bình văn học đồng thanh nói truyện của Kim Dung vẫn còn tính thời sự. Thị Màu bảo họ vẫn nói thế từ khi bà vén váy tìm chồng.

Ngày 21.4.1975. Các phóng viên của AFP, UPI, BBC, Reuter chầu chực trong quán bar. Anh bạn Custer ba ngày nay không đi đánh billard. Mọi người uống rượu giết thì giờ. Cô Silver của BBC sốt ruột không biết làm gì bèn lột quần lót ra nhìn: Em đã cởi quần rồi, tới đi Custer.

Cuối cùng thì Custer cũng tới, hắn bô bô cái mồm: Anh ngửi thấy mùi quần của em từ Dinh Ðộc Lập.

Mọi người hỏi: Anh ở trong đó ra à?

OK.

Có gì mới không?

Các bạn nên chuẩn bị chuồn là vừa. Ông Thiệu đã sẵn sàng chuyển giao quyền hành.

Hắn chỉ nói có thế rồi đến uống rượu tán tỉnh Silver. Một tuần vài lần, Custer đi đánh billard. Tất cả các phóng viên nước ngoài đều bám vào hắn. Những câu chuyện tầm phào vô tội vạ của hắn làm đảo lộn thế giới.

Ê Custer, hẹn nhau ở Trung Ðông chứ?

Hỏi Chúa.

Khi quá buồn thì con làm gì? Kẻ biến hình hỏi tôi. Tôi nói: Chửi một ai đó. Chửi sau lưng hay trước mặt? Dạ, chửi sau lưng. Sao không dám chửi trước mặt? Vì đó không phải là cách của tổ tiên dạy bảo. Thế con đã từng chửi ai? Dạ, con không dám nói. Con chửi thế nào? Ðịt mẹ mày, sao không hiện nguyên hình. Chửi xong có hết buồn không? Dạ, buồn hơn. Rồi con làm gì? Con hoan hô. Hoan hô ai? Người con ghét. Hoan hô trước mặt hay sau lưng? Dạ, trước mặt. Vì sao? Lúc ấy nó mới hiện nguyên hình.

Custer hỏi Silver:

Em về Mỹ với anh?

Không, em ở lại để nhìn sự đổ vỡ.

Ngày 16.3.2004. Mỹ Loan tông cửa vào phòng giữa lúc Khánh My và Hồng Phượng đang mút những ngón chân của Ðại Quang. Hai cô đồng thanh quát: Sao không gõ cửa?

Lịch sự làm quái gì. Cho tao vui với. Tao cần tiền.

Hồng Phượng hỏi Ðại Quang: Cho nó ngồi luôn không anh?

Càng đông càng vui.

Ðại Quang vén váy Mỹ Loan, hỏi: Thơm hay thối?

Thơm.

Năm 1972. Dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, mỗi điểm 10 là một dũng sĩ diệt Mỹ-Ngụy, điểm 10 môn toán giá trị bằng xác một Mỹ, điểm 10 môn thủ công bằng xác một Ngụy. Máu giặc chảy thành sông và xương giặc chất thành núi trong sổ học bạ của nhà văn Phạm Thị Hoài.

Hằng nói, em đã đọc bà Hoài viết điều ấy trên Talawas. Văn Cao cũng hát: Ðường vinh quang xây xác quân thù. Tính căm thù trở thành đạo đức cách mạng. Chúng ta đã sống và chết trên xác người.

Năm 1972. Ở Sài Gòn người ta bảo ba thằng Việt cộng đu một cành đu đủ không gãy.

Em cảm thấy mình già đi. Những cái vớ vẩn làm em mệt mỏi. Em muốn nằm xuống, chìm rất sâu vào giấc ngủ. Nhưng Quân đến rủ đi uống cà phê. Em nói em chỉ muốn tan ra thôi. Quân bảo muốn tan ra thì uống rượu. Em nói em thích uống rượu với nhân vật Lý Công Uẩn của anh. Quân hỏi Lý Công Uẩn là ai? Em nói Lý Công Uẩn là nhân vật đi nhặt xác người. Sao giống như đi nhặt lá bàng của Nhất Linh vậy? Quân hỏi. Em cười, thì cũng đại khái vậy. Một cái lá với một xác người thì có gì khác nhau đâu, phải không. Bao giờ về Việt Nam, chắc em phải mời Lý Công Uẩn của anh lên đê Yên Phụ nhậu thịt cầy. Nói chuyện thế sự với Lý Công Uẩn chắc vui.

Ngày 28.3.1975. Ba triệu người tán loạn trong tầm đạn pháo ở Ðà Nẵng và các vùng phụ cận. Họ tìm cách vào các sân bay hoặc chạy ra bờ biển. Và họ chết trên đường băng. Chết trên cánh máy bay. Chết bên mạn tàu. Chết dưới biển. Họ đạp lên nhau mà chết. Họ làm mồi cho súng đạn mà chết. Họ chết vì tuyệt vọng và đói khát. Họ chết vì hy vọng viển vông.

Năm 1976. Những ngôi sao chứng kiến cảnh tượng này: Có tiếng đập cửa dồn dập lẫn với nhiều tiếng người hò hét. Mở cửa. Mở cửa ra mau. Cánh cửa vừa hé thì bị đẩy tung ra. Người ta ập vào giữ chặt tay cha em. Rồi bắt tất cả mọi người ra khỏi nhà ngay lập tức, chỉ được mang theo quần áo. Mẹ em, chị em sợ hãi khóc. Cả nhà bị tống lên một chiếc xe tải. Người ta đem gia đình em tới một nơi gọi là khu kinh tế mới, chỉ có cỏ tranh mọc ngút ngàn. Sau đó người ta đã đào hết nhà em lên xem có giấu vàng bạc không.

Năm 1978. Em được sinh ra trên hải phận quốc tế. Em không có tổ quốc. Quân nói.

Năm 1967. Lý Công Uẩn đang chữa bệnh ở Trung Quốc được mời về để bàn việc quân cơ. Khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm, người lái máy bay phát hiện tín hiệu đường băng không đúng, vội hỏi: Bây giờ làm sao?

Uẩn bình tĩnh nói: Hãy hỏi lại mặt đất.

Tín hiệu vẫn không thay đổi.

Ðồng chí nhìn kỹ lại đi.

Ðường băng này quá quen thuộc với tôi.

Thế thì hãy đáp xuống theo thói quen.

Ở dưới đất, ban lễ tang đã được thành lập, những bài điếu văn đã được viết xong. Nhưng máy bay xuống an toàn.

Các quan chức đón người nói: Chúc mừng đồng chí bình an.

Lý Công Uẩn cười nhạt: Tôi còn phải sống để nhặt xác các đồng chí.

Năm 1968. Lý Công Uẩn giơ tay phát biểu ý kiến tại tổng hành dinh chiến dịch Mậu Thân: Tôi không đồng ý. Nhưng bộ đội vẫn tổng tiến công vào các thành phố miền Nam. Không nơi nào nhân dân nổi dậy. Không ít trong số họ đã trở thành những kẻ phản bội. Cũng không ít hơn trong số họ đã phải chết vì không tìm thấy đường rút lui. Những chiếc máy bay bà già phát loa phóng thanh kêu gọi Việt cộng hồi chánh. Trong khi những chiếc C47 khạc đại liên nghe man rợ như tiếng bò rống trước khi chết. Lý Công Uẩn nhìn hỏa châu sáng suốt đêm trên bầu trời, lòng tan nát. Nhân dân tránh bom đạn dồn từ chỗ này đến chỗ kia. Nhưng ở Huế không có chỗ cho họ trốn tránh. Bãi Dâu đầy xác người vô tội. Họ được phán xử bởi lòng căm thù.

Năm 1972. Nhân dân lại phải bỏ cửa nhà chạy trốn binh đao. Chúa phán: Con chồn có hang, con cáo có ổ, nhưng con người sẽ phải sợ hãi vì không nơi nương tựa. Ðạn pháo nổ trên đầu họ. Mìn nổ dưới chân họ. Xe tăng phục kích họ.

Năm 1975. Nhân dân bỏ cả đất để chạy. Xác họ lênh đênh làm thối nước biển. Từ ngày ấy Lý Công Uẩn dở điên dở dại, khi thì ngẩng đầu cười, khi cúi mặt khóc nấc. Hai tay Uẩn lúc nào cũng đưa ra phía trước lẩm bẩm phân bua: Tôi vô tội.

Trần Nhân Tôn bảo: Ông về Yên Tử với tôi để giải trừ nghiệp chướng.

Nhưng Uẩn đáp: Còn một xác người lưu lạc thì tôi chưa về được.

Ngày 16.3.2004. Lan Thanh đập cửa phòng Ðại Quang đang uống bia với các em.

Nứng lồn thì vào.

Lan Thanh bước vào. Ba cô gái sợ hãi vội quơ quần áo che người.

Chúng em xin lỗi. Chúng em không biết.

Lan Thanh không đếm xỉa gì tới chúng, chỉ nói với Ðại Quang: Tao mở quán để cho thằng khác hủ hóa sa đọa chứ không phải mày.

Nói xong bà đi ra.

Cô gái phọt ra từ miệng tôi sau cái hắt xì. Lý lịch tự khai của nàng thế này: Em biết chữ nhưng chữ không biết em, vì thế em có thể hát karaoke với anh mà không sợ chữ ngộ. Tôi bảo tôi cũng sợ chữ lắm, nhưng thích em nên tôi hát bằng tay. Và bàn tay tôi đã được mách bảo: Nàng là con gái của người tình cũ của tôi. Năm 1979, mẹ nàng vượt biên để nàng lại cho bà nội nuôi. Khi tôi gặp mẹ nàng, nàng mới biết bò. Tôi còn nhớ bức thư người đàn bà viết cho tôi từ một bệnh viện ở Indonesia, “em bị hiếp hai mươi mốt lần trên vịnh Thái Lan”. Người đàn bà ấy không bao giờ trở lại. Người con gái nhất định không đi, dù được mẹ bảo lãnh. Vậy thì chúng ta hãy hát lên. Tôi ôm cô gái. Chúng ta không thừa nước mắt để khóc quá khứ.

Tôi bảo em giống như thiên thần. Nàng bảo bà nội em giàu lắm, nhưng em vẫn thích đi làm. Tại sao không làm nghề khác? Nàng bảo cho em hút thuốc. Ngọn khói bay lờ lững. Em thích, nàng nói, tại sao không hôn em? Tôi lắc đầu: Anh rất muốn. Thì làm đi. Tôi lại lắc đầu. Cứ nghĩ là mẹ em cũng được. Không phải thế.

Năm 1979. Mọi người đều phải ăn bo bo, nhưng chúng tôi thì không. Thậm chí nếu muốn, chúng tôi còn có thể ăn bơ Mỹ. Nàng kiếm được tiền dễ dàng như có một kho báu ở giữa sự nghèo đói. Ðó là cái khe hở dành cho những kẻ có quyền lực. Buổi trưa, tôi về nhà nàng ăn. Ăn xong, làm tình rồi đi làm tiếp. Buổi tối, tôi ngủ lại và làm những việc của đêm tối. Ðôi khi kiệt sức, tôi phải trốn khỏi đêm tối. Buổi sáng, tôi đến cơ quan dạo một vòng trình diễn cho các sếp thấy cái bộ mặt rửng mỡ của mình rồi chuồn về nhà nàng ngủ bù. Tôi cũng không quên rờ má các em đồng nghiệp trẻ và tặng phần tiêu chuẩn bao cao su cho các bạn trai.

Ngày 16.3.2004. Thôi uống đi. Tôi cầm ly bia đưa cho cô gái. Cưa đôi nhé, cô gái nói. OK. Ðừng nói chuyện mẹ em. Nhất trí. Cô gái lại đốt thuốc. Tôi hỏi: Em chơi ma túy? Chút đỉnh.

Năm 1979. Nàng đã bước xuống từ trên mái nhà. Và đạp trên đầu tôi, nói: Anh phải chiều em cho đến lúc em đi khỏi anh. Từ dưới nhìn lên, tôi thấy nàng tràn ngập ánh sáng. Làn da mỏng hồng lên như màu mận, hai đùi tròn và mịn. Hai tay tôi vuốt ve cổ chân nàng. Bàn chân nàng di chuyển trên người tôi.

Ngày 16.3.2004. Em có biết cái phần sa đọa nhất của con người không? Biết, cái lỗ mồm. Thế thì uống hoan hô cái lỗ mồm.

Năm 1979. Nàng bắt tôi há mồm ra rồi lùa tất cả nàng vào đó, bắt đầu từ cái lưỡi mang theo những ngôn từ của con cá mắc cạn. Cho đến khi ngón chân út của nàng chỉ còn một đụn xương nhỏ, tôi bảo con người ta no bụng đói con mắt. Thế là nàng lại xòe ra như một con công. Diêm dúa và hân hoan. Nàng múa bằng hai mông.

Ngày 16.3.2004. Em có biết cái phần trinh bạch nhất của con người không? Biết, cái lỗ rốn. Thế thì uống phân ưu cái lỗ rốn.

Năm 1979. Kẹp hai tay vào trong đùi, nàng nằm co rút như con cuốn chiếu, chịu đựng cơn động cỡn bất chợt. Tôi bảo tôi không thể vào vai người khác. Nàng không bao giờ nhắc đến người đàn ông là bố đứa bé.

Ngày 16.3.2004. Em hơi mệt, cô gái nói, hôm nay em ngồi bàn ba lần, bị một lần có ông không biết uống, em phải gánh. Khách thích gọi em, phải không? Tại em biết chiều. Em cần tiền để hút? Cô gái gật đầu. Sao anh đi một mình? Tại vì anh đi không để vui.

Năm 1979. Mỗi lần đạt tới cảm giác sướng nhất, bao giờ nàng cũng đẩy tôi ra. Run rẩy một mình. Tận hưởng và hối lỗi. Xa cách và khó hiểu. Nàng ích kỷ vùi đầu vào đống gối và đôi khi nàng khóc.

Ngày 16.3.2004. Không để vui thì để làm gì? Chỉ để thấy con người đơn độc. Anh nói năng kỳ quá hà. Hà quá kỳ năng nói? Em muốn đi toa-lét. Anh muốn đi theo em. Thôi, anh ngồi đó đi, chờ em.

Năm 1979. Nàng bảo, em mơ thấy toàn nước. Nước tràn qua em, tràn vào em, rồi cuối cùng em tan thành nước. Thế rồi em thấy em bay lên. Chúa bảo: Xuống. Em biến thành cơn mưa. Nước mưa chui vào ống cống. Trong ống cống, em nhìn thấy tất cả mọi người quen biết. Không hiểu sao một cảm giác kinh hoàng tối tăm bỗng phủ ụp xuống, em mù mắt.

Ngày 16.3.2004. Doãi người trên ghế, tôi thực sự cảm thấy thèm một điếu thuốc. Thèm một an nghỉ. Sự trống trải giống như một cánh buồm rũ, tôi há mồm ngáp. Một đàn ruồi bay ra. Tiếng vỗ cánh của chúng có mùi tanh và mùi tanh có âm thanh của hai mép cửa mình xao động. Cô gái quay trở lại, miệng cười tươi tỉnh. Níu tay cô gái đứng dậy, đi vào toa-lét, tôi không thể không nhìn vào bàn cầu, chỗ cô gái vừa tụt quần ngồi xuống. Tôi đái chồng lên lớp nước vàng ong của bia của mọi nỗi niềm vớ vẩn. Tôi cũng đái lên người cô gái. Ðái vào cơn co giật chuyển mình của thế giới. Ðái vào nỗi trầm thống mơ hồ dưới lớp da trơn. Ðái vào mọi ám thị. Ðái vào sự khổ dâm của chín phần mười nhân loại dúm dó.

Comments are closed.