Ngày N+… (kỳ 7)

Hồi ký của Hoàng Khởi Phong

Ngày N + 14, 8 giờ tối

Thiếu úy Huy đồn Quân cảnh Tuy Hoà tới gặp tôi với vẻ mặt lo sợ:

– Ngày mai tôi rút theo Đại úy được không?

– Ra lệnh cho anh rút không thuộc vào thẩm quyền của tôi. Nhưng nếu anh hỏi tôi giúp cho anh một số ý kiến. Trước tiên là phải tuyệt đối bình tĩnh. Sửa soạn đơn vị kỹ càng. Cắt một người lúc nào cũng đi theo hộ tống Đại tá Tỉnh trưởng để có thể biết lúc nào phải rút.

– Cả ngày nay tôi không thấy ông Tiểu khu trưởng.

– Còn ông Tham mưu trưởng thì sao? Tiểu khu ngày hôm nay có làm việc không?

– Có, Đại úy. Buổi trưa nay tôi có họp với toàn thể các sĩ quan trưởng phòng của tiểu khu. Đại tá Tiểu khu trưởng ra một số chỉ thị xong rồi đi từ lúc đó tới bây giờ tôi không thấy.

– Anh có chắc là ông ấy còn ở đây không?

– Chắc còn, Đại úy. Chắc ngày mai tôi dọt theo đoàn xe của Đại úy cho rồi.

Chúng tôi ngồi bó gối nhìn nhau. Đồn Quân cảnh Tuy Hoà nhỏ bằng cái lỗ mũi, quân số của nó vỏn vẹn trên dưới có mười bẩy, mười tám người. Đột nhiên nó phải chứa hơn trăm người từ Quy Nhơn về, lính ngủ la liệt khắp nơi. Nhưng tôi biết họ nhắm mắt chứ chưa một ai ngủ thật. Tôi, Kiệm, Cảm, bác sĩ Huấn, Huy và mấy người sĩ quan trẻ tôi chưa thuộc hết tên của trại giam Quy Nhơn đều im lặng hút thuốc. Phúc chạy lăng xăng. Nó mang ớ đâu về mấy đòn bánh tét. Phúc cắt ra mời mọi người ăn. Mỗi người cầm một miếng chiếu lệ, Phúc nói với tôi:

– Em kê cái ghế bố cho anh trong phòng Thiếu úy Huy đó, khi nào anh buồn ngủ đã có chỗ sẵn.

– Chú ngủ ở đâu?

– Em ngủ ở đây.

– Còn mấy ông kẹ này thì sao?

– Lo gì anh Ba, kê mấy cái ghế sát lại với nhau, kéo mấy cái bàn ráp lại. Thiếu gì chỗ.

– Ngày mai mình đi lúc nào Đại úy?

– Càng sớm càng tốt. Tôi nghĩ là mình dậy độ sáu giờ, sắp xếp đoàn xe xong bảy giờ là vừa. Thôi đi ngủ đi mấy ông kẹ.

*

Ngày N + 14, đêm

Tôi không sao ngủ nổi, ngồi dậy quờ quạng trong bóng đêm. Tôi thấy Huấn cũng không ngủ được, tôi rủ Huấn ra ngoài. Cả hai đi lặng lẽ. Đồn Quân cảnh Tuy Hoà tọa lạc ngay bên cạnh Tiểu khu. Từ quốc lộ 1, nếu lấy hướng Nam-Bắc làm chuẩn, khu vực buôn bán, dân chúng ở nằm bên tay trái, bên tay phải phần lớn là các ty sở và đơn vị quân đội. Một con đường khá rộng dẫn từ quốc lộ 1 ra tới sát biển. Con đường dài chừng hơn một cây số, hai bên đường là những hàng phi lao thẳng tắp. Cảnh đêm cũ ở Phú Bổn lại tái diễn. Người ta ngủ ở khắp nơi, xe nhà binh, xe dân sự nằm dài theo hai vệ đường và đều quay đầu ra quốc lộ 1. Không ai bảo ai, họ đều hướng về một phía. Phía đó là sinh lộ duy nhất đưa họ xuôi Nam. Phía đó là phía duy nhất giúp họ tránh khỏi nơi dầu sôi lửa bỏng, nơi tên bay, đạn lạc và mạng con người rẻ hơn bèo.

Cảnh chinh chiến ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế.

Huấn nói với tôi:

– Anh Ba à, tôi nghi ngày mai mình có thể bị đụng nặng. Anh Ba có tin vào số mạng không?

– Ông Đốc ơi, suốt đời tôi, tôi không bao giờ tin vào số mạng, tôi không tin cả Phật, Chúa, tôi chỉ tin ở tôi thôi.

– Từ hôm có công điện cử anh Ba ra ngoài này, tôi nghe lính bàn tán về anh Ba nhiều lắm. Cứ theo cách họ nói thì anh có vẻ là một sĩ quan của đoàn quân Lê dương, nên lúc đầu tôi không mấy thiện cảm với anh Ba. Đến khi gặp anh rồi mới thấy lính nói về anh Ba không đúng.

– Ông nghĩ tôi như thế nào?

– Mới có bốn ngày kể từ lúc anh Ba bước chân vào đơn vị, tôi không thể nói gì cho đúng về một cá nhân. Nhưng chắc chắn bọn lính nói sai về anh Ba. Ít nhất là nói không đủ. Ở Phú Quốc anh Ba hay đánh tù lắm phải không?

– Không. Tôi hay đánh lính của tôi mỗi khi họ bỏ đơn vị đi cả mười, mười lăm ngày khiến người khác phải gác thay. Tôi đánh lính như anh đánh em vậy.

– Anh Ba bị các sếp ghét lắm phải không?

– Họ không ghét tôi đâu, họ sợ thì đúng hơn.

– Anh Ba bị phạt nhiều lắm phải không?

– Độ tám mươi ngày trọng cấm đâu có nhiều so với mười hai năm quân ngũ. Mỗi năm trung bình có bảy ngày.

– Anh Ba ghét Mỹ lắm phải không?

– Không. Tôi ghét da trắng, mắt xanh, tóc vàng, mũi lõ.

– Tôi thấy anh Ba có vẻ nghệ sĩ hơn là chiến sĩ.

– Thế là ông cũng lầm về tôi luôn. Suốt đời tôi chỉ mê dạy học, tôi cũng thích văn chương lắm. Nhưng văn chương không phải cứ làm vài bài thơ là thành thi sĩ, hay viết một hai cái truyện ngắn lèm bèm mà là văn sĩ đâu. Hãy nhìn trước mặt ông coi. Chúng ta có biết bao nhiêu điều phải nói, thế mà các ông văn nghệ sĩ hàng đầu của chúng ta còn mải thai nghén trong các tháp ngà. Văn chương của tôi chính là đời sống của tôi. Tôi sẽ là nhà văn. Bây giờ thì chưa.

– Tụi nó nói anh Ba có in sách, dường như là hai quyển thơ phải không?

– Đúng, thật ra nó cũng chưa phải là thơ. Đó là những phẫn nộ, những bất công, những dồn nén không có lối thoát nên tôi để nó bùng lên trong vài trang giấy. Mình về đi ông Đốc.

Gió thổi từ biển về luồn qua những rặng phi lao, tạo nên những tiếng thì thầm, tiếng oán than, đôi lúc nó rít lên, trong lúc những cọng phi lao rơi lả tả xuống mặt đường.

*

Ngày N + 15, 3 giờ sáng

Tôi vẫn không sao ngủ được, càng suy nghĩ càng thấy cuộc chiến đang đi vào hồi kết cục. Tôi sinh ra ở miền Bắc, lớn lên ở miền Nam. Tôi nhớ như in ngày lên mười một tuổi, vừa đậu tiểu học xong thì cha tôi có một quyết định lớn, ông bỏ hết gia tài, sản nghiệp, bỏ cái dinh cơ đã được tạo dựng từ nhiều thế hệ trước, tay trắng dẫn anh em chúng lôi vào Nam. Bởi lẽ đó đối với tôi cả miền Bắc, ngoại trừ căn nhà tôi, còn tất cả là phát nguyên của máu và thù hận. Những năm cơ cực ở miền Nam qua đi, các anh chị tôi trưởng thành, mỗi người gây dựng cho mình một tiểu gia đình ấm cúng, hòa thuận. Chúng tôi lớn lên trong sự cần mẫn của cha tôi, trong sự lương thiện của một gia tộc thấm nhuần Nho giáo. Do sự lương thiện này mà các anh tôi mỗi người có được một căn nhà đơn sơ, nằm trong các ngõ hẻm ở Phú Nhuận, ở Bàn Cờ, ở Phú Thọ, v.v. Các anh tôi đi làm bằng những phương tiện khiêm nhường, những chiếc xe Mobylette hay Honda. Nhưng không phải vì vậy mà tôi không yêu miền Nam vô vàn. Tôi yêu từng con đường, từng ngõ hẻm, từng sân banh, từng xóm điếm.

Năm hai mươi tuổi tôi nhập ngũ tình cờ, nhưng không phải vì vậy mà tôi không yêu quân đội. Chính quân đội đã cho tôi thỏa mãn trọn vẹn cái máu giang hồ vặt của tôi. Do đó trong hồ sơ quân bạ của tôi người ta đã phải đóng thêm vài tờ giấy để phụ ghi về mục thuyên chuyển. Những xáo trộn về chính trị đã thay đổi dần bộ mặt miền Nam. Cha tôi, một công chức đã về hưu, sau cùng đã đi gác đêm cho những cơ sở tư nhân Mỹ. Mỗi lần thay đổi guồng máy cai trị, miền Nam lại tiến xa hơn trên vũng lầy tồi tệ. Những năm gần đây nhất, càng lúc tôi càng có cơ hội để chứng nghiệm những nhân vật cao cấp của miền Nam tiêu máu xương thuộc hạ như tiêu bạc giả. Ngay cả quân lực miền Nam, cái xương sống của chế độ, cái tập hợp kỳ diệu này đã chống đỡ miền Nam qua những thời điểm đẫm máu nhất của nội bộ dân Việt, cái tập thể kỳ lạ đã giúp miền Nam đứng vững trong Tết Mậu Thân 68, đã chống đỡ miền Nam suốt một mùa hè 72, bây giở cái tập thể kỳ diệu đó đang tan ra, cái khối vững chắc đó, do những thẩm thấu của chính trị, đã chia ra thành những mảng nhỏ. Và bây giờ mùa xuân năm 75, những mảng nhỏ này đang vỡ vụn ra từng phần.

Trong bóng đêm dày đặc, giữa tiếng muỗi vo ve, thạch sùng tắc lưỡi, đột nhiên tôi nghe được những âm thanh kỳ lạ, hỗn tạp. Những âm thanh của sắt thép chém vào nhau, của bom đạn, của những đường đạn đạo đi qua thân người, có lúc tôi còn nghe được cả tiếng ngựa hí, quân reo, voi lồng, đường tên xé gió. Tất cả vang lên trong đầu tôi, tôi tưởng chừng như sắp chết giữa những âm thanh kinh hoàng đó, thì đột nhiên những tiếng động đó chấm dứt. Trong bóng đêm, một hai tiếng tiêu nổi lên. Khúc tiêu dồn dập hơn, hình ảnh người lính Biệt động quân ngày nào đang thổi khúc tiêu chót trong cơn tàn chinh chiến. Bóng anh rõ hơn, cặp mắt anh sâu thẳm như bóng đêm, và tôi thiếp đi trong tiếng tiêu kỳ diệu đó.

*

Ngày N + 15, 6 giờ sáng

Tôi giật mình choàng dậy bởi những tiếng lách cách của bàn ghế thu dọn lại. Phúc đã nai nịt gọn gàng từ hồi nào. Sáng nay tôi mới nhìn thấy rõ Phúc tuy hơi mập, nhưng rất điển trai, trông lại phúc hậu, đúng là type người mà vợ tôi mô tả là “tốt bụng”. Bỗng nhiên tôi ghét, sợ cái chữ «tốt bụng» này. Những lời nói của vợ tôi mấy bữa trước như ám ảnh tôi: “Người ta chết nhiều quá, lại chết toàn người tốt bụng không à!” Mới sáng ra đã có những ý nghĩ không hay. Phúc lăng xăng thu dọn đồ đạc. Nó nói với tôi:

– Anh đánh răng rửa mặt. Em đã pha sẵn cho anh một phin cà phê. Để em ra ngoài kia kiếm bậy bạ cái gì anh em mình ăn sáng rồi đi là vừa.

Lại một ý nghĩ không tốt nữa. Tôi lại sợ cái chữ “ma đói” của Phúc. Tôi xót xa nhìn Phúc như nhìn một đứa em nhỏ sắp rơi xuống hố mà không làm gì để giúp được. Tôi không hiểu tại sao Phúc lo cho tôi nhiều thế. Mấy năm trước khi Phúc làm việc với tôi ở Biên Hoà, tôi còn bận mờ người để chống đỡ những thủ đoạn vặt vãnh của một anh sếp, mà binh sĩ Quân cảnh gọi trại tên anh thành ra “MA SANH QUỶ”, vì cái tên thật của anh này khi dịch ra tiếng Việt là ngựa sanh rùa. Sáng nay tôi hiểu ra, quân lực miền Nam bên cạnh những người đã chết rất trẻ, đã anh hùng tới phút chót của đời, bên cạnh những Nguyễn Đình Bảo Nhảy dù, Lê Hằng Minh Thủy quân Lục chiến, Lưu Trọng Kiệt Biệt động quân, cùng hàng vạn những người anh hùng khác đã chết không nêu danh tánh, chúng ta có không thiếu loại hai anh em ma sanh ra quỷ, ngựa sinh ra người này. Chúng ta có không ít những người mà binh sĩ gọi là thượng đội hạ đạp, nịnh trên nạt dưới, tham nhũng, hối lộ, lạm quyền, v.v. Những người anh hùng thật sự không sớm thì muộn cũng đã trở về an nghỉ thật sâu trong lòng đất. Mùa chinh chiến đang ở vào hồi kết cục, cảnh cuối của một giai đoạn lịch sử nào mà không kết thúc bằng những bãi tha ma?

Huấn, Kiệm, Cảm và mọi người khác đã lục tục dậy tất cả, họ cũng khăn áo kỹ càng, tôi nói với Cảm:

– Cậu ra check lại mấy cái xe, bảo mấy ông tài lo xăng nhớt, nước nôi cho cẩn thận. Hôm nay mình phải leo đèo Đại Lãnh.

*

Ngày N + 15, 7 giờ sáng

Thiếu úy Huy đồn Quân cảnh Tuy Hoà đang xem lại giấy tờ sổ sách của đơn vị. Huy nói với tôi:

– Tình hình này chắc tôi cũng rút luôn hôm nay, Đại úy. Sáng nay tôi dậy sớm, vào Tiểu khu thấy trống trơn, có một ông sĩ quan trực đêm qua, nhưng sáng nay ông ấy biến từ sớm.

Đúng lúc đó tôi nghe tiếng depart của súng cối. Cái tiếng depart này làm tim tôi muốn vỡ ra từng mảnh. Nó cho tôi linh cảm thấy trước tôi không phải chạy đâu xa, họ đã có mặt ở đây. Có nhiều đủ để cầm chân chúng tôi ngay tại cái rọ này. Chắc chắn họ sẽ đóng một chốt thật lớn trên đầu đường ra quốc lộ 1, chúng tôi có cả ngàn người lính ở đây, nhưng chúng tôi không có người chỉ huy. Không ai có thể bảo ai lúc này. Một tiếng nổ lớn kinh hoàng vọng lại từ phía quốc lộ. Một cụm khói bốc cao. Đám đông ùa chạy lại phía tôi, rồi tiếng depart thứ hai, thứ ba. Dường như trong gió, có tiếng rít của đạn súng cối, hai quả đạn sau này có điều chỉnh kỹ hơn, nên nó nổ ngay giữa đoàn xe, không biết có ai tử thương không. Tôi đảo mắt một vòng, một chiếc xe Dodge trúng đạn bốc cháy, đám đông kinh hoàng chạy ngược lại phía tôi, đàn bà, con nít khóc như ri, còn những người mang quân phục, người thì có súng, người thì tay không.

Giữa đám đông hỗn loạn này tôi thấy một người lính vừa chạy vừa thay áo, cởi được cái áo lính gã vứt xuống đường, vừa chạy vừa moi trong túi xách một cái quần dân sự. Gã ngừng lại ngay giữa đường, cởi nốt cái quần. Đôi giày nhà binh làm gã không kéo được cái quần ra, gã ngồi xuống cởi giày, mặt như là mếu.

Tôi muốn bắn gã ta nhưng ngừng lại kịp thời. Tôi nhân danh cái gì mà bắn người lính này, vốn từ lâu rồi là lính kiểng. Cứ trông bộ mặt gã ta, giữa đất Tuy Hoà, một chân trên bờ, một chân dưới biển, mà mặt trắng như sữa, lại còn cái kính Ray Ban gọng vàng. Cái quần vẫn còn kẹt ở đầu gối, cứ nhìn những tảng mỡ bụng trắng nhễ nhại, cứ nhìn cái bắp vế nhẽo nhẹt, tay chân run lẩy bẩy, thì tôi biết đây không phải là lính của vua Quang Trung. Những người lính của vua Quang Trung thường mặt sạm đen vì nắng gió, hai thế kỷ trước cũng thế, bây giờ cũng vậy. Hai thế kỷ trước họ cứ đi mỗi nhóm ba người, hai người võng một người, thay phiên mà đi, hễ cứ ngồi võng là ngủ, xuống đất là đi. Cứ đằng trước mà tiến. Cứ thế trong mười ngày tiến một mạch từ Phú Xuân tới Thăng Long, trong một đêm đánh đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi, bắt sống không còn một mạng giặc. Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự sát. Thừa thắng quân kéo tới bổ vây Thăng Long. Cứ hai mươi người khiêng một cái tạm gọi là lá chắn, phủ đầy rơm rạ ướt để đỡ tên, đạn, và quân có đoản đao, đoản kiếm nương theo đó mà tiến đến chân thành. Người này ngã kẻ kế tiến lên. Như sóng dâng, như vũ bão. Tôn Sĩ Nghị phải mở cửa sau, bỏ quân, bỏ lính, bỏ ấn tín, phù hiệu mà chạy. Hậu duệ của những người lính này, hai thế kỷ sau cũng vậy. Mặt vẫn sạm đen vì nắng gió, thân thể dẫu có nhỏ bé nhưng chắc nịch. Họ vẫn thường đội nón đỏ, nón xanh, nón nâu, vẫn mang hai mươi kí vừa vũ khí, đạn dược, lương thực trên người. Họ đã chống đỡ miền Nam suốt hai chục năm, chỉ tiếc thay những tướng quân không phải là những Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở, v.v.

Bởi chúng ta có quá nhiều tướng kiểu “Quế tướng quân” nên mới có cái hạng lính mới nghe tiếng súng mà đã cởi giày, tụt áo. Bây giờ thì gã đã cởi xong giày, đá cái quần lính ra xa, xỏ vào người một cái quần thường, bây giờ trông gã bảnh trai, diêm dúa. Gã nhập vào đám đông. Bây giờ tôi trông thấy rất nhiều người cởi giày, bỏ áo. Có những cái áo có lon mai bạc, mai vàng trên cổ. Chưa bao giờ tôi thấy nhục nhã thế này. Địch còn cách đây cả cây số, mới có ba trái bích kích pháo mà cả đoàn quân đã tan. Tôi nhìn thấy từ quốc lộ 1, hai chiếc chiến xa dĩ nhiên của địch, lù lù tiến tới. Hai chiếc chiến xa đậu lại, bóng chúng đen sậm trên nền trời mỗi lúc mỗi tỏ. Hai họng súng đại bác quay về phía chúng tôi. Một trái đạn nổ trong tiểu khu. Đám đông từ trong Tiểu khu túa ra. Từ sáng tới giờ, từ lúc Thiếu úy Huy nói chuyện với tôi thì tiểu khu hầu như đã bỏ trống. Những trái đạn bích kích pháo ban đầu làm cho người ta chạy vào trú ẩn trong đó, bây giờ phát đại bác nổ trong Tiểu khu, nên đám đông lại chạy ngược trở ra. Tôi nói với Kiệm, Cảm và những sĩ quan của đơn vị tôi:

– Mình bị chặn đầu rồi. Tập họp toàn thể lính lại, chúng ta vào trong tiểu khu cố thủ. Kiệm hốt hoảng rõ rệt, anh không hô nổi một cái khẩu lệnh tập họp. Bởi chính Kiệm bây giờ cũng đã áo quần dân sự. Tôi nhìn thấy lính của tôi, lác đác đã có người trút bỏ quân phục. Tôi buồn bã hỏi Thiếu úy Huy:

– Sau Tiểu khu có ngả nào đi được không?

– Không Đại úy. Kế tiểu khu là một xóm chài, mình sát ngay bờ biển rồi Đại úy. Chạy dọc theo bờ biển mình còn phải qua hai nhánh sông. Mà rốt cuộc mình vẫn phải ra quốc lộ 1. Mình có thể thoát thân bằng đường biển. Nhưng đào đâu ra thuyền lúc này.

– Vậy thì mình phải rút vào Tiểu khu. Địch đâu có nhiều. Nếu nhiều, họ đã tấn công vào đây rồi. Họ chỉ bắn vài phát là vì họ cũng không có đủ lực lượng. Dồn thú tới đường cùng còn nguy hiểm huống hồ dồn cả ngàn người có vũ khí trong tay. Tập họp lại. Anh em mình vào Tiểu khu, ở đó có hàng rào, có lũy đất bao quanh, có địa thế rõ ràng để phòng thủ. Tập họp lại.

Đích thân tôi ra lệnh tập họp. Quân số của tôi và Kiệm cộng lại là một trăm sáu mươi lăm người. Một số thoát đi tối hôm qua, bây giờ ít nhất cũng còn một đại đội đầy đủ. Vũ khí thì không bao giờ thiếu, người ta đã vứt xuống đường như củi khô.

*

Ngày N + 15, 7 giờ 30 sáng

Kiệm, Cảm, Huy đưa lính của ba đơn vị: Trại giam Tù binh Quy Nhơn, Đồn Quân cảnh Quy Nhơn, Đồn Quân cảnh Tuy Hoà vào trong Tiểu khu xong. Tôi thấy đám đông hỗn loạn bên ngoài chạy tới chạy lui, tiến ra quốc lộ 1 thì không được, Việt cộng có hai chiến xa đậu ngạo nghễ ở đó, chạy lui ra phía xóm chài, rồi cũng không có ngõ thoát. Cảnh tượng trong Tiểu khu còn làm tôi não lòng hơn nữa. Bốn chiếc xe V100 (giống thiết giáp nhưng chạy bằng bánh cao su) nằm im lìm với đại liên 30 trên pháo tháp, quân phục vất la liệt. Tôi nhìn thấy một áo có lon trung tá, nếp hồ ủi còn láng bóng. Bảng tên trên cái áo này là “Hung” không biết là Hưng hay Hùng. Trên cái áo này, tôi nhìn thấy một cái “Lục quân huân chương” trơ trẽn trên nắp túi áo trái. Cái huy chương này dùng để tưởng thưởng cho những người hội đủ điều kiện nghĩa là mười năm “sĩ quan” đổ lên. Ông Hưng hay Hùng ơi, ông giả đò khiêm tốn chỉ đeo “Lục quân huân chương” làm gì, mang tới lon trung tá thì tối thiểu cũng phải mười năm quân vụ. Đến tôi là đại úy quèn mười hai năm quân vụ có tới tám mươi ngày trọng cấm mà cũng còn có “Lục quân huân chương” như ông, thì có danh giá gì cho cam.

Nhưng phải công nhận rằng ông không “hùng” bằng tôi, hay ít ra gọi cho đúng: ông “hèn” hơn tôi. Giờ này áo ở đây mà người “hùng” biến đâu. Tôi nhìn quanh, tưởng chừng như bất cứ ai mặc dân sự lớn tuổi cỡ bốn mươi trên hay dưới một chút, đều có thể là trung tá Hùng hay Hưng này. Nhưng chỉ bắt gặp những khuôn mặt sợ hãi, hốt hoảng. Tôi thấy phải chặn đứng tình trạng này. Tôi nói với Phúc:

– Chú chạy ra xe GMC của mình lấy cho anh cái máy phóng thanh xách tay lại đây.

– Anh làm gì với cái đó?

– Kêu gọi mọi người bình tĩnh. Kêu gọi mọi người chống cự chờ tiếp viện của quân đoàn.

Năm phút sau Phúc mang về cho tôi một máy phóng thanh xách tay. Đứng trên đầu một xe GMC đậu ngang cổng Tiểu khu Tuy Hoà, tôi kêu gọi mọi người hãy tỉnh cơn mê sảng lại. Từ trên nóc xe cao này tôi nhìn thấy một chiếc trực thăng đậu im lìm sau những lùm cây, trong một bãi đất trống phía sau Tiểu khu.

*

Ngày N + 15, 7 giờ 30 sáng

Giữa đám đông hỗn độn ngược xuôi, giữa những tiếng kêu gọi ầm ĩ, giữa những tiếng súng cá nhân vọng từ đầu quốc lộ lại, giọng tôi cất lên. Qua cái máy phóng thanh xách tay, tiếng tôi nghe rõ mồn một:

– Các quân nhân thất lạc đơn vị chú ý. Các quân nhân thất lạc đơn vị chú ý. Chúng ta đã bị địch chặn đầu trên đường ra quốc lộ 1, chúng ta đã bị bao vây ở đây. Chúng ta chỉ có một đường sống duy nhất là chiến đấu. Bây giờ còn quá sớm để Không quân có thể yểm trợ chúng ta. Chúng ta có cả ngàn tay súng ở đây, địch cũng không có nhiều. Tôi, Đại úy Nguyễn Vinh Hiển, Chỉ huy trưởng Trại giam Tù binh Việt cộng Quy Nhơn, đơn vị tôi quyết định rút vào cố thủ trong Tiểu khu Tuy Hoà. Tôi kêu gọi mọi quân nhân thuộc các đơn vị hãy ở lại chiến đấu cùng đơn vị chúng tôi. Chúng ta phải kháng cự lại trong lúc chờ không quân tới giải tỏa quốc lộ 1. Phải bình tĩnh chiến dấu như một người LÍNH.

Tôi kêu gọi lần thứ hai, một đại úy khác đứng lại, anh đeo phù hiệu quân cụ, anh nói với tôi: “Đại úy cho tôi mượn cái máy phóng thanh.” Anh nhảy lên mũi xe đứng kế tôi, anh xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị, anh cũng kêu gọi binh sĩ thuộc đơn vị anh ở lại chiến đấu. Rồi một trung úy thuộc Tiểu khu Bình Định, anh cũng mượn máy phóng thanh kêu gọi các quân nhân khác hãy ở lại chiến đấu. Trong máy phóng thanh anh lặp lại tên tôi và nói: Tôi kêu gọi mọi người ở lại chiến đấu, và nhận sự chỉ huy của Đại úy Nguyễn Vinh Hiển.

Cả ba chúng tôi đứng chơ vơ trên mũi xe, một phút trôi qua, tôi thấy một số binh sĩ súng cầm tay đi vào Tiểu khu, một vài chuẩn úy, thiếu úy thật trẻ, tiến vào đứng lớ ngớ bên trong vòng đai phòng thủ. Tôi nói với ông Đại úy Quân cụ:

– Ông kêu gọi thêm độ vài lần nữa, tôi phải vào trong tổ chức phòng thủ.

Tôi bắt tay ông ta, chúng tôi siết tay nhau thật chặt, mắt nhìn mắt, diện đối diện. Gió từ biển thổi vào tóc anh và tóc tôi dựng lên. Tôi nhảy xuống xe bước vào Tiểu khu.

*

Ngày N + 15, 7 giờ 45 sáng

Tôi nói với đám đông:

– Địa thế đây rất dễ cho chúng ta phòng thủ. Có hàng rào, lũy đất sẵn sàng, vuông vức bốn cạnh. Bây giờ các anh đứng bốn hàng dọc, các sĩ quan đứng trước. Hiện thời binh sĩ của đơn vị tôi đã chia đều trên bốn mặt của Tiểu khu. Mỗi một hàng sẽ lo một mặt. Tôi cũng đã có sĩ quan của tôi ở đủ bốn nơi, các anh sẽ nhận lệnh trực tiếp từ mấy trung úy của tôi.

Trong chớp mắt đám đông chia ra làm bốn hàng, có cả chục sĩ quan, cao nhất là một đại úy. Một đại úy già chắc cũng sắp đến tuổi về hưu. Tôi nói với ông ta:

– Đại úy phụ với tôi coi tổng quát. Ông nhiều tuổi hơn tôi, nhiều kinh nghiệm nhà binh hơn, ông thấy gì phải làm cứ việc ra lệnh. Kể từ giờ phút này, lính trong đơn vị tôi sẵn sàng nghe lệnh của ông.

– Tôi là sĩ quan tài chánh có biết đánh nhau bao giờ. Đại úy cứ chỉ huy đi.

Bây giờ tôi có tới hơn ba trăm tay súng. Dễ chừng đến bốn trăm người. Quân số này tương đương với một tiểu đoàn. Nhưng súng ống thì nhiều vô kể. Tôi nói với Kiệm bây giờ đã khoác thêm một chiếc áo Jacket nhà binh, có hai mai trên cổ áo:

– Ông cho câu công tắc hai chiếc V1OO này lại, chạy đậu bít cổng ra vào cho tôi. Mời ông Đại úy Quân cụ vào. Ai muốn chiến đấu nãy giờ đã hiện diện trong Tiểu khu. Xong rồi ông ra kiểm điểm lại coi tất cả có bao nhiêu đại liên M60 và bao nhiêu súng phóng lựu M79.

Kiệm xem chừng đã bình tĩnh trở lại. Anh hăm hở chạy đi, hai chiếc V100 phun một lớp khói đặc, trước khi nổ máy. Bây giờ tôi có một ban chỉ huy tiểu đoàn gồm bốn sĩ quan trời ơi: tôi, một Đại úy Tài chánh, một Đại úy Quân cụ, một Trung úy Địa phương quân. Súng đạn nhiều vô số kể. Không kể bốn ụ đại liên 30 trên bốn lô cốt bốn góc Tiểu khu, trên các lũy đất phòng thủ, ngoại trừ mặt tiền là nhà dân chúng, chúng tôi đã bố trí hai xe V100 với hai ổ đại liên bên trên, ba cạnh còn lại, một phía là biển, hai phía là đồng trống lác đác có vài căn nhà dân. Trên ba cạnh này cứ mỗi mười lăm, hai mươi thước tôi lại có một M60 và cứ mỗi M60 lại có một M79 phóng lựu đi kèm. Lác đác đó đây tôi thấy một vài ống phóng hỏa tiễn chống chiến xa loại cá nhân. Tôi thầm nghĩ trong bụng với quân số thế này, với vũ khí đó, và vị trí phòng thủ kiên cố Việt cộng muốn xơi tái chúng tôi cũng cần phải có quân số đông gấp đôi, và cũng phải bỏ xác lại không ít. Tôi nói thầm với mình: Phải đổi máu mình lấy cái gì chứ!

*

Ngày N + 15, 8 giờ sáng

Một tràng đạn AK nổ chát chúa phía đằng sau Tiểu khu, tôi chạy lại đó. Trên lũy đất phòng thủ, hàng trăm khẩu súng đủ mọi loại trả lời, hàng trăm người lính bắn xối xả về phía trước. Tôi chưa nhìn thấy bóng dáng một địch quân, chỉ là một cánh đồng lúa xanh rờn. Bốn năm khẩu M60 rung lên, đất bay mù trời dưới nhịp bắn tự động. Tôi hỏi Kiệm, người phụ trách mặt này:

– Cái gì vậy? Địch đâu?

– Bọn nó núp ở bờ ruộng trước mặt đó, Đại úy.

– Đông không?

Để trả lời tôi một tràng AK nổ giòn giã. Địch núp ngay trước mặt, khoảng 100m. Tôi chợt nghĩ ra họ không có nhiều, họ chỉ có vài người ở phía này, họ muốn dò thử lực lượng chúng tôi. Chỉ năm phút qua, họ đã biết phẩm chất của những người lính bên trong hàng rào. Cứ tình hình này họ cứ việc nằm dưới ruộng, bắn bâng quơ vào trong này, rồi hàng trăm khẩu súng khai hỏa, chả mấy chốc mà núi đạn cũng hết. Chả mấy chốc mà họ tiến vào với tiểu đội đủ bắt một tiểu đoàn lính đầu hàng. Tôi hét lớn:

– Không được bắn bừa bãi, chỉ khai hỏa khi thấy rõ địch quân. Đại liên bắn nhịp ba, nhịp bốn. Phúc đâu. Lấy cho anh cái máy phóng thanh.

Một tràng AK nổ phía tay phải, thềm bắn bên đó cảnh cũ tái diễn, tôi nghe cả tiếng M79 bắn đệm cho M60. Tôi nhìn thấy lính phòng thủ mặt mày tái mét. Tôi quay lại hội ý với ông Đại úy Quân cụ và ông Đại úy Tài chánh. Bây giờ chúng tôi chia ra mỗi người một mặt. Tôi nói với hai người bạn đồng cảnh:

– Ra lệnh cho họ bắn cầm chừng, phải tiết kiệm đạn.

Phúc đã mang máy phóng thanh về. Tôi mặc áo giáp, đội nón sắt, đứng thẳng trên lũy đất. Dĩ nhiên tôi cũng sợ, nếu bên ngoài kia địch chỉ có một người bắn giỏi, có một chỗ nấp bắn thì tôi là một cái bia không chối cãi được.

Tôi nghe giọng tôi vang lên trong lúc cả hai phía đều im tiếng súng:

– Các quân nhân chú ý! Các quân nhân chú ý! Chỉ khai hỏa khi thấy rõ địch. Tôi nhắc lại chỉ khai hỏa khi thấy rõ địch quân. Đại liên bắn nhịp ba, nhịp bốn, không được bắn bừa bãi, phí đạn.

– Bên phải nghe rõ.

– Bên trái nghe rõ.

Bây giờ thì dường như mỗi sĩ quan phụ trách một ổ đại liên. Cảnh tượng hệt như trên thềm bắn ở các quân trường. Chỉ cần có sĩ quan giám xạ, hạ sĩ quan phụ trách thềm bắn để sửa thế bắn cho những người bắn tập trên xạ trường. Đây không phải là những người lính đối diện với địch quân, mà là những đại đội khóa sinh, đang thực tập tác xạ. Trên bờ mấy thửa ruộng ở bên ngoài chắc địch quân đang tìm một cách khác để tấn công. Lợi dụng lúc cả hai bên ngưng tiếng súng, tôi đi một vòng tuần hành quan sát cả trong lẫn ngoài. Không biết địch sẽ làm gì. Tôi thắc mắc nhất là tại sao hai chiếc chiến xa của địch lại án binh bất động. Chúng vẫn đậu im lìm trên đầu quốc lộ. Chúng cũng không thèm sử dụng hai khẩu đại bác trên pháo tháp. Tôi thầm nghĩ mình cần vài người can đảm. Với hàng trăm chiếc xe đậu thành hàng dài trên con đường dẫn ra quốc lộ 1, chỉ cần vài người men theo hông những chiếc xe này tiến ra. Chỉ cần một tiểu đội không sợ chết. Tôi không nghĩ là “cảm tử”, cảm tử có nghĩa là mười phần chết đến chín, nhưng tình cảnh này không đến độ như thế. Chỉ cần một tiểu đội không sợ chết, trang bị ống phóng M72, tiến ra hạ được hai chiến xa này thì chúng tôi thoát. Ít nhất cũng thoát được ra quốc lộ 1, nếu không chúng tôi hoàn toàn bị vây khổn. Tôi nhìn lại chung quanh, chắc chắn phải là một tiểu đội có sự thuần nhất về chỉ huy, có sự thuần nhất về đơn vị. Tôi nói với Phúc:

– Tìm cho anh Thượng sĩ Điệp lại đây.

*

Ngày N + 15, 9 giờ sáng

Phúc dẫn Điệp lại chỗ tôi. Tôi cho Điệp biết ý định muốn triệt hạ hai chiếc thiết giáp của Việt cộng. Tôi nhìn thấy thật rõ những dao động trên nét mặt Điệp. Tôi biết Điệp khá lâu. Anh là một hạ sĩ quan thật trẻ với cấp bậc thượng sĩ, anh đã làm việc với tôi hơn một năm trời ở Pleiku. Anh đã có vợ và hai con. Tôi nói rõ ràng:

– Đây không phải là lệnh. Đây là yêu cầu, nhưng tôi biết anh có thể làm được.

Một phút nặng nề trôi qua. Điệp nói với tôi:

– Anh Ba cho em vài phút, em kiếm mấy khẩu M72 với vài người nữa chịu chơi đi với em.

– Cứ kiếm người đi, kiếm trong đơn vị mình được rồi. Kiếm mấy cậu còn độc thân nghe Điệp.

– Anh Ba yên trí. Em ở đây lâu rồi, em biết thằng nào chịu chơi, thằng nào chơi chịu.

*

Ngày N + 15, 9 giờ 30 sáng

Một trái bích kích pháo nổ ngay sân cờ Tiểu khu Tuy Hoà, một người chết ngay, một người bị thương nặng và vài người bị thương nhẹ. Cùng lúc đó tiếng hô xung phong vang lên từ mấy bờ ruộng. Hàng chục khẩu M79 và hàng chục khẩu M60 khai hỏa. Rõ ràng địch vẫn chỉ khiêu khích để binh sĩ trú phòng hao tổn đạn dược. Họ bắn không kể trời đất gì nữa. Tôi gào vào máy phóng thanh xách tay:

– Bên phải ngừng bắn!

– Bên trái ngừng bắn!

Bây giờ các sĩ quan chỉ còn là khẩu đội trưởng của một ổ súng đại liên. Tôi thầm cám ơn Huấn vô cùng. Anh đã làm tất cả những gì một y sĩ trẻ mới ra trường có thể làm được. Anh băng bó cho mấy người bị thương nhẹ, chích một liều thuốc an thần cho người bị nặng. Kẻ chết thì đã chết rồi. Chúng tôi khuân xác người vừa nằm xuống tới một căn phòng trống trong tiểu khu. Trong suốt một giờ liền, địch bắn bâng quơ vài quả đạn súng cối, nổ nhiều tràng AK vào trong Tiểu khu. Số tổn thất nhân mạng không bao nhiêu, nhưng tôi không làm sao kiểm soát nổi binh sĩ. Trong vòng đai tiểu khu, những khẩu M60 và M79 đua nhau nổ, lác đác đã có vài khẩu hết đạn. Khói súng và cát bụi bay mờ trời, mùi thuốc đạn khét lẹt. Tình trạng này chỉ kéo dài một tiếng nữa, địch chỉ cần tiếp tục khiêu khích thêm một tiếng nữa, tôi e rằng đến cả những khẩu colt cũng hết đạn.

*

Ngày N + 15, 9 giờ 45 sáng

Thượng sĩ Điệp dẫn một bán tiểu đội đến gặp tôi, trong số này kể cả Điệp là bốn quân nhân Quân cảnh. Hai binh sĩ còn lại không thấy mang phù hiệu binh chủng bên tay áo. Tôi đoán có lẽ họ là lính Tiểu khu Tuy Hoà. Tôi nói với Phúc:

– Em đưa khẩu Đại Cồ Việt cho Thượng sĩ Điệp. Tôi dặn Điệp:

– Đừng có liều mạng quá, anh không nghĩ là phá nổi được hai chiếc tăng này mình sẽ vượt nổi Đại Lãnh hôm nay. Hay là thôi. Em đi kiếm cho anh vài cái thuyền lại đây. Chắc chắn quanh đây phải có thuyền của dân biển.

– Anh Ba cứ cho em chơi thử một chuyến. Nếu không được mình tính kế chuồn cũng chưa muộn.

Đúng lúc đó, tôi nhìn thấy họng súng đại bác trên chiến xa chuyển động. Từ xa tôi thấy chiếc xe như nhảy giật lùi về phía sau, tôi hiểu cái gì sẽ đến trong vòng nửa phút. Viên đạn nổ ngay cổng Tiểu khu, cách một chiếc Jeep không đầy 20m. Tôi nấp ở ngay đuôi chiếc xe V100 đậu chắn ở cổng ra vào, thế mà còn cảm thấy luồng ba động của tiếng nổ như muốn hất tôi ra ngoài. Thêm vài người lính nữa bị mảnh đạn văng phải, nằm la liệt ngay cổng Tiểu khu. Đám đông nhốn nháo chạy tìm chỗ nấp. Một người lính chúi đầu xuống đống cát cứu hỏa, lấy tay moi cấp kỳ một cái lỗ đủ để giấu đi cái đầu, trông giống một con đà điểu chúi đầu trong cát. Trái đại bác thứ hai nổ, trái này là loại đạn WP (White Phosphorite), nó tạo một lớp khói trắng dầy đặc, mảnh của nó văng tới đâu lửa cháy, khói tuôn tới đó. Rất nhiều người bỏ vị trí chạy hẳn ra ngoài, trốn vào trong xóm nhà dân trước mặt tiểu khu. Tôi liếc mắt nhìn chung quanh hàng rào phòng thủ, loáng thoáng có những khẩu súng đại liên không xạ thủ. Không có thì giờ để kiểm điểm quân số, nhưng tôi biết chắc bây giờ cái quân số tiểu đoàn vá víu cấp kỳ buổi sáng chỉ còn quá nửa. Đơn vị tôi tuy chưa tan rã, song tôi biết chắc một số ít đã tự động bỏ vị trí phòng thủ. Tôi gọi Kiệm đang định dợm chạy ra ngoài:

– Kiệm, anh mời cho tôi ông sĩ quan Quân cụ lại đây, mình tính cách rút lui.

Kiệm đi ngay và trở lại tức thì. Tôi nói với ông Đại úy Quân Cụ:

– Tình cảnh này chắc mình phải chạy đường bộ, rồi kiếm thuyền để rút khỏi đây. Những người đã bỏ đi mình cũng không thể cản nổi. Bây giờ Đại úy muốn rút cùng với tụi tôi hay ông sẽ đi riêng?

– Tôi sẽ sát cánh với Đại úy cho tới phút chót.

– Trung úy Kiệm, Thượng sĩ Điệp lấy một tiểu đội đi trước về hướng Nam kiếm cho tôi vài cái thuyền. Tôi chắc dân ở đây sẽ neo thuyền ở một chỗ nào đó. Tôi với Đại úy tập họp lính dẫn đi sau. Ông Kiệm đem theo một máy truyền tin để liên lạc với tôi.

*

Ngày N + 15, 9 10 giờ sáng

Tôi hạ lệnh cho Thiếu úy Cảm:

– Anh tập họp đơn vị cho tôi nói chuyện vài phút.

Chỉ năm phút sau các binh sĩ của tôi đã tập họp xong, tôi biết chắc có nhiều người đã tự động tan hàng, trước khi tôi có ý định tuyên bố tan hàng. Chỉ còn không đầy ba trung đội lính, ai nấy mặt mày sớn sác.

– Cùng toàn thể các anh em thuộc Trại giam và Đồn Quân cảnh Quy Nhơn! Tôi đã giữ đúng lời hứa với các anh em khi đến đáo nhậm đơn vị này. Tôi đã “CÓ MẶT” với đơn vị cho tới phút chót. Bây giờ phút chót đó đã đến. Tôi cho phép bất cứ ai muốn đơn độc thoát hiểm. Tôi vẫn “CÓ MẶT” với bất cứ ai giờ này vẫn còn muốn rút lui như một đơn vị. Nếu thoát thì thoát cả, nếu bị bắt thì bị bắt cả.

Một vài người tách khỏi hàng quân. Đúng lúc đó, tôi nhìn thấy từ ngoài cổng Tiểu khu, một bóng người cao lớn đi trước, đằng sau là ba người khác cũng cao lớn không kém. Tôi tưởng là hoa mắt, nhưng không phải, đích thị Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, sĩ quan phụ tá hành quân Quân đoàn II, đi cùng một đại tá, và hai trung tá tiến vào Tiểu khu. Một đám đông quân nhân đi theo mấy sĩ quan cao cấp này. Chuẩn tướng Cẩm vẫy tôi lại và nói:

– Hiển, ở lại phòng thủ Tiểu khu đi, tôi gọi máy bay sẽ đến giải vây cho mình.

Tưởng cũng nên nhắc lại, Chuẩn tướng Cẩm biết tên tôi, vì thời gian tôi ngồi chơi xơi nước ở Pleiku, thỉnh thoảng có dịp tôi đánh mạt chượt tại nhà ông. Lúc đó phong trào mạt chượt đương lên, tôi cũng tập tễnh đua đòi. Tôi khựng lại, đã cả tháng nay thất vọng, đã cả tháng nay thấy sao khó như thấy ma quỷ. Hôm nay, giờ thứ hai mươi lăm ma quỷ hiện hình giữa ban ngày. Thành thực mà nói, ông Cẩm không phải là type chỉ huy tôi chịu. Miền Nam có hơn một trăm ông tướng, tướng sạch đếm chưa đủ đầu ngón tay, tướng không sạch không bẩn bao nhiêu? Còn lại tướng bẩn có bao nhiêu? Thời gian tôi ở Pleiku, ông Cẩm làm phó cho “Quế tướng công Nguyễn Văn Toàn”, chính ông theo “Quế tướng công” từ vùng I vào, đó là điểm tôi không thể nào quên được, mặc dù ông Cẩm chưa có điều gì quá đáng về nhân cách cũng như về phong cách chỉ huy. Dù sao ông Cẩm xuất hiện đột ngột làm tôi quên cả thắc mắc, mấy người lính dợm bỏ hàng quân lại trở về. Không một ai chối cãi được, ông Cẩm xuất hiện như mang một luồng sinh khí mới cho đoàn quân đang tan rã. Không ai bảo ai, mọi người đều ra vị trí phòng thủ. ông Cẩm nói với tôi:

– Chú ra đốc chiến anh em đi, tôi gọi máy bay ở Nha Trang rồi, họ sẽ lên yểm trợ mình. Ráng đi, kỳ này về anh chạy cho chú một bông mai bạc.

Tôi khựng lại, nhìn ông Cẩm một cách soi mói. Đây là cung cách chỉ huy của “Quế tướng công”. Tôi quên sao được chiến sự của mùa hè 72, tôi ở Pleiku một mình, vợ con đã di tản vào Sài Gòn để tránh tên bay đạn lạc. Rỗi rảnh tôi hay la cà khắp nơi, có hôm ngủ trong phi trường, hôm thì ngủ ở Câu lạc bộ sĩ quan quân đoàn, có hôm ngủ tại Liên đoàn 72 Quân y. Lần đó địch quân vây một căn cứ Biệt động quân Biên phòng, tôi tình cờ ngủ đêm trên quân đoàn, nhân tiện xuống coi binh sĩ tôi gác phòng Trung tâm hành quân. Tôi đi với Đại úy Bảo Đồng, sĩ quan trực Trung tâm Hành quân. Qua máy truyền tin siêu tần số, tôi nghe giọng viên sĩ quan chỉ huy trú phòng như lạc đi, địch quân cỡ hai trung đoàn vây đánh một căn cứ. Quân số phòng thủ là một tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng. Gọi là tiểu đoàn cho oai, thực ra chỉ gồm hai đại đội, phần lớn binh sĩ người Thượng, Bảo Đồng nói với tôi:

– Căn cứ chắc đỡ không nổi, một là quân trú phòng quá ít, lại không có ý tử chiến, hồi chiều Trung tâm Hành quân đã điều động một tiểu đoàn Bộ binh của trung đoàn 47 đến giải vây, nhưng chắc cũng không thấm gì. Họ còn cách căn cứ quá xa, và công đồn đả viện vốn là chiến thuật sở trường của địch. Chính tiểu đoàn Bộ binh cũng đang bị vây khổn ở bên ngoài.

Tôi nghe tiếng kêu cứu thảm thiết của hai cánh quân nhà. Giọng người chỉ huy căn cứ nghe rất quen, quen ghê lắm, không hiểu đã gặp ở đâu. Tôi hỏi Bảo Đồng và được biết đó là Thiếu tá Đồng Đăng Khoa, một người bạn học của hơn mười năm trước, của Đệ Nhất B Chu Văn An niên khóa 1961. Tôi không thể nào ngờ đã nghe được tiếng bạn mình trong hoàn cảnh tuyệt lộ.

Đúng lúc đó “Quế tướng công” bước vào Trung tâm Hành quân mang theo đầy mùi rượu thịt, mặt đỏ gay, cổ bạnh ra, khệnh khạng bước tới máy truyền tin, nói qua ống liên hợp không ngụy thoại gì hết:

– Trung tướng tư lệnh đây, mấy cũng vào. Mai qua xuống gắn lon thiếu tá cho em.

Tôi bỏ ra ngoài, về phòng nằm thao thức nhớ bạn cho tới sáng. Tới chiều Bảo Đồng cho tôi hay, Không quân đã dội bom cày nát căn cứ, Đại úy Tiểu đoàn trưởng Bộ binh được vinh thăng cố Thiếu tá. Địch quân tràn ngập căn cứ lúc hai giờ sáng, người bạn thiếu thời của tôi đã mở một đường máu, dẫn được không đầy trung đội thoát thân. Anh đang bị thẩm vấn trên quân đoàn chờ ra tòa quân sự. Giờ đây ông Cẩm cũng không khác gì, mới ba phút trước ông mang đến cho tôi một trời hy vọng, qua một câu nói ngắn ngủi ông đã cho tôi một niềm cay đắng ê chề.

(Xem tiếp kỳ sau)

Comments are closed.