Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng (18)

Thụy Khuê

Con đường Phong Hóa

Khi Nhất Linh thay đổi tờ Phong Hóa (từ số 14, 22-9-1932), ông muốn làm một tờ báo khôi hài, châm biếm, văn chương. Chủ trương này hiện rõ ngay trong thời kỳ đầu, khi Phong Hóa khai sinh ra hai nhân vật Lý Toét-Xã Xệ và tổ chức những cuộc thi vẽ tranh hài hước, được độc giả hưởng ứng. Sang năm 1935, phần khôi hài, châm biếm giảm đi, có lẽ vì Nguyễn Gia Trí bận học, ít tham gia. Đến năm 1936 khi Nguyễn Gia Trí trở lại, phần biếm họa lại khởi sắc và chuyển sang hướng tranh đấu: Tranh Nguyễn Gia Trí phụ họa với luận thuyết Hoàng Đạo trên Phong Hóa và nhất là Ngày Nay, chĩa vào các vấn đề lớn, như trả lời Toàn quyền Brévié, đòi tự do báo chí và cải tổ đời sống bùn lầy nước đọng của dân quê, trình bày lai lịch chế độ thực dân, tố cáo sự bóc lột cần lao… đó là chuyện về sau.

Tự Lực văn đoàn đã cộng tác chặt chẽ với các họa sĩ và kiến trúc sư xuất thân từ trường Mỹ thuật Đông dương, thực hiện hành trình đưa nghệ thuật vào đời sống, đưa kiến trúc vào việc xây nhà Ánh sáng cho dân nghèo. Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đóng vai trò không nhỏ trong công cuộc cải thiện và mỹ thuật hóa đời sống con người ở Việt Nam.

Tự Lực văn đoàn cũng là nhóm người đầu tiên nhiệt thành giới thiệu Thơ mới và nâng đỡ những người làm Thơ mới một cách mạnh bạo và toàn diện.

Phong Hóa cũng là nơi Khái Hưng tiên phong phát triển nghệ thuật truyện ngắn và hình thành hệ thống tiểu thuyết hiện đại, cùng với Nhất Linh, sau này sẽ được gọi là tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn.

Con đường Phong Hóa là con đường khai phóng nghệ thuật và tư tưởng. Tự Lực văn đoàn đi từ khởi điểm những ngày chúng ta chưa thoát khỏi ảnh hưởng Nho giáo, còn chuộng văn chương biền ngẫu, để tiến sang thời kỳ hiện đại, không chỉ về văn chương nghệ thuật, mà còn cả về cải tạo xã hội và tranh đấu chính trị nữa.

Sự khảo sát Phong Hóa của chúng tôi bao gồm những chủ đề sau đây:

1- Tìm hiểu đề cương tranh đấu của Phong Hóa, Ngày Nay qua những bài xã luận

1- Vai trò của hội họa trào phúng qua hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ

2- Đưa mỹ thuật vào đời sống: Trường Mỹ thuật Đông dương

3- Giới thiệu và cổ động Thơ mới

4- Khai phá truyện ngắn

5- Hình thành nền tiểu thuyết Quốc ngữ hiện đại ở miền Bắc

6- Trào phúng như một vũ khí tấn công những quan lớn bồi Tây

Nếu trong hai năm 1933-1934, Tự Lực văn đoàn đã xây dựng được nền tảng vững vàng cho tiểu thuyết, thì con đường tranh đấu chính trị chỉ mới sơ khai với tranh Nguyễn Gia Trí và bài viết của Hoàng Đạo. Những bức biếm họa trong thời kỳ đầu rất phong phú, nhưng chỉ có tính cách thăm dò, hài hước nhẹ nhàng, chưa chạm đến những chủ đề gay go như đòi hỏi tự do dân chủ và đả kích chính quyền thực dân, như ở giai đoạn sau trên Ngày Nay. Bởi vì lúc này thực dân vừa dẹp tan cuộc cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh; Đông Dương ở dưới sự thống trị tàn ác của Toàn quyền Pasquier, Bắc kỳ chịu sự khống chế của Thống sứ Robin.

Tứ Ly (Hoàng Đạo) làm việc ở tòa án, phụ trách ba mục Từ nhỏ tới nhớn, Bàn ngang, Từ cao xuống thấp, bàn phiếm về những chuyện cá nhân, thời thế hàng tuần và thỉnh thoảng viết bài xã luận. Việt Sinh (Thạch Lam) ngoài phóng sự Hà Nội về đêm viết chung với Tràng Khanh, phụ trách những mục thường thức, như một cây bút trẻ đang học nghề. Thế Lữ, tuy gửi văn thơ đăng trên Phong Hóa từ số 27 (23-12-1932), nhưng mãi đến số 91 (30-3-1934), mới được nhận vào làm việc toàn thời tại tòa báo.

Thế Lữ nổi tiếng ngay với hai tác phẩm Mấy vần thơ Vàng và máu và ông trở thành nhà Thơ mới nổi bật nhất lúc bấy giờ. Sau đó, ngôi sao Thế Lữ bớt sáng đi, vì tiểu thuyết trinh thám không đem lại gì thêm cho sự nghiệp văn học của ông. Thế Lữ lại không thích chính trị, nên đứng ngoài vòng đấu tranh cách mạng của Tự Lực văn đoàn. Năm 1938, khi Nhất Linh thành lập đảng Hưng Việt, Thế Lữ cũng lập ban kịch Thế Lữ. Từ đó sự cộng tác của Thế Lữ với báo Ngày Nay giảm dần. Còn Tú Mỡ, hàng ngày vẫn đi làm ở sở Phi Năng (Service des Finances – Sở Tài Chính), mỗi tuần chỉ góp một vài bài thơ trào phúng và ông cũng không muốn nhúng vào chính trị. Vì vậy, Thế Lữ và Tú Mỡ, dù có chân trong Tự Lực văn đoàn, nhưng không cùng chí hướng với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí.

Đề cương tranh đấu của Tự Lực văn đoàn qua những bài xã luận

Tự Lực văn đoàn có bản tuyên ngôn chính thức in trên Phong Hóa số 87 (2-3-1934), nội dung nói lên sự cộng tác trong tình đồng chí để theo đuổi một tôn chỉ. Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn gồm 9 điểm, có thể tóm tắt như sau:

1- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài.

2- Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội.

3- Theo chủ nghĩa bình dân.

4- Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho.

5- Mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

6- Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, không trưởng giả, quý phái.

7- Trọng tự do cá nhân.

8- Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

9- Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam.[1]

Bản tuyên ngôn này có giá trị thực tiễn, ứng dụng vào phương pháp làm việc, không nói đến những gì ẩn trong chủ đích tư tưởng (cũng không thể nói được) và chính cái chủ đích tư tưởng này tôi xin gọi là đề cương tranh đấu, ẩn sau chữ nghĩa. Để cương này chỉ có thể khám phá bằng cách đọc kỹ những bài xã luận in trên Phong Hóa.

Vậy, trong thời kỳ 1933-1934, tranh hài hước chỉ có tính cách giải trí, chủ trương chính trị và xã hội của tờ báo nằm trong các bài xã luận.

Thực ra, Phong Hóa không có mục nào đặt tên là xã luận. Tên xã luận mà chúng tôi gọi ở đây để chỉ bài viết ngắn, gọn, nhưng quan trọng, in trên trang đầu, dưới tên tờ báo, diễn tả lập trường và vạch đường lối.

Mục xã luận chỉ có bốn thành viên chính của Tự Lực văn đoàn phụ trách là Nhất Linh, Nhị Linh (Khái Hưng), Tứ Ly (Hoàng Đạo) và Việt Sinh (Thạch Lam). Thế Lữ và Tú Mỡ không viết xã luận.

Tuy xã luận do bốn người viết nhưng không phân phối đều:

Việt Sinh (Thạch Lam) chỉ viết có mấy bài đầu, như: Sầu thảm nhiều rồi; Lạc quan; Một cái lầm to; Thiếu niên buồn; Vấn đề dân sinh-Các kỹ nghệ nhỏ[2], chưa có bài nào quan trọng, dường như Thạch Lam chỉ được các anh giao cho việc này khi họ bận.

Xã Luận của Tứ Ly

Từ Phong Hóa số 16 (6-10-1932), đến số 96 (4-5-1934), Tứ Ly, ngoài mấy mục thường thức: Từ nhỏ đến lớn, Từ cao đến thấp, Đàn ngang, còn viết khoảng 19 bài xã luận, ký những tên: Tùng Lương, Tứ Linh và Tứ Ly, với những đầu đề: Tinh thần khủng hoảng; Phải theo mới; Giạy đời; Các ông nghị; Sợ mới; Sống chết; Ta đi đâu? Việc học ngày nay; Mặt thực; Phong hóa có suy đồi hay không? Yêu đời; Báo giới với xã hội Việt Nam (4 bài); Đi tìm hạnh phúc; Dân quê và luật; Trí thức và dân quê; Hai ngày của một cử tri[3].

Xã luận của Tứ Ly trong thời kỳ này là những chủ đề rời rạc, viết tùy hứng, chưa quan trọng.

Bài xã luận đầu tiên in trên Phong Hóa số 16 (6-10-1932), ký tên Tòng Lương (Tường Long nói lái), nói lên sự khủng hoảng tinh thần của giới trẻ:

"Nho học đã tàn, nhưng "các cụ Nho xưa, cứ theo lối cũ mà đi, thánh hiền giậy thế nào thì cứ tiếp theo như thế, không bao giờ băn khoăn, bứt rứt".

"Đến bây giờ, nước ta tự theo Âu học, lấy khoa học, luận lý thay vào lời giậy bảo của thánh hiền, thiếu niên ai cũng như trải qua một thời kỳ tinh thần khủng hoảng".

Thanh niên bị khủng hoảng tinh thần vì có sự xung đột giữa cái mới và cái cũ làm cho bao nhiêu gia đình tan nát:

"Họ là một bọn lạc loài phơ phất, không biết lấy gì làm căn cứ, như chiếc lá nương theo chiều gió mà bay. Họ đương tìm một lý tưởng mạnh mẽ để làm phương trâm cho sự hành động, cái lý tưởng ấy, chưa mấy ai thấy".

Những lời ngắn gọn trong bài xã luận đầu tiên này, dường như Hoàng Đạo viết cho chính mình, người thanh niên 25 tuổi, mới bước vào đời làm báo, còn hoang mang trước những con đường trước mặt, chưa biết chọn hướng nào.

Sau đó đến bài Phải theo mới, Phong Hóa số 20 (4-11-1932), Tứ Linh đã chọn xong: phải theo mới, không chút do dự. Người Tàu và người Nhật đã sớm hiểu như thế. Còn chúng ta? "Riêng ta, chỉ riêng ta, trong cuộc tiến hóa đã rung động cả Á Châu, ta vẫn nghiễm nhiên rung đùi, ngồi ôm những cái mộng xưa, đối với sự thay đổi ở nước ngoài, ta không biết đến mà cũng không cần biết".

Cứ thấy "một đôi guốc mới, một cái mũ lệch" là người ta "nhao nhao lên phản đối". Người ta hô hào: "phải bảo tồn quốc hồn quốc túy", người ta kết án cái văn minh mới đã làm đảo lộn luân thường đạo lý, phong hóa suy đồi. Vì ta vẫn chưa hiểu phương Tây là gì trong khi "hàng năm, trăm nghìn học sinh Nhật Bản và Trung Hoa du học để đem về nước nhà những cái mới".

Tứ Linh kết luận bài viết bằng khẩu hiệu:

"Phải theo mới!

Nhưng trước hết, ta cần phải suy xét nghẫm nghĩ để hiểu hết cái văn minh mới."

Những lời tha thiết này, mở đầu cho 10 điều tâm niệm Hoàng Đạo sẽ viết trên Ngày Nay thành cẩm nang kêu gọi thanh niên.

clip_image002

Trong bài Sống chết trên Phong Hóa số 24 (2-12-1932), Hoàng Đạo viết khá mạnh, tấn công vào thành trì cổ hủ: sự sùng bái cõi âm, bằng những tư tưởng rất mới: Người Âu yêu sự sống, bao nhiêu nghị lực họ dồn vào cuộc sống, tìm cách làm tăng chất lượng cuộc sống, còn chúng ta dù "sống đầy khổ sở, ăn cơm hẩm, vận áo rách cũng cam lòng, miễn sao có tiền mua lấy cái quan tài sơn son thiếp vàng để đến lúc nhắm mắt, có gỗ đẹp, có sơn tốt giữ bền được nắm xương khô.

Mấy gian nhà thờ phải lộng lẫy uy nghi, đến ngày giỗ phải cỗ bàn linh đình để cho làng mạc đến ăn, bốn lạy đổi lấy bữa cỗ kể cũng không đắt: phải mua vàng hương áo mũ đem đốt cho người chết hưởng lấy đống gio tàn".

Phũ phàng mà quá đúng: cũng vì phải giữ mồ cha, mộ tổ, mà nhiều người không dám ra khỏi lũy tre làng, thì làm sao có thể cạnh tranh sinh tồn để tiến lên được?

"Thiếu niên phải tìm đường mà tiến … Ta nghĩ đến người chết, nhưng trước hết ta nên nghĩ đến người sống!"

Một lập luận mạnh mẽ, gây sốc, nhưng cần phải có sự mạnh mẽ Hoàng Đạo, mới có thể thúc đẩy được thanh niên lên đường.

Xã luận của Nhất Linh

Nhất Linh là giám đốc Phong Hóa, nên ông mở đầu mục xã luận của tờ báo từ số 14 và ký nhiều tên: Nguyễn Đông Sơn, Tam Linh, Nhất Linh, Tân Việt. Ông viết không nhiều, những bài xã luận của ông chia làm hai mạch chính: tranh đấu để phát triển đời sống dân quê, và kêu gọi thanh niên đứng lên hành động để thực hiện lẽ sống của đời mình.

Từ Phong Hóa số 14 (22-9-1932), đến số 97 (11-5-1934), Nhất Linh có khoảng 17 bài: Biết dân quê…, Tài cán và việc làm; Buổi đời mới; Vấn đề phụ nữ; Dân quê (thơ); Vô nhân đạo vô nghĩa lý; Một vấn đề di dân; Một vấn đề dân sinh; Tinh thần và hình thức; Vấn đề dân sinh-Đường xá; Dân quê muốn gì? (2 bài); Vấn đề dân sinh: Những cái nhà vàng; Một buổi chiều; Con thuyền ngược nước; Ngược lên chiều gió; Nhà cửa… thôn quê[4].

Bài đầu tiên, Biết dân quê… trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932), Nguyễn Đông Sơn đặt vấn đề: Bọn học thức sống xa cách dân quê quá, nhiều người có học, không kiếm được việc phải về làng, nhưng cũng không sống với dân, không tham dự việc làng, không bàn bạc… Nói chung là nếu muốn, họ có thể áp dụng việc học của mình, để làm những việc hữu ích cho dân quê, giúp họ có một cuộc sống tiến bộ hơn, nhưng họ không làm.

Trong bài Dân quê muốn gì? trên Phong Hóa số 48 (26-5-1933) và số 49 (2-6-1933), Nhất Linh trở lại vấn đề này, ông viết mạnh hơn:

"Bọn học thức ngày nay cách biệt với dân quê nhiều lắm.

Một bên cố mau bước tiến, không đoái hoài ai, một bên đứng yên như cũ, hai bên phải xa nhau, không hiểu nhau, hững hờ với nhau. Thật là một cái nguy cho bọn học thức, không có nơi đông mà dựa, nguy cho bọn dân quê không có nơi sáng mà theo.

Nay ta cứ hỏi bất cứ một người học thức nào về những điều dân muốn, muốn một cách thiết tha và thiết thực thì họ không trả lời được, hay trả lời một cách lờ mờ, vì họ không thể biết rõ được".

Bởi vì, hiểu dân quê thì chỉ có bọn kỳ hào trong làng, vì họ xuất thân từ đây, nhưng bọn này hiểu dân để mà lợi dụng, ăn trên ngồi trốc. Bọn thứ nhì là những nghị viên dân biểu "thay mặt dân", hạng này có thể chia ba: làm nghị viên vì thích được gọi là quan nghị, thứ đến hạng chỉ biết bênh vực quyền lợi cho mình và hạng dân biểu đích thực, bênh vực quyền lợi dân thì ít lắm. Nói tóm lại, nếu bọn học thức muốn cải thiện đời sống của dân quê thì phải gần gụi dân, và dạy cho họ cái quan niệm sống tân tiến của mình, rồi mới bắt đầu cải cách. Nghĩa là giảng giải cho họ phải bỏ cái đời sống mê muội huyền bí của họ đi, lấy cái đời hợp lý, thay vào.

Vẫn biết cơm no áo ấm là cần, nhưng đối với họ là cái cần phụ; cái bổn phận mà họ cho là to tát là đối với thần thánh, đối với làng mạc, đối với họ hàng mà dân chúng Âu Mỹ không có. Đáng lẽ có tiền để sửa sang nhà cửa cho sáng sủa sạch sẽ, cho con học nghề để nuôi sống gia đình, thì lại đem tiền đi mua chức nhiêu chức xã (chuộng hư danh), làm cỗ bàn để đăng cai (vì ông Thần làng); làm cỗ giỗ, cỗ đám ma (vì lệ làng). Làm xong mấy thứ đó thì sạt nghiệp. (Truyện Con trâu của Trần Tiêu nhắm vào những khía cạnh này của đời sống dân quê: thay vì có tiền mua con trâu để làm ruộng, lại mua nhiêu để "mở mày mở mặt với họ hàng làng nước" rồi cả đời khốn khổ, không ngóc đầu lên được).

Bài Vô nhân đạo vô nghĩa lý in trên Phong Hóa số 41 (7-4-1933), Nhất Linh đánh vào hủ tục: cấm cưới khi nhà có tang (đại tang: ba năm). Một người con gái 25 tuổi, sắp lấy chồng, đùng cái, bà ngoại chết, tiếp đến ông ngoại, rồi ông nội, bà nội, tới cha, mẹ… thì chỉ có ở giá suốt đời. Một tục lệ vô nhân đạo. Rồi lại có tục cưới chạy tang: người chết còn nằm sờ sờ ra đó, mà nhà lo… cưới chạy tang, thật vô nghĩa lý.

Còn lại là ba bài rất hay: Con thuyền ngược nước, đậm tính văn chương, in trên Phong Hóa số 78 (22-12-1933), Nhất Linh kể lại quang cảnh một gia đình chiến đấu với sóng nước trong cơn dông bão: người đàn ông đứng trên bờ, lấy hết sức bình sinh kéo dây, đưa thuyền vào bến trong khi "trên thuyền một người đàn bà và một đứa con gái nằm rạp xuống uốn mình chống cong con sào (…) Rồi trong khoang, một bà cụ bò ra rất nhanh lại đằng cuối thuyền cầm lấy tay lái (…) Chiếc thuyền con bị hai sức ngược nhau, sức nước và sức người, chồm lên như cố vượt chỗ nước xoáy. Giáng gò gẫm của mấy người đàn bà mảnh giẻ uốn cong lưng nằm rạp xuống mui, tiếng gió vù vù và tiếng vạt áo gió thổi lạch bạch, tiếng nước réo, tiếng người hô nhau diễn ra cái cảnh tượng hoạt động của một cuộc chiến đấu ráo riết, gay go. (…) Cuộc vật lộn ấy nhắc lại cho chúng tôi một lần nữa rằng: phải mạnh mẽ mà sống, sống để hành động. Cài đời của tôi, của bạn tôi, của hết thẩy các bạn thanh niên trí thức phải là cái đời linh hoạt". Bài xã luận này cho thấy phong cách Nhất Linh: một nhà văn làm cách mạng.

Bài Ngược lên chiều gió, Phong Hóa số 92 (6-4-1934), cũng trong đường hướng ấy, Nhất Linh kêu gọi thanh niên bỏ tư tưởng chán đời, yếm thế. Phải vùng dậy hành động:

"Hai người đi ngược lên chiều gió thổi, dằn từng bước, cúi đầu ngẫm nghĩ.

Dưới sông, nước nguồn chảy mạnh; cuồn cuộn vào bờ, bọt nổi trắng xoá như biểu hiệu cho ngọn sóng tư tưởng rào rạt trong lòng.

Bạn tôi vừa ngỏ cho tôi hay những sự bối rối trong tâm hồn, những sự đau đớn về tinh thần. Lòng nghi hoặc về nghĩa lý đời người (…)

Anh không nên băn khoăn tìm về nghĩa lý của đời anh, anh không nên tự hỏi: ta sống đây có nghĩa lý gì không? Vì không bao giờ anh tìm thấy, anh không trả lời được, mà không ai trả lời được câu hỏi ấy. Anh chỉ biết có một việc: là đã sinh ra ở đời thì phải sống, dẫu có nghĩa hay không có nghĩa gì. Mục đích của đời người ấy chính là đời người, theo như Goethe (…)

– Sống để mà hành động. Cái đời của anh với tôi phải là cái đời linh hoạt".

Nhà văn Nhất Linh đã khơi cho thanh niên con đường sống, sống có ý nghĩa, có mục đích.

Mạnh mẽ nhất là bài xã luận thơ, tựa đề: Dân quê in trên Phong Hóa số 39 (24-3-1933) ký Tân Việt, làm theo lối thơ mới:

Cảnh thì cảnh bùn lầy và nước đọng.

Dân thì nghèo vất vả làm quanh năm

Hết nắng thiêu lại gió rét căm căm.

Vẫn nhem nhuốc vẫn thân trần như rộng

Ngày ngày trên ruộng chân tay lấm

Đêm đêm về gian nhà tối tăm;

Giường nan bẩn thỉu chiếu hôi hăm.

Bố cu, mẹ đĩ rúc vào nằm.

Đứa trẻ trần truồng lăn ra đất.

Đứa thì gầy còm, đứa bệnh tật.

Cố sống cầm hơi chờ khi nhớn.

Làm thân trâu cho trọn đời khốn nạn

Bọn đàn anh thời chúi đầu cắm cổ.

Tranh nhau thủ lợn với phao câu

Theo lễ nghi quèn, nghĩ những truyện đâu đâu

Riêng mình thú, không biết rằng dân khổ.

Tân Việt

clip_image004

Bài thơ này trỏ thẳng vào cảnh bùn lầy nước đọng, vào đời sống tối tăm của dân quê, sẽ được Hoàng Đạo mở rộng trên Ngày Nay trở thành loạt bài Bùn lầy nước đọng, làm chế độ thực dân giật mình, và khi sách in ra, bị tịch thu ngay.

Dân quê cũng đã khiến Nhất Linh đã bị đe dọa, sau này ông kể lại:

"Bài thơ cuối cùng của tôi trong đời làm báo là bài Dân quê. Bài ấy đã làm cho tờ Phong Hóa (đăng bài thơ ấy) suýt bị đóng cửa, tôi bị mời ra ty kiểm duyệt và báo bán tăng thêm được hai nghìn số. Từ đấy tôi không làm thơ nữa"[5].

Xã luận của Khái Hưng

Khái Hưng có bút hiệu thứ nhì, rất hay dùng là Nhị Linh, ký dưới những văn bản mà Khái Hưng xem là nhẹ, như tự truyện Mực tầu giấy bản, hoặc các truyện ngắn, kịch ngắn, truyện vui và xã luận. Nhiều người không biết, tưởng Nhị Linh là Nhất Linh, như Phạm Thế Ngũ. Vì thế, một phần tác phẩm của Khái Hưng được kê vào "sổ" Nhất Linh. Xã luận là một trường hợp.

Đọc xã luận, mới thấy Khái Hưng là người vạch ra một đường lối đấu tranh có hệ thống. Từ Phong Hóa số 51 (16-6-1933) đến số 120 (19-10-1934), ông viết khoảng 41 bài xã luận có tính cách đại luận, một kỷ lục, vì Hoàng Đạo chỉ viết 19 bài và Nhất Linh 17 bài, bởi vì Khái Hưng còn viết nhiều thể loại trên các hạt khác nữa. Chúng tôi tạm thống kê sau đây:

Tinh thần và vật chất; Vần đề dân sinh: Man trá và hà lạm; Sự sống của dân quê (5 bài); Các trình độ học thức; Quay về vườn ruộng; Một bản chương trình dự định; Lễ đối với người chết; Hư danh; Tự trọng; Ngó qua chủ nghĩa đại gia đình; Một tấm gương đời; Yêu đời; Tập tục; Một bản chương trình (7 bài); Quyền công dân; Thư gửi các ông nghị; Các ông nghị nhà quê; Khổng Giáo; Viết sách xuất bản sách; Trẻ già; Âu hóa dân quê – Quan niệm mới (2 bài); Tủ sách gia đình (2 bài); Các ông nhà giầu; Đốt mã là sự giả dối; Trai gái bằng quyền; Văn bác học và văn bình dân; Sách khảo cứu, tủ sách gia đình; Thuyết trung dung của ông Nguyễn Công Tiễu[6].

clip_image006

Bài Tinh thần và vật chất trên Phong Hóa số 51 (16-6-1933), là bài khai bút, Khái Hưng kể lại câu chuyện từ đầu:

"Nhất Linh và tôi đến chơi một người bạn ở một làng giáp Hà Nội.

Tới chỗ giẽ vào làng, chúng tôi xuống xe, đi bộ theo một con đường nhỏ hẹp, gồ ghề quanh co, lầy lội. Hai bên bờ thì cỏ mọc lẫn với những cây cúc dại hoa trắng um tùm rậm rạp. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải nhảy qua một cái rãnh xẻ, hoặc một đống ô uế lù lù ngay giữa đường.

Đi bên những xóm dân cư đông đúc, chúng tôi nhìn qua kẽ lũy tre già: san sát nhà tranh ẩm thấp, bẩn thỉu. Nào người, nào gà, nào lợn, lúc nhúc trong một khu chật hẹp.

Tới đình làng, chúng tôi dừng chân ngồi nghỉ mát ở dưới bóng rợp của mấy cây muỗm cỗi. Bên phải chúng tôi là chùa làng, bên trái chúng tôi là văn chỉ [nền tế Thánh]. Ba lớp nhà gạch tráng lệ nguy nga dựng trên một khu đất khoáng diễn, cao ráo. Nào cửa tam quan, nào đường lát gạch, nào tường hoa, nào nhà nghỉ mát. Đẹp lắm! Sạch sẽ lắm!

Nhất Linh mỉm cười bảo tôi:

– Ước gì người làng này, hay nói rộng ra người nước ta họ biết tự trọng thân họ như họ trọng việc thờ phụng! Bao giờ cho những con đường lầy bùn bẩn thỉu trong làng được họ chăm chút tới như họ chăm chút quét dọn cái sân đình kia.

Tôi trả lời bạn:

– Bao giờ à? Có lẽ còn lâu lắm. Khi nào họ không ngộ nhận hai chữ tinh thần và vật chất, mà cái đó thì rất khó, tuy ta tưởng là rất dễ, thì họa may sự mong mỏi của anh mới có thể có kết quả".

"ngộ nhận hai chữ tinh thần và vật chất", cho nên dân ta mới sống cuộc đời "đảo ngược" như thế, mặc dù đã có câu tục ngữ "có thực mới vực được đạo" nhưng lại không dùng mà coi như lời bỡn cợt ở cửa miệng đàn bà! Nếu dân làng thiên về vật chất một chút, thì họ sẽ dùng số tiền bỏ ra làm đình, làm chùa, làm cỗ bàn, để xây giếng nước, dựng trường học, sửa đường sá mà đi.

"Làng này có tiếng là một làng văn vật, mấy mươi đời tôn trọng Khổng Giáo, và đã đào tạo nên những danh nhân, thượng tướng, đi nữa, một người ngoại quốc mới thoạt đến đặt gót trên con đường bùn bẩn, ngắm cách sinh hoạt cẩu thả khốn nạn của bọn dân đinh, họ cũng đem lòng khinh bỉ và cho dân tộc này là một dân tộc mọi rợ.

Thì sao bọn đàn anh, bọn học thức trong làng, không đem cái tài tôn trọng lễ nghi, đem cái khỏe bảo tồn đạo đức ra mà hãy dạy dân biết ít nhiều điều cần thiết về sự sống đã!"

Khái Hưng không chỉ nói đến bọn Tây học vô tình, mà còn chỉ trích cả những "danh nhân, thượng tướng" nữa, họ đã làm gì để nâng cao đời sống người dân?

Bài này đi đôi với bài Dân quê muốn gì? của Nhất Linh, tỏ sự nhất trí của hai nhà văn về vấn đề cải thiện đời sống dân nghèo, tạo ra một câu hỏi lớn về việc phải thay đổi đời sống dân quê, từ cỗi rễ tư tưởng đến sự thực hành.

Khái Hưng đã trả lời: phải thay đổi như thế nào trong những bài xã luận kế tiếp.

Riêng về vấn đề cuộc sống dân quê, từ Phong Hóa số 52 (23-6-1933) đến số 57 (28-7-1933) ông viết tất cả 7 bài, nêu lên những bất cập trong guồng máy cai trị dân quê và đề nghị cải tổ.

Rồi trong loạt bài Một bản chương trình, từ Phong Hóa số 80 (5-1-1934) đến số 87 (2-3-1934), ông viết thêm 7 bài nữa, đề nghị chương trình kiến tạo nông thôn:

– Ao chuôm trong làng phải sửa thành một hệ thống ao hồ vệ sinh, có thể nuôi tôm, cá.

– Thiết lập một thứ tiểu kỹ nghệ, để dân có việc làm, ngoài vụ gặt, bớt rong chơi cờ bạc.

– Phá lũy tre xanh để dân làng tiếp xúc với bên ngoài, đi xa, học cái mới.

– Trâu bò không được giữ ở nhà, bẩn thỉu mất vệ sinh, mỗi làng cần có một trại nuôi trâu bò chung.

– Dân quê nên ăn mặc giống người thành thị cho gọn ghẽ, đàn ông áo dài trắng, đàn bà mặc như các cô gái Lim, rất duyên dáng mà cũng không tốn kém hơn.

– Không đi đất, trông bệ rạc, trời rét cóng chân, nên tập đi dép, guốc, sạch sẽ hơn, đầu đội nón.

– Không dùng nước ao tù làm đủ mọi việc: ăn, uống, tắm, giặt, giết súc vật, cầu tiêu, như vậy "mọi rợ" lắm…

– Phải đào giếng khơi để lấy nước ăn, uống.

– Mỗi làng phải có nhà giết trâu giết bò, phải có nơi riêng để rác…

– Bỏ lối làm nhà đình, nhà vỏ riêm (diêm) hay bánh khảo, Phong Hóa sẽ vẽ nhà kiểu mẫu. Đắp đường sá. Dường như ông đã làm thử chương trình này ở làng ông (xem truyện Những ngày vui). Đề nghị này sẽ được thể hiện trong chương trình làm nhà Ánh sáng cho dân quê.

Việc Khái Hưng đề nghị phá lũy tre xanh từ năm 1933, cực kỳ tân tiến, và đến bây giờ, hơn 80 năm sau, mới thực hiện được.

Khái Hưng có thuật biến bút, viết lối nào cũng được, ví dụ trong cùng một số báo (số 80), ông vừa trầm mình trong không khí tĩnh lặng thơ mộng, đầy âm thanh và cảm xúc của truyện ngắn Tiếng dương cầm, lại vừa xông xáo trong trận bài xã hội, với Một bản chương trình, tấn công bọn nghị viên trí thức khinh bỉ dân quê. Khái Hưng cũng không quên "mặt trận" văn hóa giáo dục và luôn luôn giữ thế trung dung khi phân tích, phê bình.

Lối viết xã luận của Khái Hưng, khó ai bì kịp bởi sự uyên bác và cách thay đổi đề tài: Qua những bài xã luận, ông bàn về rất nhiều vấn đề khác nhau: Không những ông chỉ ra những tệ nạn và bất cập trong đời sống dân quê, mà còn đề nghị sự cải tổ trực tiếp bằng cách viết thư cho các ông nghị, đòi hỏi phải dạy cho học sinh lớp sơ đẳng biết quyền công dân. Tố cáo việc nhà xuất bản ép nhà văn nghèo phải bán đứt bản quyền với giá rẻ. Tố cáo tệ nạn đốt vàng mã. Vạch ra sự cần thiết phải lập một tủ sách gia đình, v.v.

Để đả kích việc đốt vàng mã, ông viết bài Đốt mã là một sự giả dối trên Phong Hóa số 114 (7-9-1934), trở lại nguồn gốc của thói tục này, ông giải thích tại sao dân ta đốt vàng mã: là để thay thế một tập tục dã man học của Tàu: bắt người sống (cung tần, mỹ nữ, vợ…) chết theo chủ. Rồi ông mới trở về với thời nay, cảnh cáo những kẻ "tân tiến", "có học":

"Họ lừa dối người chết để ăn mày sự âm phù không đâu.

Họ lừa dối người sống để khoe khoang tấm lòng hiếu nghĩa không có.

Họ lừa dối họ, vì họ không tin mà vẫn vờ là có tin.

Họ lừa dối và làm hại xã hội, vì đồng tiền bỏ ra mua mã có thể dùng đế cứu giúp được biết bao kẻ đói khó"[7].

Những lời cảnh cáo của Khái Hưng, 86 năm qua, vẫn còn cần thiết với ngày nay! Bởi tục đốt vàng mã vẫn còn nguyên, tại thế.

Trong bài xã luận Quyền công dân, Khái Hưng khuyên một ông nghị tân tiến:

"Dạy con em biết ít điều cần thiết về quyền công dân. Mục ấy (droits civiques) ở các lớp sơ đẳng các trường bên Âu Mỹ không đâu họ quên lãng (…) Ở các trường sơ đẳng ở nước ta, tuy cũng có dạy con em những bổn phận đối với vua, với quan đấy, song mục quyền công dân vẫn thấy lẫn với mục luân lý. Không, thưa ông, không thể lẫn lộn như thế được (…) Ta phải dạy cho con em hiểu rằng ta đã là một người công dân trong một nước thì ta phải có đủ quyền tự do của một người dân, quý hồ ta không phạm tới tự do của người khác là được rồi. (…) Tự do ấy, là tự do đi thênh thang trên con đường cái mà ta đã đóng thuế để đắp nên, là tự do uống nước giếng khơi mát mẻ mà ta đã đóng thuế để khơi ra, là tự do bỏ phiếu bầu người ta muốn bầu, không ai dùng oai quyền mà cấm đoán nổi… Tự do ấy, là tự do nói và viết những điều ta nghĩ, quý hồ những điều ấy không phạm tới pháp luật"[8].

Giảng cho người dân vừa qua thời phong kiến, hiểu thế nào là tự do, bằng một bài xã luận ngắn gọn, dễ hiểu, chính xác như thế, Khái Hưng, trong những ngày đầu của cuộc cách mạng xã hội, đã viết những điều khai tâm cho người dân bị trị về dân chủ.

Trong loạt bài xã luận này, Khái Hưng là người lãnh đạo đã viết rõ đề cương tranh đấu, đặt ra rất nhiều chủ đề, mỗi chủ đề được đào sâu bằng một số bài viết.

Sự cải tiến đời sống dân nghèo sẽ được cổ động trực tiếp qua những bài báo, hoặc nói thẳng với nghị viên (đại biểu của dân), hoặc do chính Tự Lực văn đoàn thực hiện trong chương trình nhà Ánh sáng.

Những cải cách xã hội sẽ được khai triển trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn: như chế độ đại gia đình, chế độ đa thê, sự tham nhũng và đồi trụy trong quan trường, những tập tục cổ hủ, vấn đề thừa tự, vấn đề nam nữ bình quyền, sự lỗi thời của Khổng giáo…

Những chủ đề chính trị sẽ được Hoàng Đạo, lý thuyết gia của Tự Lực văn đoàn phát triển qua ngả nghị luận.

Tất cả tạo thành một làn sóng cách mạng văn chương và xã hội có tầm vóc chưa từng thấy.

(Còn nữa)

Thụy Khuê

thuykhue.free/fr


[1] Xem toàn bản Tuyên

ngôn và Tôn chỉ, in trong chương 2: Sự thành lập Tự Lực văn đoàn.

[2] Sầu thảm nhiều rồi (Phong Hóa số 15, 29-9-1932), Lạc quan (số 32, 3-2-1933), Một cái lầm to (số 34, 17-2-1933), Thiếu niên buồn (số 36, 1-3-1933), Vấn đề dân sinh – Các kỹ nghệ nhỏ (số 47, 19-5-1933)…

[3] Tinh thần khủng hoảng, Phong Hóa số 16 (6-10-1932), ký tên Tùng Lương; sau đó ký Từ Linh: Phải theo mới, số 20 (4-11-1932); Giạy đời, số 21 (11-11-1932); Các ông nghị, số 22 (18-11-1932); Sợ mới, số 23 (25-11-1932); Sống chết, số 24 (2-12-1932); Ta đi đâu? số 26, 16-12-1932); Việc học ngày nay, số 27 (23-12-1932); Mặt thực, số 28 (30-12-1932); Phong Hóa có suy đồi hay không, số 30 (13-1-1933); Yêu đời, số 35 (24-2-1933); 4 bài Báo giới với xã hội An Nam từ số 37 (10-3-1933) đến số 40 (31-3-1933). Những bài ký tên Tứ Ly: Đi tìm hạnh phúc, số 79 (29-12-1933), Dân quê và luật, số 91 (30-3-1933); Trí thức và dân quê, số 93 (13-4-1934) và Hai ngày của một cử tri, số 96 (4-5-1934).

[4] Biết dân quê… của Nguyễn Đông Sơn (số 14, 22-9-1932), Tài cán và việc làm của Tam Linh (số 17, 13-10-1932); Buổi đời mới của Nhất Linh (số 18, 20-10-1932): Vấn đề phụ nữ của Tân Việt (số 29, 6-1-1933). Dân quê (thơ, số 39, 24-3-1933) ký Tân Việt. Sau đó ông ký Nhất Linh: Vô nhân đạo vô nghiã lý (số 41, 7-4-1933); 2 bài Một vấn đề di dân, số 43 (21-4-1933) và số 44 (28-4-1933); Tinh thần và hình thức (số 45, 55-5-1933); Vấn để dân sinh-Đường xá (số 46, 12-5-1933), 2 bài Dân quê muốn gì?, (số 48, 26-5-1933 và số 49, 2-6-33), Vấn đề dân sinh: Những cái nhà vàng (số 50, 9-6-1933); Một buổi chiều (số 70, 27-10-1933); Con thuyền ngược nước (số 78, 22-12-1933); Ngược lên chiều gió (số 92, 6-4-1934); Nhà cửa…thôn quê (số 97, 11-5-1934).

[5] Đời thi sĩ, vài trang Hồi ký của Nhất Linh, in trong Văn học nghệ thuật, tháng 7-1985, Hoa Kỳ, trang 311.

[6] Tinh thần và vật chất, số 51 (16-6-1933); Vần đề dân sinh: Man trá và hà lạm, số 52 (23-6-1933), 5 bài Sự sống của dân quê: số 53 (30-6-1933), số 54 (7-7-1933), số 55 (14-7-1933) số 56 (21-7-1933) và 57 (28-7-1933); Các trình độ học thức, số 58 (4-8-1933) Quay về vườn ruộng, số 59 (11-8-1933); Một bản chương trình [giáo dục] dự định, số 60 (18-8-1933); Lễ đối với người chết, số 61(25-8-1933), Hư danh, số 62 (1-9-1933), Tự trọng, số 68, 13-10-1933; Ngó qua chủ nghiã đại gia đình, số 69 (20-10-1933), Một tấm gương đời, số 72 (10-11-1933), Yêu đời, số 73 (17-11-1933). Tập tục, số 74 (24-11-1933); Một bản chương trình, 7 bài, số 80 (5-1-1934), số 81 (12-1-1934), số 82, 83, 84, 86 và 87; Quyền công dân, số 90 (23-3-1934); Thư gửi các ông nghị, số 94 (20-4-1934); Các ông nghị nhà quê, số 95 (27-4-1934); Khổng Giáo, số 100 (1-6-1934); Viết sách xuất bản sách, số 101 (8-6-1934); Trẻ già, số 106 (13-7-1934); Âu hóa dân quê-Quan niệm mới, số 107 (20-7-1934); Quan niệm mới, số 108 (26-7-1934); Tủ sách gia đình, số 110 (10-8-1934) và số 111 (17-8-1934); Các ông nhà giầu, số 112 (24-8-1934); Đốt mã là sự giả dối, số 114 (7-9-1934); Trai gái bằng quyền, số 116 (21-9-1934) ; Văn bác học và văn bình dân, số 118 (5-10-1934); Sách khảo cứu, tủ sách gia đình, số 119 (12-10-1934); Thuyết "Trung Dung" của ông nghị Nguyễn Công Tiễu, số 120 (19-10-1934).

[7] Nhị Linh, Đốt mã là một sự giả dối, Phong Hóa số 114, 7-9-1934.

[8] Nhị Linh, Quyền công dân, Phong Hóa số 90, 23-3-1934.

Comments are closed.