· Tiểu sử
Sinh tại Việt Nam năm 1975 và định cư tại Hoa Kỳ năm 1994. Tại CSU Fullerton, cô tốt nghiệp bốn Cử nhân một lúc trong ngành Tâm lý Thanh thiếu niên, Văn chương, Sắc tộc học Á Mỹ, và Nhân văn đa khoa, và được chọn là Thủ khoa trong cả hai ngành học sau, năm 2001. Cô đã hoàn tất cao học ngành Lịch sử Truyền khẩu và Cộng đồng, cũng tại CSUF.
Tác phẩm đã in: Tuyển tập thơ: nếu Mẹ thích – if you like, Mom 2001 (thơ song ngữ Anh Việt, với bản dịch 13 thứ tiếng khác), cút bắt 2002 (thơ cảm nghiệm), of things i’ve seen – những điều trông thấy 2004 (thơ song ngữ Anh Việt), X-X1: songs for a boat father – thuyền nhân khúc cho Ba 2004 (thơ song ngữ Anh Việt), MÙA YÊU CON Thứ Nhất (tuyển tập thơ), Thơ Bốn Mươi (tuyển tập thơ).
Nhà thơ Lê Thị Huệ nhận định: “Chữ nghĩa cẩn trọng chọn lọc và các trục ý thức như là một trí tuệ phiêu lưu, Trangđài Glassey-Trầnguyễn là một phiêu lưu sáng tạo với văn chương Việt đầy hứa hẹn vì tính chất độc lập và bản lĩnh chọn lựa của cô.”
Tiến sĩ Grace Hartman Sawicki: “Với sự đa dạng của nó, giọng thơ của cô khi trầm khi bổng, chúc tụng lòng can đảm mà cô trân quý trong quan hệ mẫu tử.”
Trangđài Glassey Trầnguyễn thuộc thế hệ những người viết mới và trẻ ở hải ngoại, làm chủ được tiếng Việt và tiếng Anh trong sáng tác, như vậy là một nhà thơ của hai ngôn ngữ. Khởi đầu với những bài thơ tương đối cổ điển, tương ứng với đề tài như tình mẫu tử, tình yêu, ngày càng mở rộng sự quan tâm sang các lãnh vực khác, quê hương, xã hội, những vấn đề của lương tâm. Gây ấn tượng mạnh trong thơ của cô là phong cách sử dụng ngôn ngữ và sự thăng bằng đi giữa các xung đột lịch sử. Có một sự nồng nhiệt không những trong thơ trữ tình mà cả trong các bài thơ tự sự và hiện thực. Đằng sau bài thơ có cái bóng của những thao thức của nhiều thế hệ người Việt mất quê hương. Thơ viết về nhiều đề tài, dễ hiểu, nhưng không thuần túy là một loại thơ để chuyển tải các ý tưởng, và trong vài trường hợp đậm đặc, đã thấy ánh lên sự tài hoa ngôn ngữ. Ở giữa những quan tâm thời thế, những câu thơ mới nhất của cô chứa đựng những cố gắng thể nghiệm nghệ thuật đáng quý.
Văn Việt trân trọng giới thiệu:
· Tác phẩm
1. nếu Mẹ thích…
2. cút bắt
3. nhỏ
4. Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
5. Con là quê hương của mẹ
6. Iệt Nam
7. tiềm thức ngược
8. xổ số
9. đô hộ âm đạo
10. áo dài Hoa Xuyên Tuyết
NẾU MẸ THÍCH …
(Trích từ tuyển tập thơ đa ngữ “nếu Mẹ thích…” 2002)
nếu Mẹ thích, con sẽ là chim sẻ
hát Mẹ nghe mỗi buổi gió xuân về
và cất cánh bay vào trời lộng gió
hái một cành mây trắng cho Mẹ, nghe!
nếu Mẹ thích, con sẽ là hoa nhỏ
mọc vô tư bên lối bước của Người
nâng bước Người những lúc chân âu lo
và âu yếm mỗi khi chân buồn tủi
nếu Mẹ thích, con sẽ là con suối
róc rách hoài cho Mẹ được vui tai
suối sẽ giữ cho mùa hè mát mẻ
tròn mùa thu đón lá thắm nhẹ bay
nếu Mẹ thích, con sẽ là tất cả
biển rạt rào, trời tinh tú long lanh
để bất cứ lúc nào Mẹ quỵ ngã
con sẽ là vũ trụ ấm bao quanh
CÚT BẮT
(Trích từ tuyển tập thơ cảm nghiệm “cút bắt…” 2002)
Chúa bao lần khổ vì con
cứ chơi cút bắt, kiếm mòn cả hơi
khi thì bay tuốt lên trời
nấp trong áo Chúa, nghỉ ngơi an lòng
khi thì ra tận bờ đông
dõi theo Ngài, vết chân không miệt mài
khi thì làm ánh nắng mai
gọi bình minh tới cho ngày đẹp tươi
khi thì lẩn giữa hoa cười
điểm tô nhà Chúa, hương ngời Thánh nhan
khi thì làm con dã tràng
ngày ngày xe cát, âm vang lời cầu
khi thì con mến lá dâu
nằm trong kén mỏng, chờ sâu hóa tằm
có khi con hóa hương trầm
bay lên tới Chúa, âm thầm tạ ơn
lắm khi là gió rập rờn
đùa ngàn cỏ nội, hoa mơn nhu mì
có lần con phải đi thi
làm cô trò nhỏ kiên trì Chúa ơi
rồi thì con hóa mây trời
trôi trong tay Chúa, mưa rơi chan hòa
khi con là một bài ca
vui lòng kẻ khó, giải hòa bất an
cho con, lạy Chúa, là than
sưởi người lữ thứ dặm ngàn còn xa
cho con là một mái nhà
làm nơi riêng dấu ái Cha trọn đời
con nay thuyền nhỏ giữa khơi
bập bềnh trên sóng, vang lời cậy trông
cho con làm một đóa hồng
ngàn đời nhân thế theo lòng mến yêu
cho con làm một cánh diều
bay cao gieo rắc thật nhiều yêu thương
cho con làm một con đường
lối mòn hoa cỏ đẫm sương thanh bình
cho con yêu Chúa chí tình
để trong mắt Chúa có hình bóng con
NHỎ
Tặng cô bé bán vé số ở quán chè Gò Công
(Trích từ tập thơ song ngữ “những điều trông thấy – of things i’ve seen,” 2004)
thật nhỏ
một bàn tay
xòe ra tờ vé số
không lời mời rao, em giương đôi mắt
đợi chờ gì, vận rủi hay cơ may?
tôi ngắm bàn tay em
lại ngắm mắt em
sao nhỏ quá!
bàn tay em thật nhỏ
chưa bằng phân nửa bàn tay tôi
ngây thơ sinh đôi
trong đôi mắt em trong một dòng sông phẳng lặng
không ưu buồn của cuộc đời hay phiền não của thời gian
nhưng
cuộc đời em là khốn khổ gian nan
quét tuổi thơ trên vệ đường xó chợ
em đã vô tư cho cuộc đời vay nợ
trong tuổi ban mai khi nắng chửa ửng vàng
con người dối gian
vay tuổi thơ của em nhưng không trả lời trả vốn
họ chạy trốn
với đói nghèo
khắc nghiệt
vô vọng
gian ngoa
họ cướp trên tay em tuổi trong trắng ngọc ngà
và trả lại em đám bụi mờ vô thức
hỡi em, nạn nhân của cùng cực
đừng để tôi nhỏ lệ khóc vì em
hãy nói với tôi rằng em vẫn biết thèm
nụ cười
tiếng hát
tình thương
sự âu yếm
nói với tôi rằng em vẫn là em
là trẻ thơ, biết khóc, biết vui buồn
để giọt nước mắt trong cổ tim tôi không mắc nghẹn
BA CHẲNG BAO GIỜ MUỐN KỂ VỚI CON
(Trích từ tuyển tập song ngữ ““thuyền nhân khúc cho Ba – songs for a Boat Father,” 2004)
khi gia đình mình đoàn tụ trên xứ sở tự do
mười lăm năm cách biệt
Ba muốn chúng con hạnh phúc và có một tương lai, nên…
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
những ngày lênh đênh trên biển đen vô định
sóng cứ gầm
đêm u mãi, và đen
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
cái nhục nhằn, đứt khúc của trại tị nạn
khi tàu cập bến
người ta nhìn mình ghẻ lạnh, rẻ khinh chê
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
cái xót xa phải bỏ nhà bỏ nước
bỏ vợ bỏ con
bỏ làng quê, mồ cha mả tổ
nghe tiếng trẻ cười, lòng đứt đoạn nhớ con thơ
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
cái rợn rùng của lần suýt đắm tàu, hải tặc Thái Lan cướp, giết
sợi dây thừng to bằng một ôm tay bỗng nhiên đứt
nên tàu cướp biển đi rồi, thuyền nhỏ lại được lênh đênh
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
mùa đông đầu tiên ở Chicago đã lạnh đến thế nào
nên Ba phải dọn về Cali tìm hương nắng ấm
làm ba việc một ngày để bảo lãnh Mẹ, tụi con
Ba chẳng bao giờ muốn kể với con
cái đốn mạt của trại cải tạo
cái nghiệt ngã của những bài giảng rỗng, điên
cái đói đến tê thần kinh, cái lao lực nát phổi
cái bất công mà Ba không bao giờ hiểu nổi
những tháng năm Ba bị giết nửa cuộc đời
nhưng Ba ơi, con cần Ba kể với con
những đau, ngọt, bùi, xót, đắng, mong, hụt hẫng
những gai chông của một đời sôi bỏng
quần quật vì mạng sống, túng quẫn tự do
kể cho con đi, để con được biết, hiểu Ba hơn,
để phần tuổi thơ mà đời con không có Ba được nhận diện
để con thấy vận mình trong vận nước
để con vẫn chủ hòa, nhưng quyết liệt hơn cho quyền sống của nhân sinh
kể cho con, để con lớn thành người
tự hào có Ba, ngẩng đầu cao, góp đời cùng thế giới
CON LÀ QUÊ HƯƠNG CỦA MẸ
(Trích từ tuyển tập thơ “MÙA YÊU CON Thứ nhất,” 2012)
Dấu Yêu ơi,
Con yêu dấu yêu ơi!
mỗi bập bẹ
khuyến thiện vách tường
mân mê ngày tháng cũ
con ô a
đàn trẻ lớp vỡ lòng
lay trường làng thức dậy trước hừng đông
mắt nheo nheo, nháy nháy, gieo tình
thắt thỏm sông rạch
xao xuyến gió hè
ruộng xa
bàn tay mềm như gió trời mới nở
xoa vào nghìn giấc ngủ của hôm qua
bùn non
mẫn mịn
tan giòn
tiếng cười thấm vào không gian
xe chỉ vấn vương
luồn tơ lưu luyến
mẹ nhớ mình cười vài thập niên trước
và một quê hương lẽo đẽo đi cày [i]
ôi, Dấu Yêu, con hít vào khoảng trống [ii]
xả hồng trần, muôn lượng kiếp trước, sau
trống như nắng, như đêm chưa kịp ngủ
rỗng như trời, như ống trúc, mo cau
ôi, Yêu Dấu, con thở ra trăm cõi
xõa quê hương trên vũng nhớ đơn côi
mùi mía thơm trong nắng Tết trắng vôi [iii]
mùa tảo mộ nửa con trăng Nguyên Đán
con đã đến, quê hương thôi lẻ bóng
quê-hương-con [iv] bòng bọng nước tao phùng
[i] Tôi sinh sau cuộc chiến Việt Nam. Khi tôi còn ấu thơ, thì tiếng cười vô tư của tôi quấn quýt bên những chiếc cày gỗ do trâu kéo trên những thửa ruộng loáng phèn. Cả quê hương tôi lẽo đẽo đi cày trong giai đoạn đó và về sau.
[ii] Triết gia Kim Định cho rằng cái khoảng trống trong trống đồng chính là cốt lõi của triết Việt: “…triết lý tâm linh lấy việc xả làm bước nhập môn… Riêng Việt thì xây trên chữ Trống… nhấn mạnh đến sự trống rỗng của tâm hồn làm nền móng” (tr. 42, Phong Thái An Vi, tác giả Kim Định, An Việt Houston xuất bản). Con hít vào khoảng trống, là hít vào cái tinh hoa cốt lõi của an vi.
[iii] Ở miền quê Tây Nam Bộ vào các thập niên sau 1975, người dân làng nghèo, chỉ dùng vôi trắng để sơn phết lại mộ bia, đa số là mộ đất, hay nhà cửa, trong dịp cuối năm, vừa tảo mộ, vừa chuẩn bị đón Tết. Có lẽ gần bốn thập niên sau, vẫn còn người chỉ có đủ tiền để mua vôi phết trên những nấm mộ nghèo mỗi lần đón Tết.
[iv] Con và quê hương, đối với một người mẹ Việt Nam xa quê, đã nên một. Con là tất cả những hy vọng và tình thương mà mẹ muốn trao cho quê hương, và chính quê hương lại là di sản thiêng liêng nhất mẹ muốn trao cho con. Chính trong con, mẹ đã tìm lại quê hương khi mẹ trao quê hương cho con mỗi ngày trong cúc cục cù lao. Con, quê hương, và mẹ cùng lớn lên trong một sự sống mới, gặp nhau trên một sinh lộ mới. Tôi dùng chữ “nước” ở đây với nhiều ngụ ý. Nước, cũng chính là quê hương. Nhưng nước cũng hàm ý nước ối, mạch nước nuôi dưỡng thai nhi trong thời gian chín tháng mười ngày. Bòng bọng nước chỉ một sự hướng tới, một sự háo hức mong đợi nguồn sống mới trong một con người, hay trên một quê hương.
IỆT NAM
(Trích từ tuyển tập “Thơ Bốn Mươi,” 2014)
tám cái quặng dầu
ông A đổi lấy ba tỉ bạc
chỉ cần vẽ một con giun
thành tích cách mạng là then chốt
bốn bãi biển đẹp
ông B nhập ngoại tệ phòng thân
tem hem tình đồng chí
hú hí với đào tơ
chín mạch thủy long
bà C ký hợp đồng thương mại
chận đứng mạch sống mấy triệu người
con bà mua đứt mấy biệt thự ở hải ngoại
an tâm!
hải đảo ngoài khơi
tập đoàn D đem biếu đàn anh liềm-búa
dân biểu tình, đòi toàn vẹn lãnh thổ
búa và liềm báng bổ đầu dân
đất của dân
hợp tác xã E canh tác
ba mùa công[i], bốn mùa đói
thóc gạo có chân, chạy hết đi xuất khẩu
hoan hô!
người ta bày cuộc chơi
mọi lúc
mọi nơi
dọc dài đất nước
những cuộc chơi
của kẻ mất trí
lao vào vạt vô tâm
bừng bừng cháy
thiên kỷ mới
trẻ con học quốc ngữ
ầm ĩ những cuộc chơi:
A ẵm trọn
B bán nước
C cướp của
D dân oan
E eo xèo ruộng đất
tới S, hình cong Tổ quốc
thì mọi thứ đã Super Sụp
nên trẻ con Việt Nam
mù chữ
vì đã mất tổ quốc
mất luôn sáu chữ cái
xếp mãi không đủ vần
hai chữ:
suy tư
đã bị gạch chéo x [ii]
ôi, đau đớn, Iệt Nam!
[i] Ở Việt Nam đã có nhiều nơi, nông dân làm đến ba vụ lúa mỗi năm từ nhiều năm qua. Nhưng dù họ có tăng thêm một mùa canh tác, thì họ vẫn đói ròng quanh năm.
[ii] Sau chữ S trong bảng chữ cái tiếng Việt, là t, u, ư, v, x, y. Khi chữ S sụp (vì đất nước bị chia năm xẻ bảy, chỗ bán cho ngoại quốc, chỗ cho thuê dài hạn, chỗ dâng cho ngoại bang), thì mất nước (chữ V, Việt Nam) và mất khả năng suy tư (do các chữ còn lại ghép thành). Việt Nam và khả năng suy tư của cả một đất nước đã bị gạch chéo, loại bỏ, bởi những hành động vô trách nhiệm của chính quyền.
TIỀM THỨC NGƯỢC
(Trích từ tuyển tập “Thơ Bốn Mươi,” 2014)
mẹ đạp xe đòn gánh
của ông Cố
chở hai con trên đường lầy lụa tiềm thức
khúc khích ổ gà
gió ngược
bốn bàn tay mềm ôm lấy eo mẹ
bốn bàn tay còn thơm sữa mẹ
hai anh em dính sát vào nhau
úp mặt vào lưng mẹ
mẹ nhổm người lên lấy sức mà đạp
xe cứ tròng trành một chỗ không đi
hai bánh xe trợn mắt nhìn nhau
như hồi nhỏ
mẹ đạp chiếc xe này
mong đi cho mau tới nhà
con gái mà đi xe đòn gánh
thiếu nữ tính
thừa hụt chân
cái xe đòn gánh
Ông Cố vẫn đạp
tháng mấy lần
xuống thăm Bà Ngoại và năm chị em của mẹ
đem theo cá tươi, rau vườn, gạo mới
lúc Ông Ngoại đi cải tạo
đi vượt biên
hao hút ngọn đèn dầu
leo lét phòng đơn
gió chướng bạt qua đầu
rít lên từng cơn
những cánh đồng hoa vạn thọ chập chờn bung nở, tung hương
Tết!
gió khô khét
đêm hổn hển
ba mẹ con trẹo mình lướt tới
mẹ thiếu ngủ, thừa cân
mất sức
tiếng con khóc
như đoá loa kèn
trắng mở muốt dài
bắn ra trong gió
gió dịu đi
mẹ tỉnh giấc
đêm thu
rớt những giọt trời
trong vắt như trăng
mẹ múc từng muỗng thời gian
mớm cho tiềm thức sơ sinh
mãi bú mớm
những đớn đau đứt đoạn
đã qua và đang tới
oe oe bức tường rêu mịn
còn long lanh ướt trận mưa hè hoa niên
mẹ thấy bóng các con thấp thoáng trong những giọt nước
đọng lại trên mái tóc trẻ thơ
đang súng sính cầu vồng nhiệt đới
bốn bàn tay khẽ khàng nhún nhảy
gọi chiền chiện về lúng liếng ngọn tre
cái võng xanh ngút ngàn tầm mắt
cánh đồng chiều
u ưở nằm nghe
XỔ SỐ
(Trích từ tuyển tập “Thơ Bốn Mươi,” 2014)
a, b, c, d, e, f, g, h, vài là người cùng quê
họ giống nhau ở mọi điểm (hầu như vậy)
ngoại trừ cái vé trong đợt xổ số
để đổi lòng trung thành đối với một quốc gia
– Xin vui lòng giữ chặt vé số của quý vị!
a được ‘an-nhiên-nhập’
nhờ quan hệ
đã từng làm việc cho đồng minh
định cư với công ích xã hội
không một câu tra hỏi
b được ‘bà con thân thích’
nhờ gia đình đoàn tụ
ưu tiên gia đình hai thế hệ
định cư với quan hệ gia đình thắt chặt, hay giả mặt
c được ‘cộng tác’
nhờ xuất khẩu lao động
nhân công khỏe và rẻ
18 đến 35 tuổi, không gia đình, cấm thai nghén, không sống, không quyền, không nghỉ
tất cả nhân danh tình hữu nghị chủ nghĩa xã hội
d được ‘diện đặc biệt’
nhờ tỵ nạn chính trị
những nhân vật bất đồng chính kiến, những nhân tuyển thích hợp
cho một nền dân chủ, tự do, hay liên hiệp
tại sao lại chỉ chú trọng đến tỵ nạn chính trị?
như thể người ta không chế vì bất đồng trong những lãnh vực khác
như kinh tế, nghệ thuật, giới tính, tư duy, và văn hóa
bị đàn áp là bị đàn áp, tại sao chỉ một nhóm được đãi ngộ?
f được ‘phong vợ ngoại’
nhờ thị trường buôn bán cô dâu
xếp hàng, lựa chọn, đổi chác, như con vật
một cô dâu đã mua là một cô dâu thuộc chủ quyền để nhảy đực
và một cô vợ ngoại thì không quyền, không tiếng nói, không nhân phẩm, không may mắn
cô sẽ mang cái kiếp này cho đến khi bị xô đi tự tử
g được ‘gái gọi’
nhờ đường dây buôn dâm, khu nhà chứa
“những đứa con gái đẹp trong xã đã xuất ngoại”
để lại bạn trai, chồng, cha mẹ, tình nhân
trong đêm đen
khi họ phải giao cấu với đêm đen mới mà họ vừa kẹt vào
đang ở xa nhà
h được ‘hy vọng tại chỗ’
nhờ chờ đợi, mong mỏi, hối lộ, tiếp tục kẹt
tìm một lối ra, lọt trong vô vọng
người ở nhà, hồn nơi khác,
họ lễnh khễnh như những cái chai rỗng phất phơ trong bão cát
i được ‘im và chết’
nhờ an ninh quốc gia, bảo vệ biên giới, tinh khiết sắc tộc, ổn định kinh tế
và hàng chục vạn những lý do khác
họ vượt sa mạc, họ nhét vào cốp xe, họ lê lết qua rừng rậm
họ đi khi sống, về đã chết
hay vĩnh viễn mất tích dọc đường
bị hãm hiếp, bị cướp bóc, bị nguy kịch
trong tay của giới xây dựng quốc gia, trong tròng của bọn buôn người đầu rắn
vận may của cuộc xổ số, không có lý luận,
hãy tìm chỗ tốt cho mình trước khi việc giao chuyển bị dừng,
hỡi những con dân của Thế Giới Thứ Ba đang xô nhau để xuất ngoại,
đối với những người còn lại, cơ hội đã không còn
hết xổ số
cho tới khi quý vị đầu thai
[hay có thể sau đó]
ĐÔ-HỘ-ÂM-ĐẠO
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
(Trích từ Tuyển tập “Thơ Bốn Mươi,” 2014)
chém cha cái kiếp dâm nô
đã đau đô hộ, xuống mồ càng đau
ai bảo chế độ thực dân chấm dứt
khi Pháp rút khỏi Việt Nam 1954?
nếu bạn Google Search, hôm nay, 2013
tìm “lịch sử nhân linh Việt”
bạn sẽ thấy
đường Trường Sơn
là ngõ tắt gần nhất
tới đường âm-đạo-bị-đô-hộ
thuộc địa của chế độ “đô hộ trắng”
tên gọi hết sức nhẹ nhàng: “white slavery”
trắng nỗi gì?
nó đen đặc!
khi những con cặc của bọn mua dâm toàn cầu
chen nhau lao vào
xé rách âm hộ
hùn hục
cày xới
giày xéo
giẫm nát
âm đạo nôn thốc tháo
âm đạo chết ngất
âm đạo túa máu
âm đạo ung thư
âm đạo đau lòng
công nghệ mua dâm
đã vạc hết nạc ở Đông Âu, ở Thái, ở Phi,
và ở tất tần tật những “đệ tam quốc gia”
và đây, Việt Nam, miền đất mới
độc lập, tự do, hạnh phúc!
tự do khủng,
rất hoàn cảnh,
nên bạn có thể vô tư lấy trinh của một đứa bé lên ba
(để mua vui, hay xã xui như vị Đảng viên cấp cao kia)
có thể cưới bốn (hoặc nhiều hơn) cô vợ còn trinh ở tuổi vị thành niên cùng một lúc
và có thể thản nhiên hiếp dâm hàng loạt nữ sinh trung học
mà vẫn nghênh nghênh giữ chức Hiệu Trưởng
đô hộ từ ngoài
đô hộ từ trong
cái âm đạo của phụ nữ Việt
trong thiên niên kỷ thứ ba
là nơi gánh chịu nhiều oan khiên đàn áp khổ nhục nhất
trong cả lịch sử cộng lại
cái nắng thực dân đổ dài trên âm đạo
thấm vào từng thớ thịt
đốt rụi đường về
Thúy Kiều của Nguyễn Du được hóa kiếp
nhưng Thúy Kiều ở ngoài đời thì vẫn còn lênh đênh
truyền kiếp lầu xanh
Ngô Tất Tố đưa Chị Dậu
trốn chạy con quỷ râu xanh
chống cự cái tham dâm của quan anh, quan cụ
mà cả một thế kỷ sau
Chị Dậu vẫn còn chạy
chạy đi khắp thế giới
tiền đồ vẫn tối đen
không phải mãi đến thế kỷ 21
mới có gái quê ra tỉnh đi làm nuôi gia đình
người ta gọi “đô thị hóa” nông thôn
Chị Dậu (và có lẽ nhiều cô gái quê trước cả Chị nữa)
đã đứt ruột bỏ quê, bỏ con, bỏ chồng, bỏ nhà lên tỉnh
đi ở, làm vú sữa cho quan cụ 80 thừa tiền, chuộng uống sữa người,
ngại uống sữa bò, sợ nóng
cụ chuộng luôn đôi ngực đang đau nhói của người đàn bà con mọn
xót con thơ
cái tiền đồ tối đen như mực của Chị Dậu
truyền đời
truyền kiếp
truyền lại đến hôm nay
mà vẫn tối đen như mực!
lính Mỹ đổ bộ lên âm đạo
lập những quán trắng da
phát triển ‘nền kinh tế về đêm’
âm đạo chèn giữa súng và đạn
từ trên đe dưới búa của phong kiến và đô hộ
đến dưới búa trên đe của Đảng và áp lực hiện đại hóa
đô hộ âm đạo
đó là cách giết chết một dân tộc nhanh nhất
một cách bỉ nhục nhất
một cách rốt ráo nhất
trên đe
dưới búa
âm đạo Việt Nam 2013
nát như tương
lưu lạc tứ phương
lầu xanh khắp cõi
ngay cả ở những quốc gia nghèo nhất thế giới
cũng có âm đạo Việt Nam bị đưa đến
và bị đô hộ
những đứa bé gái lên năm, lên bảy
khi được cứu ra khỏi nhà chứa
đã dùng gòn và thuốc đỏ chà nát cơ thể mình
hết ngày này sang ngày khác
để tẩy uế
thuốc đỏ cùng màu với máu
chỗ nào là máu đổ, chỗ nào không?
những đứa bé chưa kịp tuổi đến trường
bị công an Cambốt bắt giam khi soát nhà chứa
và bị tòa án Cambốt kết án là nhập cư trái phép
ôi, mỉa mai!
chẳng lẽ những đứa trẻ này tự dắt mình
từ một miền quê hẻo lánh nào đó ở Việt Nam
để vượt biên giới sang nhà chứa ở Cambốt hay sao?
hay tại ông quan tòa mù mắt và mù lương tâm?
Việt Nam đã từng bị đô hộ
bởi láng giềng phương Bắc
bởi mẫu quốc Phú Lãng Sa
nhưng mỗi lần là một quốc gia
bây giờ
Việt Nam bị đô hộ
bởi cả thế giới
và tự đô hộ mình
đô hộ ở ngay cái nơi tế nhị nhất,
riêng tư nhất,
cái nơi thiêng liêng nhất
để đón nhận yêu thương
để hòa hợp âm dương
để đưa con vào đời
để duy trì sự sống
nơi ấy bây giờ
đã thành cánh đồng chết
đã thành cửa tử
đã thành bãi tha ma
đã bị đô hộ bởi những hạng người tồi tệ nhất
từ khắp nơi đổ về
và ở khắp nơi mà người phụ nữ Việt bị đưa đến
bị bán
bị nô lệ hóa
bị chôn sống từng ngày mấy chục lượt
bị biến mất mà không có ai đi tìm
ai có thể đếm được
bao nhiêu triệu cái màng trinh
đã bị chọc thủng trong tức tưởi
– với một cái giá rẻ mạt
để trả tiền thuốc cho mẹ, tiền cơm cho cha, tiền học cho em?
mà cuối cùng vẫn không thoát ra được cái ngõ cụt mang tên “bần cùng”
– hay không cả một xu
khi kẻ cưỡng trinh có búa liềm và cờ đỏ?
và những hứa hẹn không cần thực hiện…
trong những cái phòng lạnh bị cấm khẩu…
vì cái mạng nhện dày kệch
đói nghèo, tiền kiếp đô hộ, hiện kiếp dâm nô
tham nhũng, bóc lột, những chính sách ngu dốt sai lệch
cái cán cân lệch giữa nước đang (chưa) phát triển và những nước công nghiệp
sự bần cùng hóa nữ giới trên toàn cầu từ thời con người săn bắn và thu nhặt
vân vân và vân vân
cố đấm ăn xôi
xôi bị cúp
cầm bằng làm điếm
điếm không lương
quê-hương-âm-đạo
tràn đô hộ
biết đến bao giờ
tỏa được cương?
kẻ đô hộ chỉ có thể đô hộ
khi kẻ bị đô hộ chịu để bị đô hộ
hãy xoá sổ đô hộ
chặt đứt lối mòn của suy nghĩ nhược tiểu
dẹp những kềm hãm của nhịn chịu bất công
đứng lên phá đổ thành trì đô hộ
đưa ù lì trì trệ vào gông
đã đến lúc những âm đạo vùng lên!
ÁO DÀI HOA XUYÊN TUYẾT
(Trích từ Tuyển tập “Thơ Bốn Mươi,” 2014)
kết duyên hai nền văn hóa quê em và quê anh
em tung hoa tuyết lên bầu trời
của chiếc áo dài Việt Nam
đan đỉnh núi Apls vời vợi
với thềm đồng bằng Cửu Long trũng phù sa
trồng tre xanh
trên đỉnh núi non trùm tuyết
bò núi Valais và trâu nước Gò Công
trỗi dậy từ lòng đất,
cheese chuối vườn
đã thẩm thấu mùi hương của đồng lúa mênh mông,
không gian giòn trong của ngọn Matterhorn quyện hòa vào những sợi nắng ấm
của miền quê Việt Nam –
hai thế giới giao hợp, keo sơn máu thịt
hãy cho em bước đi giữa thực tế song hành
với một thực thể chạm vào một đặc tính ý vị khác
biết tinh tường vị nước mắm thơm lựng
tập tành yêu món cheese nấu fondue
nhưng trên tất cả, hãy cho em tung tăng
giữa hàng rào của một vườn nho
và con kênh của một dòng sông nước mặn
để cho em hít thở
cái vô cùng của đồng bằng bát ngát
giữa vách núi bao bọc thẳng đứng
hãy để cho em
vẫy vùng trong sóng nước
nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương
để cho em nếm triền đất
duỗi ra từ cõi Đông ôm vòng quanh thế giới
cho em được nghe lần nữa
âm điệu tuổi thơ
nấp trong những mảnh ngói đá
trên những nóc nhà Valais
để cho em rộn ràng
với câu chuyện của hàng vạn mục đồng
đang trông cừu trên những ngọn đồi Thụy Sĩ râm mát
chợt nghe âm ba của dòng suối Việt từ xa
và hãy để cho chiếc áo dài Hoa Xuyên Tuyết của em
trãi ra trên những thành phố của ước mơ
đong đưa trên triền sóng hy vọng
lướt trên cánh vai an vi
và sống trong trái tim của thanh xuân hàng thế kỷ.