Bốn mươi năm thơ Việt hải ngoại (46): Đỗ Quyên

 

clip_image002[4]

 

Tiểu sử:

Tên thật: Ðỗ Ngọc Thủy.

Sinh tại Hà Nội (1955); Định cư tại Canada (1996).

Tốt nghiệp (1977) và giảng dạy (1977-1988) ngành Vật lý hạt nhân, Ðại học Bách khoa Hà Nội; Cộng tác viên khoa học của Viện Dubna, Nga (1988-1990); Làm báo ở Ðức (1990-1996), ở Úc (2004-2008); ở Canada (1996-2010); Học bổng khoa học nhân văn Rockefeller 2001-2002, Trung tâm William Joiner, Mỹ.

Sáng tác chính: thơ, tiểu luận, truyện, phỏng vấn, tiểu thuyết.

Tác phẩm đã xuất bản:

“Nhìn cây thấy rừng”; Phỏng vấn, NXB Văn Nghệ, California 1997

“Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000”; (In chung) Văn Mới, Los Angeles 2000

“26 Nhà thơ Việt Nam đương đại”; Tuyển tập thơ (In chung) Tân Thư, California 2002

“Một thời để nhớ”; Tuyển tập thơ (In chung) Người Việt Hải Ngoại, Vancouver 2006

“Thơ kể – Poetry Narrates”; Tuyển tập thơ (In chung) Lao Động, Hà Nội 2010 và Tân hình thức, California 2010

Lòng hải lý; Trường ca, NXB Hội Nhà Văn, Công ty Hà Thế, 2011

Trung Việt Việt Trung; Tiểu thuyết thời sự, Người Việt Books, California 2016

 

***

Thơ Đỗ Quyên băn khoăn giữa trần tục và vô nhiễm.

Một trong những nhà thơ có khuynh hướng hậu hiện đại sớm trong tiếng Việt. Từ Lòng Hải Lý đến Buồn Muộn Cùng Thế Kỷ, từ Đống Chữ đến Bài Thơ Không Thuộc Về Ai, từ trường ca đến tiểu thuyết, nhiều chủ đề, một phong cách.

Đó là nhà thơ lưu vong cả về ngôn ngữ lẫn niềm tin, thường xuyên ám ảnh bởi hoặc đối diện với lẽ sống, lẽ chết, ra đi và trở lại, nổi loạn và tuân phục, sợ hãi và phản kháng, ở giữa miên man nhiều lời nhiều ý, đôi khi che khuất cả những hình ảnh đẹp vừa lóe lên đâu đó, không kịp đào sâu chúng, những trầm ngâm bóng ảnh nguồn cội.

Xung đột trong thơ Đỗ Quyên là xung đột tiểu thuyết, giữa con người và hoàn cảnh. Vì thế anh thích hợp với trường ca hơn thơ ngắn. Thơ anh là ký ức cô đơn, không hẳn vì anh là người xa xứ, mà có lẽ vì căn cốt của thơ là tiếng nói lẻ loi. Có lẽ giữa các nhà thơ hiện nay, anh cô đơn nhất, bên lề sự thấu hiểu. Anh chạm tới, có khi thành công, có khi không, những giới hạn, tìm cách thoát khỏi cái bình thường. Mặc dù đề cập đến nhiều đề tài, không hề tránh mô tả các vấn đề chính trị, chiến tranh, anh vẫn, như một phương pháp nghệ thuật, và dường như vô thức, đứng ngoài những xung đột ấy. Đó là một hạn chế thi pháp, của nội dung như một hình thức nghệ thuật.

Đọc Đỗ Quyên, thấy rõ thơ là ngôn ngữ. Trường ca của anh là một ngôn ngữ triển nở, lấy cái biểu đạt làm linh hồn. Điều xung khắc là trong khi tuân thủ chặt chẽ tinh thần hậu hiện đại, và tạo dựng một thế giới của chữ, đống chữ, thì anh vẫn đa mang sầu hận lạc loài dăm bảy đứa, nỗi niềm lưu vong. Trong khi chủ nghĩa hiện đại khắc họa các tính cách rõ ràng, thơ dù đau khổ vẫn hướng tới cái tốt đẹp, thì những nhà thơ như Đỗ Quyên đi ngược lại, xóa mờ đường nét, bắt chéo câu chuyện, thêm thắt lịch sử, chú thích những giọt lệ.

 

Làm thơ khác bổ củi: Tản Đà không chắc đúng!

Ngay anh đây làm thơ có những trận toát mồ hôi mông

Em ơi

Đó chính là những trang bài em từng đẫm lệ

 

Thơ như thế, khó đem ngâm ngợi cho người yêu. Nhưng trường ca Đỗ Quyên mô phỏng một thế giới không đặc trưng, không có cốt tủy, thậm chí không cả trung tâm không ngoại biên. Thơ ấy không dùng được vào việc gì có ích, nhưng bỏ qua không được. Cũng như chính đời sống, với tất cả tản mạn, vụn vặt, bất định, chung chạ. Tuy nhiên, nhược điểm của anh là không đi đến tận cùng quan điểm phi lý. Sự đau đớn vẫn có thật, số phận hiện ra rõ ràng. Đây là điểm hạn chế chung của những tác giả Việt Nam có khuynh hướng hậu hiện đại hiện nay.

Sự đóng góp thể loại của anh là đáng chú ý. Ở hải ngoại, anh là một trong những nhà thơ hiếm hoi lao vào thể thơ không người đọc này. Tuy nhiên, từ góc nhìn trong nước, đó là khuynh hướng nổi bật mấy mươi năm nay, và không có dấu hiện dừng lại, theo cả nghĩa tốt và nghĩa xấu. Giữa những người viết trường ca, Đỗ Quyên đi con đường riêng, lưu vong nhưng không tỵ nạn, phi chính thống nhưng không phản kháng, ngoại vi nhưng không sẵn sàng chiếm lĩnh trung tâm, đổi chỗ chúng cho nhau, siêu thực nhưng không quá xa hiện thực, vô sở cầu nhưng hoài bão tâm sự.

Thơ Đỗ Quyên là một quá trình. Như thế, nếu xem thơ là quá trình, không phải kết quả, viết một mạch không mấy khi sửa lại, thuận theo tự nhiên hỗn mang, thì thơ anh là sự tham dự vào đời sống một cách tích cực. Những hơi thơ dài, sự cường dưỡng, lấy lại quyền năng của chúng; và đó đây tạo ra ngôn ngữ đẹp, gây ấn tượng dai dẳng.

Nhưng thơ anh không có sự cứu chuộc. Trước bi kịch, thơ lầm lũi đi qua, chiếu ánh sáng của nó lên bề mặt lương tri thô ráp. Vì vậy một ngôn ngữ rườm rà và mềm mại, đôi khi trở nên dằn sốc, cứng, thách thức. Đó là hỗn hợp giàu có danh từ và thiếu hụt động từ. Ở thời điểm tệ hại nhất, thơ anh là sự lạc đường, trong khi ở nơi khác, bùng nổ phong cách.

Đọc thơ hôm nay cần một cuốn từ điển các chú thích. Điển tích mới, ký ức không được chọn lọc, những ngụ ý về xã hội và lịch sử rải rác với dung lượng lớn. Ngụ ý không phải là một giá trị nghệ thuật. Giữa những chương buồn rầu, thậm chí tuyệt vọng, một số ý tưởng lập đi lập lại đơn điệu, giữa những điều người khác đã biết rồi và anh vẫn cứ nói như không, phấn khích như không, có một điều gì đó lấp lánh, không chịu biến mất. Có lẽ là sự thật. Sự tưởng tượng là giàu có nhưng mô tả chi tiết của anh trong thể trường ca chưa tỉ mỉ như khi người ta kể một câu chuyện, nếu người đọc so sánh với những tác giả khác, ví dụ Du Tử Lê, Thanh Thảo, Mai Văn Phấn, Nguyễn Khoa Điềm, Cao Đông Khánh.

Tác giả không phải là người tin rằng việc theo đuổi các lý tưởng, như sự công bằng, chủ nghĩa nhân đạo là yếu tố cần thiết của thơ ca. Anh chống lại chúng. Tuy vậy đọc kỹ, vẫn thấy thâm sâu một người tự do quyết liệt. Những bài thơ ngắn mà anh trở lại những năm gần đây, là một thử nghiệm khác, không hoàn mãn. Tuy vậy, đó là những thí dụ Đông phương.

Đỗ Quyên quan tâm về, gần như bị ám ảnh bởi, nghệ thuật thơ ca. Anh đi tìm chúng, gần đến nơi, rồi bỏ đi, không kịp chia sẻ với ai, có lẽ quá tự tin hay mất tự tin. Một trong những bổn phận của thơ là ghi chép thời gian, là ký ức tập thể. Đối với thứ ghi chép ấy, chúng ta phải dựa vào người khác. Nhưng Đỗ Quyên ít dựa vào ai, một số cố gắng làm mới ngôn ngữ của anh dừng ở bề mặt. Đó là, tuy thế,  một người mới, một người thực nghiệm nhìn thấu suốt những đường biên của ngôn ngữ, và nhiều khi, chuẩn bị vượt qua.

Con đường anh đi rất dài, như thể thơ trường ca mà anh chọn, cường tráng, thất bại chen ngang hông thành công, phức tạp, đẹp và vô định.

 

Văn Việt trân trọng giới thiệu.

 

 

 

Trích TRƯỜNG CA SONG SINH

 

Khúc 14

HOÀNG CẦM CA

 

 

Lần Đầu Các Bài Thơ Đen

 

đã mất

sáng nay

nhà thơ mà anh thường đọc trong những đêm chờ em

 

ông không mang theo được

                  các bài thơ

tất nhiên

 

nhưng khi trái tim thi sĩ đa tình ấy thôi dồn máu

liệu các bài thơ còn sống được không

                               trong anh

 

nào xem

đêm nay lần đầu chờ em

anh đọc các bài thơ đen

 

 

Em Vẫn Chưa Về

 

tôi biết là em đi tìm

sang cõi Không

                         thi bá vừa rảo bước

 

Người muốn qua bên đó hẳn

em chưa biết

 

tôi sẽ cử một trung đội

các bài thơ hư thực nhất

            của Người

gọi tìm em

 

rồi chúng sẽ trụ lại

nơi đường biên hai cõi

 

 

Thi Nhân Hỡi Em Ơi

 

đè níu bàn tay trái tôi

câu thơ đêm qua dành chưa hạ xuống

bài thơ về sự ra đi của một thi nhân tài hoa

 

bàn tay phải tôi trĩu nặng

bài thơ cho em hôm nay đang thành

chờ câu cuối

 

tôi đan hai tay vào nhau

tất cả nhẹ bỗng

 

thi nhân hỡi

em ơi

 

 

Không Em

 

Chúng mình từng biết một thi sĩ buồn rụng bàn tay [1])

những tháng ngày bên nhau anh không để ý

trong vẹn toàn Tạo hóa

 

Không em

anh chiều nay

 

Đi tìm bàn tay thơ rụng

 

Trên trái đất

khắp nơi

 

Anh chỉ gặp

các hình nhân

                       không bàn tay

 

Anh Tìm

anh tìm ở bài thơ nổi danh Em có về không

Hoàng Cầm gửi Tuyết Khanh

không thấy em

 

ở nhiều bài khác nữa

gửi nhiều người khác nữa

của nhiều người khác nữa

mới thấy được

 

xác em­

 

* * *

 

Khúc 15

ĐỖ QUYÊN CA

 

Bông Hoa Mang Tên Tôi

 

Bông hoa mang tên tôi héo mặt bàn

 

Sẽ mãi đó

cho đến khi mặt bàn không còn trên mặt đất

 

Tôi ngắt bông hoa trong vườn chiều chia biệt

để trái đất bớt đi một cái đẹp

                    mang tên buồn

 

Và bàn viết của tôi được chôn cái đẹp

 

 

Đỗ Quyên Đỏ Máu

 

Cây đỗ quyên trước cửa nhà

tháng năm đợi

chưa bao giờ được vào thơ Đỗ Quyên

 

Màu đỏ máu

đêm như ngày

nhức nhối Đỗ Quyên

 

Tất cả các hoa trong vườn

hồng, mẫu đơn, tu líp… những cây trồng

cúc dại cùng những loài vô danh khác

đã hóa nên thơ của tác giả chủ nhà mang tên chim Đỗ Quyên

 

Đường thơ đã định từ đầu:

chim Đỗ Quyên – bài thơ sau chót

thì bài thơ áp chót sẽ là hoa Đỗ Quyên

 

Chờ đó

ơi màu máu

 

 

Về Màu Đỏ Của Hoa

 

Cái đỏ của hoa tôi mang tên đã không còn

Sáng nay

 cây xanh với lá

 

Những năm tới

tôi chờ được

– rất nhiều lần như thế và hơn thế

 

Nhưng thơ tôi

Đúng vậy

  thơ tôi

đang cần đỏ của cây hoa vừa tỏ

Ngày mai có thể không còn

hoặc nếu còn

         thơ sẽ khác

 

Màu đỏ của hoa tôi mang tên

quả thực không còn nữa –

Những cây đỗ quyên xanh

Những cây đỗ quyên lá

 

Này

Tôi cắt máu mình

Thơ đỏ một màu hoa

 

 

Một Khối Máu

 

một khối máu đọng góc đất góc trời

 

tàn mà không phai

hoa lâu rơi

ly hương nửa đời

buồn thơ tôi

 

đất nhức một trời nhức một

người nhức mười

ngày mai sẽ trả lại tên Đỗ Quyên cho đời

 

thân xác tôi về nguồn cội

máu hoa tan vào đất trời

 

 

* * *

 

 

Trích LÒNG HẢI LÝ

 

          “Hãy sống như

                            những con tàu

                                               phải lòng

                                                        muôn hải lý,

          Mỗi ngày

                      bỏ

                         sau lưng

                                  nghìn hải-cảng-mưa-buồn!”

                                                 (Trần Dần)

 

MỘT

 

Hôm nay

dương lịch

Mồng Năm tháng Năm

Mắt xen qua ba bông hồng sẽ không bao giờ nở được

Tôi ngồi

            lập danh sách các bạn văn có thể vay tiền

Lúc này

           em đừng về

Hồng thắm đấy

                   nhưng sẽ không bao giờ nở

Tháng Sáu lại đi

 

Em điện thoại về

Mặt trời bầm vết

Mây kéo chân bàn

Gió òa kẽ mắt

Và nắng giao tình với lũ bọ ngoài hiên

 

Một tiếng kêu trẻ nhỏ

                              gieo xuống

                                         có thể làm mỏ neo

Chiếc hôn khô bốn bể

                                đâu rồi những con tàu?

 

Luồng gió nóng không nguồn cơn

lật chân tay

xếp sắp lại đời

 

Các bức thư nhà liên mối

có khi là tiếng sét

                              giữa lòng sâu

 

Sao không uống hết đi niềm đau

trên đất bằng

                  tuổi thơ ấu nọ?

Xưa đã không trầm ướp mình

                                  giữa những hoan lạc muối

Để giờ mãi lênh đênh

 

Mẹ là gió

Tình chúng mình làm sóng

Thơ –

    trước mặt

    chân trời.

 

 

HAI

 

Những ngày mai không có

                                      chiều kích

như quá khứ chưa từng

Hom cửa thời gian không chiều trở lại

Sóng vỗ một lần thôi

Câu thơ hạ rồi

                     và mãi

 

Mùa xuân đây là vậy

không níu giữ

                 nhánh hoa nào

làm quà tương lai

ngoài tấm vé ngày giờ đánh đậm

 

Bạn bè ơi, đừng đợi!

Lá thư giã biệt phôi tàn

Nắng thời gian là nắng vĩnh hằng

Thơ đời là không gian vạn trượng

là biết “quên đi nỗi nhớ không về” [1])

Phải ám sát nỗi nhớ sót

                                    mà đi tiếp!

 

Cánh hồng bầm tím

múp lại

          trỏ lên trời

khiến hồn ta không trở lại

                                     địa chỉ cũ

                                     đường xưa

                                      các cuộc tình ngược gió

Tóc vàng bay trong tay lông đen lồng cổ

Câu thơ nào cũng xỏ sẵn đôi giày đạp đổ

                                                          các hoàng kim

Một là nhanh bước nhanh như các em bé dọc hè đường

Hai là ngồi lại thành mộ

Trạng thái giữa sống và chết không có

 

Bạn bè ơi, đừng đợi

Ngày mai còn gọi

Có thể gửi theo ta các ngân phiếu niềm tin

Có thể giữ lại trong nhà băng tình bạn

Phía trước ló rạng

              một ánh màu thêm

là ta và thơ còn bạn

 

Có thể xuống tàu với thơ

đeo vai, choàng cổ

hoặc cùng muối và nước ngọt giấu kỹ khoang tàu

Không vậy với hoa, đàn bà và mùa xuân:

Mỗi bến tàu nhận một mùa xuân khác

Mỗi giống hoa đẹp cho một bãi bờ

Mỗi người đàn bà là một dòng chảy

 

Tháng Sáu

           dương lịch

rời đảo bài thơ dở dang

không

     bông hoa sắp nở

     mùa xuân đang mở

     người đàn bà chờ

Mỗi đảo mới

             – mỗi dấu chấm

sang những câu thơ mới và hơi sống tiếp

Ta nạp chúng vào Lòng – Hải – Lý

                                        những viên đảo

                                               và nã phá từng trang thơ cũ

Câu thơ chết nuôi câu thơ sống

Thơ chỉ có thể tự ăn mình

Hoa sống nhờ ong bướm và mặt trời

Những người phụ nữ sống theo những người đàn ông và con của những người đàn ông

Mùa xuân sống bằng gì?

                – Bằng các mùa còn lại

 

Bạn đang trên luồng gió khác?

Đang ngưng chân một khúc quanh?

Cố thủ căn hộ đủ sang?

Luồng gió không bao giờ nói

Gào thét và im lặng –

Ngôn ngữ của chuyển động

Phương hướng mới không ở sau các khúc rẽ lòng

Đi xa hay phủ phục?

Quán tính

           căn hộ hơn cả mỏ neo

                                  gần bằng nấm mộ

 

Bạn có trong chuyến tàu xuyên lục địa?

Dưới cơn mưa?

Đọc tiếng mùa xuân xưa?

Cơn mưa cô độc khởi từ các cuộc tình tốc hành cạm bẫy bàn chân không muốn nghỉ

 

Bạn bận mộng ban ngày vá trời nhân loại sụp?

Sắp lại bàn cờ người?

Đổi mới thơ?

Đừng bận về ta!

 

Khi cánh chim đen là là hiên nhà

Lúc mặt trời xấu hổ

Hoa trên bàn văn không hoa trong phòng ngủ

Câu thơ đau không đổi mặt bao giờ

 

Xe đi xe về

chịu tra vấn bởi vòng tròn sinh tử

Nẻo đường dài ngó ngược đỉnh đồi

hỏi mãi các bàn chân im lặng

 

Ga sắp có tàu

                  tàu đang gọi khách

Hai mặt đường ray chung thủy đời đời

và thương hại kìa đóa hoa vụng đợi

không biết rồi lữ khách sẽ đi thôi!

 

Bạn chỉ có đảo này trong địa chỉ

Còn bến kia trên bức ảnh nhộn màu

Con lộ ấy như vạn ngàn con lộ

Tiếng còi tàu không vượt tiếng còi tàu

 

Bút dốc ngược thơ xuôi dòng chảy

Im lặng thay mỗi chiếc kim giờ!

Ta bỏ bạn trên các đinh địa lý –

                       tên những làng, núi, sông…

 

Ta – đứa trẻ ham hoài một thứ:

                           cái ngọt của những con đường

Ta – người đưa thư đậu tay mọi cửa

không thông điệp cải lương trừ-cộng, âm-dương

ngoài sự chưa có ngày trở lại.

 

 

BA

 

Những khi đảo nắng đảo mưa

đảo muốn cựa mình

                          lay khách trọ

 

Em khuất

Ta đi

Bỏ lại

       những nệm giường

       những bông hoa không thể nào nở được

       những cái hôn cụt đuôi

       và tách café cả cha lẫn mẹ mồ côi

 

Em có thể đợi

                miễn đừng níu gọi

Đảo nắng đảo mưa

Những buổi mình hái lá lội rừng

                             rồi sẽ thành chuyện xưa

Rừng khóc trước khi chúng sinh tận số

Lá salal ( *)

             từng giọt lá salal

Tay em bứt lòng anh hứng buộc

Đoạn đời chúng mình lăn theo những vành tang

 

Quán trọ xây bằng nước khóc của rừng

Rừng thuê mình rải lên nhân loại mộ

Bao nhiêu người chết cho chúng ta đủ sống?

      “Giọt salal này là tiền điện!” – Em bảo

      “Giọt salal sau quà sinh nhật cho con”

      “Giọt cuối cùng em giữ lại in thơ”

Đây

   đảo nắng đảo mưa

Em quay đi

          không cần ngoái lại

Lông ngỗng chuyện chúng mình

                                       không mắt em

Rừng có mắt của rừng

                    từng giọt salal lá

                                       giọt salal

Xanh suốt một màu không hết

đường bay ngút trời

là cánh rừng thông biết khóc cho người

 

Rừng biết người tội lỗi

Chuông nhà thờ không khỏa lấp cửa tù

Rừng thở dài dưới ánh hoa pháo nổ

Tráng ca vẫy gọi hận thù

 

Đảo trong khuôn viên rừng biển

khoan dung mà tiên lượng sự tình

Hai ta nay hết tình với đảo

       hết hợp đồng với những giọt rừng

 

Em buồn nghĩ về đảo vắng

Ai người kế mình bạt mưa vượt nắng

Gốc cây già sáu người ôm

Mắt mở trừng từng vết chém

 

Anh thông điệp lên trời xa

                  bằng cái nhìn bất tử

Giữa chặng dừng ga nhỏ

              để rừng khóc tiếp về ta

 

Em chẳng quên chùm hoa trắng

                      nhờ nhờ suốt gốc cây dài

Bứt cánh hoa anh đặt bàn tay

Vết hoa theo em từ đấy

 

Anh làm mưa làm nắng chặng còn lại

thay đảo mưa nắng chúng mình

Em dễ gặp

       những-người-đàn-bà-ấy

Họ là em

         khi em nghĩ về anh

Mỗi người đàn bà có một nắng mưa riêng có một đảo riêng trong họ

Anh tiếp tục dựng những quán trọ

Chỉ tội cho tách café sớm muộn mồ côi

Thương những loài hoa phải nụ suốt đời

Anh sẽ tiếp tục

 

Em đâu thể

mở cửa vào như những

lần gió mưa góc hiên nhà

Đảo chờ động đất như anh chờ cửa mở

từ em

      ngón tay

 

Anh sẽ sớm quên mùi lưng gái trẻ

nhởn nhơ để mặc nắng lùa

Quên người đảo hiền hiền hay hát

khúc ca làm nguội bước hành nhân

 

Em nếu nhớ điều gì

                            thì nhớ

khuyên lên trời nụ hôn vàng

Nơi dặm dài anh ngưng nghỉ

                               hóa hiện mặt trời

 

Anh biết chúng mình có vậy

                                   ra đi mà giữ lại

điều gầy dựng từ giọt rừng thắm lá

vốc cát, cụm sò, con sóng, đụn cây

 

Em bảo:

        Người đi biển không làm thơ

Anh bảo:

        Người làm thơ đi biển.

 

 

BỐN

 

Giờ G.

đánh đậm

 

Mình tích thủ các tấm – vé – đời

Xưa cha giữ kín tường nhà vé số

Mình lượn con quay đất trời

Cha không qua vòng run rủi

 

Nơi đi

Nơi đến

Giá tiền

Tên họ

Các điều quy định

Sau này lên thiên đàng

Hành trang may ra còn vậy!

Thu hoạch được gì

                          trút cả lại

Quan tài phủ các tấm – vé – đời

Đại bách khoa toàn thư của mình

                                                  cũng vậy

 

Buồn vui, thành bại

Tấm vé rời

              mỗi cái lật

                          tra cứu lại

Những gì gì trọng đại

mình cho là ngẫu phát

 

Mỗi tấm vé

             mình đặt tên riêng

                                  hiển hiện

                                          tiểu sử, ngày sinh

Cái nhu mì

cái táo tợn

Không tấm vé nào bị chết

trong đời mình

Chúng đều bất tử tới ngày mình

ngừng bước

bước vào khối quan tài

Chúng lóe ánh sáng kêu gọi

như khoảng xẻ các tà áo váy

Chúng xếp hàng nhẫn nại

                 chờ nhìn tấm vé cuối

 

Đấy

Minh chứng

     từng chặng đường

     từng người đàn bà mình qua

     từng nụ hoa không nở mình giã biệt

     từng lữ quán phủ mình như ngôi mộ

 

Chúng không run khi tuyết ngập chân tường

và quay mặt mỉm cười

lúc có người đàn bà dùng bản thảo thơ mình nhóm lửa

 

Mỗi tấm vé –

            đấy là cánh cửa không khóa trái

Chúa đóng cửa chính mở cửa hông để đòi đức tin

Cửa ải trần đời không vậy

Khi cổng thành khép lại

                                    sau lưng

tấm vé chưa nằm yên

kích nới Lòng – Hải – Lý dài thêm

                                   trên các tấm vé mới

 

Có khi mình cười nhuệch nhoạc

tấm vé nhàu mấy lượt mồ hôi

sũng máu tươi

co chân nằm sọt rác

 

Lắm lúc mình chạy theo mặt trời

                                           soi tấm vé

tìm điều kỳ diệu phôi thai

 

Nhiều giờ G.

            đậm trong tim óc

từng thớ thịt giật

mỗi giác quan thức giấc

Những tấm vé liền da thịt

vượt cổng thành, cửa sông, rào biên

Cột mốc dấu chấm than to tổ bố

Thuyền nhân

Bộ nhân

Lâm nhân

Tường nhân

Phi cơ nhân

Các gan bàn chân không chứa hằng số sợ

 

Biển sẽ nhắc

               sóng vỗ

Rừng khóc

          từng giọt lá

Trời đeo tang

            mỗi vòng mây

Đất rung tới ngày vỡ địa cầu này

Tự – do – đi – lại

             – nhân quyền ấy thua cả súc vật quyền,

này Liên hiệp quốc!

 

 

NĂM

 

Mẹ nằm xuống

Bằng chân của mình

                               con đi

những bước dài không điểm tựa

những lối đường không lượng định

Không nhìn ngó hai bên, không ngoái lại một lần

 

Nơi con đến địa chỉ vô tình

vô hình dáng phố nhà sông núi

Bàn tay mẹ ôm vòm trời

những ngón tay bất động ngừng vuốt ve thôi chỉ hướng

Sự an toàn con hưởng rất mông lung

nhưng con hiểu đó là điều thường trực

Không gọi mẹ

                   bến bờ ao ước

                   giấc mơ sống sượng

                   đỉnh phù hoa

Gặp lại mẹ ở những lần con cúi mặt

                                                         bùn nhòa chân trần

                                                         nước mắt chảy về tim

                                                          máu đổ theo chiều gió

 

Bàn chân xưa mẹ xếp sắp

đủ đi suốt mấy tầng địa chất

                                   mấy tầng nhân cách

                                   mấy tầng trần gian

Gió ngàn có thể làm khuất tầm nhìn của con

Bão đời có thể làm bóng dáng con mất

                                                          một đôi lần

 

Những túi hành lý xênh xang

không món đồ cuối cùng

không nút buộc cuối cùng

không bàn tay cuối cùng

 

Những bữa ăn phản kháng thực đơn

Đũa bát ghế bàn bạo động

 

Những chiếc giường là lô cốt đương nhiên

của bao ngày đêm đại bại

 

Những cuốn sách không phút giờ gập lại

trân trân nhận diện cuộc đời

 

Những cánh cửa phát biểu đêm ngày

dẫu không được mặt trời chỉ định

 

Những chai rượu rỗng hình hố huyệt

Những dòng thơ không thể chảy về đâu

Mẹ

Sẽ không nơi hạnh ngộ

                       cho con của mẹ

Mỗi người đưa thư có vài chục chìa khóa, vài tá túi ngăn, vài trăm địa chỉ và

vài trăm thông điệp

Con có những chặng đường, hải cảng, bến bờ và đôi lời mẹ dặn năm xưa

Con không là thành viên của những lứa đôi thuê nhà đảo theo mùa

hưởng khí hậu ngân hàng sex

rời đảo hải triều dollars

Họ

  – khi rời bỏ khu nhà thuê mùa – người đàn ông thường đi trước

(Con không hiểu vì sao)

 

Mẹ

ở đâu

trên bàn thờ?

trong lưu ảnh gia đình?

 

Người đàn ông trở lại một mình

khi người đàn bà đi khỏi

làm con khóc cái ngày mẹ khóc

 

Hôm nay đảo

nóng như ngày mẹ vào trong đất

Hai nửa vòng quay

Thái Bình Dương sát muối

Ba chặng không hành

Ngàn đường đất

Sông mấy chục giòng xót

Một người con

              dừng khóc

                             lại đi.

 

 

SÁU

 

Cái chết rình ta

           – thợ săn rình hổ thọt

Biết vậy vẫn ra rìa rừng

Ta cất lời ca

           hòa nhịp lòng

Ta kinh viện mang trên thi thể quan tài mở nắp

An thần niềm đau

Ta cách tân diễu cợt tử thần

nhẹ như đá tảng ngáng đường tráng sĩ

Chết phi lâm sàng với bác sĩ

là chết lâm sàng của kẻ làm thơ và của kẻ độc hành

Đường hẹp lại khi hành nhân nằm mãi

Những con thuyền thêm một chốn bơ vơ

Tiếng gọi đò lỗi nhịp

Hải cảng buồn hơn mưa

Đảo với biển để tang bằng cách khác

Mặc đất liền đã khóc cạn đường

Sống bên đảo và cùng biển thức

thì chết làm giấc mộng cuối cùng

Mây gió sẽ còn theo

Nắng thẳng tới hồn

Mặt trời không đổi mặt

 

Em

và những người đàn bà khác của tôi

thì sao?

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một con đường –

– Và em không ngoại lệ –

Tử thần

        mọi nơi

        toan tính

        đặt tôi nằm lại lề đường

 

Bao lần

Tôi ôm mặt

trước tiền nhân quoắt trong mộ chí

vòm đất nâu cong không quá cổ chân

Mỗi nấm mồ mở dấu ngoặc đơn bé

Tôi hoài tưởng những đôi bàn chân đã là cặp gươm vạch sáng suốt dặm trường

đang thâm teo về hai chiếc đũa lệch

 

Bao nhiêu? Bao nhiêu

                          nhành hoa

                                     hạt lệ

                                            từ những người đàn bà của họ

                                                                 rủ lên?

Cao sáng nhất trần gian

                  là những nấm mộ mồ côi thấp thắp tỏ đường dài

 

Chúng ta sẽ không hạnh ngộ,

tử thần kia

             đừng đợi!

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một dòng sông –

– Và em không ngoại lệ –

Tôi đâu trôi hai lần

Bởi đã chết

          chết một lần

                       trên đấy

Em là ai trong những người đàn bà đó của tôi?

Ai trong những người đàn bà đó của tôi là em?

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một ngôi nhà –

– Và em không ngoại lệ –

Đêm ngày nghỉ lại

Những ngôi nhà

       các ô cửa sổ hát với sông, biển

       cửa chính nói chuyện với những con đường

Tôi luôn mở những người đàn bà

Cái chết lẻn vào

những căn nhà tôi không thể đóng bảo hiểm với đời

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một bến tàu

mỏ neo cặp vú

bão xoáy rốn bằng

tàu tôi vẫn ụ

mù sương

khói phủ vành tang eo vịnh

mà em không là ngoại lệ

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một vòm trời

những lúc cánh rã mệt

toan đánh đổi sự hân hưởng vòm trời kế tiếp

bằng tiếng hót cuối cùng bên bụi mận gai

mà em không là ngoại lệ

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một sân ga

(kiểu Nguyễn Bính chia ly)

mà em không là ngoại lệ

trên cuộc hành khổ

 

Mỗi người đàn bà của tôi làm một nấm mồ

và em

       không là ngoại lệ.

 

 

BẢY

 

Mũi tên, mũi lao

               có thể trở lại chân người

Gió, nắng cản tầm địa chỉ

Địa lý phá lực

Lịch sử chọc ngang

Tấm bia tội nghiệp

                 giương mặt điếm

Thuốc tẩm đầu hàng

Đường tên đường lao không quá tầm nhìn

              bởi tầm nhìn không quá một cung đường

Tay thiện xạ chồn gân

               thì chân tên chóng mỏi

Hơn chó

mũi tên ngọn lao trung thành

tìm chân cung chân người

                                     phủ phục

Chó vẫy đuôi hôn chồm tim người

Mũi tên khóc bằng thuốc độc

Nhân loại bắt đầu vô nhân đạo

lúc mũi tên hiện đại hóa đạn chì

ngọn lao thành hỏa tiễn

Những viên đạn phóng ra

thiếu trách nhiệm

là luồng tinh trùng đĩ đực

bất thành nhân

quên cội nguồn, địa dư và sử ký

thực hành chức năng đồ tể

                                   quáng mù

không sở hữu tầm nhìn

không gọi kêu hậu duệ

                             tan tành xác

Điểm chúng đến nấm mồ cho chúng

Tính cứu cánh bao che cái vô đạo đó

Hãy khước từ những viên đạn

cũng như khước từ làm những viên đạn!

 

Những mũi tên

          có thể không trở lại

Ngập trong đích

       chúng xấu hổ trong sự hạ sát

       chúng tự hào trong việc chỉ đường

Gọi những gan bàn chân

Vạch dài các ngõ lối không ngờ tới

Không cưỡng đoạt cùng phá hủy

như các viên đạn

các mũi tên lao đi

                      mở phá

                            chinh phục

những khoảng trống không – thời gian

Tội của tên, lao

nhẹ như tội của con chiên hủ hóa

Trong cuộc đời không bao giờ vô tội

những cây lao

         ném tất cả về phía trước

              một tầm nhìn sở hữu

              một đường bay ít ngờ

Trong cuộc đời không bao giờ hết tội

nhận đón các mũi tên

làm đích cho một khoảng không mới

làm mốc cho một thời mới

đẩy tất cả lại

phía sau

 

Mũi tên

    vẽ rộng thời gian

Cây lao

    thông rộng không gian

Phía trước

        ngời ngời!

 

 

TÁM

 

Không nơi chốn nào là kín

                         trước bước chân

Tình duyên, hạnh phúc

                         có thể giật lùi

Lịch sử, chiến tranh

                từng quay lại

                                   yên ổn

tìm những khoang trống cho mình

trong pháo đài cổ

                       kệ sách

ghế đá công viên

và lòng đất

 

Người đưa thư

         lấp kín các ô sắt ích kỷ

bằng các thông tin bề kích địa cầu

Một nụ hôn

        chợt đến từ phía sau

        có thể xô tình xuống vực

Đảo hoang tròn

theo mỗi cơn sóng lượn

 

Chiếc xe lăn

          vô chủ

          vô phương

Bàn chân không cần mắt

Bút để hóa cứt thành thơ cũng là bút

Phần trắng còn lại trên giấy

       chắc gì là đoạn cuối đường

Có sóng trên giấy

            như có sóng trong lòng

Có gió bốc dưới mỗi bàn chân

                        và trong từng ngòi bút

Mùi trang giấy viết tinh khôi

              ngửi suốt đời không ngán

Độ cứng ở những nơi thiếu bàn chân

                                                           kích thích

 

Chiếc xe trắng một vòng thành phố

trở lại hiếp chân tường

thỏa mãn nhà xe

ở từng hơi phả

Những bàn chân không có hành trình tròn

không có mặt đường thỏa thích

Câu thơ đẻ non

                   có bước chân an ủi

Bài thơ không khi nào quay lại một âm vần

                   có bàn chân hiểu nổi

 

Không khoảng không nào thừa

Nắng mưa sẽ tìm đến

Có những bàn chân lạc

Bao mùa xuân rồi

Hoa rụng tối trời

Mồ hôi đổ vội

Mũi tên kẻ đậm

Máu đỏ đầu chân

Vết điểm chỉ còn son

 

Những đùi vế vút lên

sáng lại câu thơ cổ điển

Con đường sôi âm ỉ

                 ngút ngã tư già

Chế ngự từng thước tấc

phố nhà chưa lấn hết

Đường biên xấu hổ

cổng thành chúm chím gót chân

Nóc nhà thờ ngang cánh chim

thánh rỏ lệ mát bàn chân lữ khách

Những đứa con thừa cha

                                     chạy ra

ném

       các đụn tuyết không tan

Miếng gỗ vụn đợi lửa

không bao giờ

biết hành hương

Những bàn chân khát đất

những bàn chân bội thực đức tin

tránh con đường Chúa thổ huyết

tránh cả những chợ đêm

nơi côn trùng làm vua

Đường đất và sông nước

cái gập ghềnh đâu cũng như nhau

Bàn chân lượn từng ly khúc khuỷu –

từng ly khúc khuỷu làm cong mặt bằng

thẳng tới chân trời và chân lý

 

Có thể chao hồn

                         khi rẽ

                         đường lượn hải âu

trong khoảnh khắc chuyển đổi tự hào

hoặc là đổ ngã

hoặc là cao lên tầng không mới

trong hơn

Khúc quanh phá vỡ các tuyến tính kinh viện

giải tẩy thuốc tê cho gan bàn chân

Kìa,

     vực bên chỗ rẽ

Kìa,

     ghềnh dưới thác trên

Đừng đả đảo các kẻ thù vô tội!

 

Đảo

khoảng sống giữa vùng đau

Ngọn hải đăng có thể tắt

                                không buồn

Gió lưu trữ ánh sáng cũ

Bước chân không bao giờ hôn đảo

Con thuyền tự lo lấy phận trôi

Không bến bãi nào là đủ đầy

Không hải cảng nào biết hoang phí

Các ô trắng đợi màu

Gái chờ quả dại

Bài thơ thật không đi lùi

Con đường dài không thể ở sau lưng.

 

 

CHÍN

 

Điểm cuối đường ú tim

               xoãi chân mỏi nu na nu nống

Em có bao giờ trước mặt cuộc tình tàn?

Đừng hỏi vì sao anh hỏi vậy

Nếu ai cũng sống

cuộc đời đã chết từ lâu!

Cuối đường

sóng vỗ tới bàn thờ tổ

Hỏa diệm sơn yếu lửa

Mỗi người ngô nghê đi một chút

thì gió sẽ đổi làn

             giảm độ cuồng

Đôi khi anh

              xốc vai

                    thẳng cổ

                             ngóng chân

Điểm cuối mỉm cười đón nhận

Những người đàn bà khóc

                luôn phải ở phía sau

Đứa trẻ nằm xe đẩy

          – không chịu trở về

                       đòi mẹ thả lời hứa bậy –

là người lớn hôm nay

Con chúng ta là thế hệ bay

tay cầm Coca-Cola tự mua lấy

Không theo luồng gió, đường ray

điểm cuối có thể ở ngay dưới vạch xuất phát

 

Lòng – Hải – Lý đang chờ giờ hỏa táng

Con đường tan theo mây

Hải cảng thôi còn đợi

Thiên niên kỷ thứ ba mất đơn vị bàn chân

Em giữ lại vành tang

khi ra khỏi nhà mồ đồng loại

Cái chết được chuẩn bị

rộn ràng không kém mùa xuân

Tiếng cười xưa dẫu không thể vang ngân

Ngưỡng cửa mới cao hơn mây đảo

Đường dài tích trữ độ ngọt cho ngày chân ngưng bước

Nước mắt là ruột thừa ở thế hệ đang lên

Con chúng mình

                       sẽ bay

Đơn vị đường đời không còn là mỗi bước đi

Người đưa thư bỏ nghề

                          làm mẫu tượng đài

khi thông tin tự vào nhà qua các cửa sổ mạng

Những nụ hoa không nở

ly café mồ côi

sẽ có mặt nơi điểm cuối

Vật chứng yêu là đôi lứa

Đường là một bước chân dài

Thơ không có độ lùi

Điểm cuối

       khi đến rồi

đảo không còn bảo thủ

                                  đứng rời

                                        nhìn chuyến đi hấp hối

Bàn chân

       (tất nhiên!)

                    có quan tài riêng của nó

                                             hình bàn chân

Em nhớ tìm về điểm cuối

Trên con đường đã có thơ

                           hạnh phúc không trở lại

Đám búp-bê mở mắt thấu dặm dài

miệng đồng ca thế kỷ

con chúng mình – nhạc trưởng

 

Nắng theo chúng mình thuở chưa có lửa

nên con từ nắng sinh thành

Tới gần rồi,

            điểm cuối!

Đảo mưa trong anh

        anh nắng trong em

Đường mòn đau thêm

           thổn thức lịch trình xoắn ốc

Câu thơ treo ngửa

                               nấc

Búp-bê và con chờ hân hoan

Hoa trên mộ tự vẫn

khi mỗi nấm mộ đứng dậy

đòi quyền sống

Hải âu rùng mình

tiếc thời múa trong mưa bụi

Điểm cuối không mắt

không vồ vập hỏi về nơi xuất phát

(Đàn bà sao không vậy với đàn ông?)

Bước chân lăn tự nhiên

sau cái búng đầu tiên của Tạo hóa

Các trường hút tỏa từ khi xuất phát

bao vây tứ phía bàn chân

Bàn chân chối từ bài định

                     tự chết như tự sống

 

Khi bàn chân nằm xuống

                            vẫn chỉ thẳng

                                              lên trời

con đường chôn trong chân người

Khi hải cảng chìm xuống

                   những cọng mỏ neo

trơ

   khúc xương

               bữa tiệc đường đời.

 

 

[1]Thơ Nguyễn Hoài Phương

* Một loại cây ở đảo Vancouver được dùng làm vòng hoa tang

* Viết sau khi hay tin Allen Ginsberg mất ngày 5-4-1997

+ Chữ trong thơ Đỗ Minh Tuấn

 



[1] Ý thơ Hoàng Cầm

 

Comments are closed.