Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 11: Frederick Feirstein – tiếp theo)

Khế Iêm

image

THE FATHER SAYS

 

“Yes, I’ve nothing, so I have nothing to give.

I’m so consumed by envy, greed and guilt,

I have to send my kids into the woods.

I can’t endure to see them zestily live.

I’m Hate which I have married in The Witch.

 

“I couldn’t take their mother’s being good.

Being a poor man. Poor men envy the rich

In spirit, money, time, charm, talent, luck.

I’ve tossed away the flesh I couldn’t fuck.

 

“When they were small I had confidence and hope.

I felt myself, not a boy in dread,

Not needing what’s most perverse, this bitch

Who stuffs, with me, their pockets full of bread

So we won’t feel guilty, giving them up for dead.

 

“Children aren’t evil toward their parents.

They’re scapegoats, it’s the other way around.

We’ve put them in the woods or in the ground,

Hansel and Gretel slogging from ditch to ditch.

Having no self, I’ve married Death the Witch.

 

NGƯỜI CHA NÓI

 

“Vâng, tôi không có gì, vì vậy tôi không có gì để cho.

Tôi quá bận tâm tới sự ghen tị, tham lam và tội lỗi,

Tôi đã đưa mấy đứa nhỏ tôi vào rừng

Tôi không thể cam chịu thấy chúng sống đầy năng lượng.

Tôi là Ghét đã kết hôn với mụ phù thủy.

 

“Tôi không thể có một người mẹ tốt cho chúng.

Vì nghèo. Người nghèo ghen tị người giàu.

Tinh thần, tiền bạc, thời gian, sức quyến rũ, tài năng, may mắn.

Tôi ném đi … Tôi không thể làm tình.

 

“Khi chúng còn nhỏ tôi tin cậy và hy vọng,

Tôi tự cảm thấy, không phải là đứa con trai trong kinh sợ,

Không có nhu cầu những gì quá đáng, người đàn bà đáng khinh này

Nhét đầy, với tôi, đầy bánh mì trong túi chúng

Như vậy chúng tôi không cảm thấy có tội, bỏ chúng cho chết.

 

“Trẻ con không độc ác theo cha mẹ chúng.

Chúng là những con vật tế thần, đó là lối khác quanh đây.

Chúng tôi bỏ chúng trong rừng hoặc trên đất,

Hansel va Gretel lê bước từ rãnh này qua rãnh khác.

Không có bản thân, tôi đã kết hôn với cái chết kẻ phù thủy.

 

THE STEPMOM

 

The helplessness of children or the Jews

Makes me feel angry, weak, and vengeful.

Tell me, does it do the same to you?

It always happens when you lose a war.

You scapegoat and you practice child abuse.

All History has practiced sacrifice

On a simple altar or a single tree

Where folks enact a myth or mystery.

Visit a church whose stations of the cross

Tells you what happens when we suffer loss,

Humiliation, poverty of soul.

Christ’s body and Christ’s blood must make us whole.

 

My husband who is soft gives his children bread.

To stuff their pockets as with good luck charms.

He kneels and prays that they won’t come to harm,

So he can feel less guilty; though I say,

“It’s civilized to send children away,

To the impersonality of ovens,

Not to an altar where their throats are slashed.

Refining Death, we turn them back to ash.”

 

MẸ KẾ

 

Tình trạng bơ vơ của trẻ con và những người Do thái

Làm tôi giận dữ, yếu đuối, và trả thù,

Nói với tôi, điều đó có giống với bạn?

Nó luôn luôn xảy ra khi bạn chiến bại.

Bạn là vật tế thần và lạm dụng trẻ em.

Toàn bộ Lịch sử đã kinh qua cuộc hy sinh

Trên một án thờ đơn giản hay trên cây

Nơi những người thân diễn vai huyền hoặc hay bí ẩn

Thăm viếng nhà thờ mà những vị trí thuộc về thánh giá

Nói với bạn điều gì xảy ra khi chúng ta đau khổ vì mất mát,

Sự nhục nhã, nghèo nàn của tâm hồn.

Thân Chúa và máu Chúa phải làm chúng ta thành toàn thể.

 

Chồng tôi đã không tuân lệnh khi đưa bánh mì cho lũ trẻ.

Nhét đầy vào túi chúng như những bùa hộ mệnh.

Ông quì xuống và cầu nguyện khi chúng trở về an toàn.

Như vậy ông cảm thấy ít phạm tội; dù rằng tôi nói,

“Đó là cách văn minh khi đưa những đứa trẻ,

Tới những lò thiêu vô tri,

Không phải tới bệ thờ để bị cắt cổ.

Tinh chế cái chết, chúng ta làm chúng trở thành tro bụi.”

 

HANSEL AND GRETEL

 

Hansel and Gretel, almost starving, fed

On sacramental pumpernickel bread,

Were led into a petrifying wood.

They played with animated animals

As children or the persecuted do,

Surviving but emaciated, till

They came upon a crippled witch’s house,

Made of cakes and honeyed bread and candied vines.

They ravished them until the witch came out

On crutches, she said, “From the First World War.”

Her mouth was black, her eyes were Nazi red.

“I’ll fatten you on lies,” she bluntly said,

“Which you will swallow, knowing you’ve no choice,”

Then led them in, and music stirred their souls,

Vases were full of roses, lilacs, ferns.

On tables were dark chocolates for their hearts.

And, though she didn’t say they were, sweetbreads

She plucked from other children’s guts.

They ate so fast, they quickly fell asleep.

A crescent moon gave way to Aryan sun.

She lifted Hansel, lay him in a cage

And, while he rubbed his head in disbelief,

She ordered Gretel, “Fatten him on meat,

And rice and cheese, sacher torts, and pie.

This mixture will make all of him taste nice:

His hands, his feet, his eyeballs, and his ears.

I’ll sing for you and put to sleep your fears.”

Her lullaby entranced Gretel to feed

Hansel who ate till his small stomach swelled.

But he secreted a long chicken bone

Because he knew all witches are compelled

To re-enact their evil ways each day.

He knew that in his step-mom’s witch’s house.

So when she’d pinch to see if he was plump.

He’d stick the bone out like a soldier’s stump.

Fed up at last, the witch lit the waiting oven

And ordered Gretel to creep in and test

To see if it was getting Auschwitz-hot.

Gretal delayed. “Fatwa!” the witch exclaimed

And stuck her head in, stupid in her vice.

Gretel shoved her, bolted the oven door:

“Now howl, Mother. We will taste what’s ‘nice.’”

Strong as a Sabra, she unlocked the cage

And led her brother out, uneaten, free.

They scooped up all the witches’ cakes

And brought them home. Poppa was overjoyed.

The witch he married, Tyanny, was dead.

They danced and sang and on the future fed.

 

HANSEL VÀ GRETEL

 

Hansel và Gretel, gần chết đói, được cho ăn

Bánh thánh bằng lúa mạch đen,

Rồi dẫn vào rừng chết.

Chúng chơi với động vật chuyển động,

Như trẻ em hoặc những kẻ bị ngược đãi chơi,

Sống sót nhưng gầy còm ốm yếu, cho tới khi

Chúng tình cờ gặp được ngôi nhà của mụ phù thủy què,

Làm bằng bánh ngọt, bánh mỳ mật ong và kẹo nho.

Chúng mê mẩn cho đến khi mụ phù thủy ra

Trên cái nạng, mụ nói, “Từ Thế Chiến Thứ Nhất.”

Miệng mụ đen, mắt mụ màu Phát xít đỏ.

“Chúng bay phải tin cả những lời nói dối” Mụ nói thẳng,

“Đứa nào sẽ nuốt, nên biết chúng bay không còn chọn lựa,”

Rồi mụ dẫn chúng vào, nhạc khuấy động linh hồn chúng,

Những bình hoa đầy hoa hồng, hoa đinh hương, dương sỉ.

Trên những chiếc bàn bánh cho côla đen cho trái tim chúng.

Và, dẫu sao mụ đã không nói bánh mì ngọt từ trong ruột chúng

Mụ móc ra từ trong ruột những đưá trẻ khác.

Chúng ăn quá nhanh, nhanh chóng ngả ra ngủ.

Trăng lưỡi liềm đưa đường tới trăng Aryan.

Mụ nhấc Hansel lên bỏ nó vào chuồng

Và, trong khi nó vò đầu hồ nghi,

Mụ ra lệnh cho Gretel, “nuôi nó cho mập bằng thịt,

Gạo và cheese, bánh mì sacher, và bánh patê.

Hỗn hợp này sẽ làm nó cảm thấy ngon:

Tay nó chân nó, mắt nó, tai nó.

Ta sẽ hát cho mi và bỏ nỗi sợ vào giấc ngủ.”

Mụ ru ngủ Gretel cho Hansel ăn cho đến khi

Bao tử nó căng ra.

Nhưng Hansel bí mật dấu một chiếc xương gà

Bởi nó biết rằng mọi mụ phù thủy đều

Tái diễn những hành vi độc ác mỗi ngày.

Nó biết khi sống trong ngôi nhà với người mẹ kế phù thủy.

Vì vậy khi mụ ta véo nó xem nó mập chưa,

Nó chìa cái xương ra như tay chân còn lại của người chiến sĩ.

Cho ăn lần cuối, mụ phù thủy mở cái lò đang chờ đợi

Và ra lệnh cho Gretel bò vào thử

Xem nó có nóng như một lò thiêu người.

Gretel chậm trễ. “Nhanh lên đi” mụ la lớn

Và đưa cái đầu vào, lỗi lầm ngu ngốc của mụ.

Gretel xô mụ vào, đóng cái lò lại:

“Bây giờ tru lên đi, Má. Chúng ta sẽ nếm xem cái gì ngon.”

Mạnh mẽ như một người Do thái chính gốc, cô mở cái chuồng

Và dẫn anh mình ra, không bị ăn thịt, tự do.

Chúng thu hết những loại bánh của mụ phù thủy

Và mang về nhà. Người cha vô cùng sung sướng.

Người vợ phù thủy của ông đã chết.

Cả nhà nhảy múa hát không còn phải lo cái ăn trong tương lai.

 

SPRING MUSIC

 

                                    in memory of Egon Dumler

 

Philip, Billy, Roger, Bob, and Ted

Won’t see this spring, or any other season.

There’s not one pair of eyes among the dead.

Spring’s rhythmical and rhymed, devoid of reason.

The birds are trilling bits of Bach and Brahms.

The vines are improvising drafts of psalms.

The seemingly senescent cherry trees

Open fresh flowers, pink and white and red

For our gardener listening, eyes closed, on his knees

As if they’re whole notes rising from the dead.

The sky insists it’s innocently blue,

That nothing happened, Egon, not to you.

 

NHẠC XUÂN

 

                                                Tưởng nhớ Egon Dumler

 

Philip, Billy, Roger, Bob, và Ted

Sẽ không còn thấy mùa xuân này, hay bất cứ mùa nào khác.

Không có cặp mắt giữa kẻ chết.

Vần nhịp mùa xuân, không nguyên do.

Những con chim đang ngân nga một chút Bach và Brahms.

Những cây nho là bản thảo ứng tác những bài thánh ca.

Những cây anh đào trông già cỗi

Trải những bông hoa tươi, hồng, trắng và đỏ

Vào lúc người làm vườn đang lắng nghe, mắt nhắm, cầu nguyện

Như thể chúng là tòan thể những nốt nhạc trổi lên từ kẻ chết.

Bầu trời vẫn cứ là màu xanh vô tư,

Không có gì xảy ra, Egon, với anh.

 

THE POND

 

Nature is never wrong, the lilies say,

Simply alive in the pond, life goes on.

Despite carnivorous violence, firestorms,

We are porcelain quiet. Sit on this bench,

Listen to The Baroque Ensemble play

Music composed during The French

Revolution; cherish the bees

Closed in our petals, close your eyes,

Close them, close yourself in these harmonies.

All civilizations die.

 

CÁI AO

 

Thiên nhiên không bao giờ sai, những bông huệ nói,

Đơn giản tồn tại trong ao, cuộc đời trôi đi.

Mặc dầu tính hung hãn của lòai ăn thịt, những cơn bão lửa,

Chúng ta yên lặng như sành sứ. Ngồi trên băng ghế này,

Lắng nghe vở nhạc kịch The Baroque Ensemble

Sáng tác trong thời kỳ cách mạng Pháp;

Yêu mến những con ong

Phủ lấp những cánh hoa, nhắm mắt lại,

Nhắm lại, tự khép lại trong những bản hòa âm này.

Mọi nền văn minh chết.

 

JEU D’ESPRIT

 

I wrote a lyric that you said was pure,

Full of voiceless plosives, liquids, sibilants,

And, as a young girl licks an ice cream cone,

showed me how you rolled it on your tongue

And sweetly said, It’s written to be sung

By lovers in the shower as they moan

Or on a carpet in a kissing trance

Or in their twenties making up a tour

Of quiet rooms from Paris down to Venice

Or in their early sixties left alone

As we are, still romantic, in our dance

That’s sexy, never clumsy, not mature,

Just loosening young vowels on our tongues,

Which in each other’s mouths are always sung.

 

TRÒ CHƠI TINH THẦN

 

Tôi viết một bản tình ca em nói là tinh khiết,

Đầy những âm hơi âm nước âm xụyt không thành tiếng,

Và, như một cô gái trẻ nhấm nháp cây cà rem,

Cho tôi biết làm sao em cuộn nó trên đầu lưỡi

Và ngọt ngào nói, nó được viết để hát lên

Bởi những cặp tình nhân trong phòng tắm như rên rỉ

Hoặc trên tấm thảm trong lúc hôn nhau mê đắm

Hoặc ở tuổi hai mươi trong những chuyến du hành

Nơi những căn phòng yên lặng từ Paris xuống Vernice

Hoặc họ rời khỏi một mình vào đầu những năm sáu mươi

Như chúng ta, vẫn lãng mạn, trong điệu nhảy

Gợi cảm, không bao giờ vụng về, không chấm dứt,

Ngay lúc thả lỏng những nguyên âm non nớt trên đầu lưỡi, Những nguyên âm luôn được hát lên trong miệng nhau.

 

AS TIME GOES BY

 

That was a golden age in which we lived.

Each day was summer, God was everywhere,

In every molecule of New York City air

When we were young and just believed in us.

That was a haloed age in which we lived,

Late twentieth century summer, love was everywhere.

I’d stop beside you on our walks to stare

At you, buying a peach, climbing a bus’s stair.

And there were buts, but always and & and

Sitting in Central, doodling each other’s hand,

And I recited poems, my simple fictions

In meter, rhyme, and New York City diction.

As dusk drew near we’d hold a darkening kiss.

When you’re distressed, you must remember this.

 

THỜI GIAN TRÔI QUA

 

Đó là thời đại vàng chúng tôi đã sống.

Mỗi ngày là mùa hè, Chúa ở mọi nơi,

Trong mỗi phân tử của bầu không khí New York City

Khi chúng tôi còn trẻ và tin vào sự tồn tại,

Đó là thời đại hào quang chúng tôi đã sống,

Mùa hè cuối thế kỷ hai mươi, tình yêu ở mọi nơi.

Tôi dừng lại bên em trong lúc đi dạo, nhìn

Em đăm đăm, mua một trái đào, leo lên xe búyt.

Và có những cái nhưng mà, nhưng luôn luôn và & và

Ngồi ở công viên Central, viết nguệch ngọac vào tay nhau,

Và tôi đọc những bài thơ, những tưởng tượng đơn giản của tôi

Trong thể luật, vần và phát âm của New York City.

Trong lúc chạng vạng đến gần chúng ta vẫn hôn trong bóng tối.

Khi em đau buồn, em phải nhớ điều đó.

 

AGING

 

After a while we learn to mourn ourselves.

We talked of aging in the dying light,

And large ambitions, small accomplishments,

Of hurtful actions, what we really meant.

We stayed up well into the night.

You said, We’re well for now,” though nervously.

“9/ll brought this town disease.”

“All valleys of death,” I joked, “and leafless trees.”

You smiled at me dolorously.

Downstairs our precious block was being lit

For Christmas, strings of lights on all the trees,

Snow falling bit by bit by bit.

You kneeled at the window, childlike on your knees.

Did you ever think we would come to this,

We who lived from kiss to kiss to kiss?

Did you think our bodies would frighten us

When we were free and wild and dangerous.

 

TUỔI GIÀ

 

Sau một thời gian chúng ta biết tự thương tiếc.

Chúng ta đề cập tới tuổi già trong ánh sáng dần tàn,

Và những tham vọng lớn, những thành tựu nhỏ,

Về hành động gây tổn thương, chúng ta thực sự muốn nói.

Chúng ta vẫn tỉnh queo vào ban đêm.

Bạn nói, “Chúng ta khỏe khoắn cho đến bây giờ,” mặc dù dè dặt.

“9/ll gây bệnh cho thị trấn”.

“Tất cả thung lũng của sự chết,” Tôi nói đùa, “và những cây trơ lá.”

Bạn mỉm cười với tôi một cách đau buồn.

Tầng dưới dãy phố quí giá của chúng ta được thắp sáng

Với Giáng sinh, đèn chăng trên khắp cây cối,

Tuyết rơi xuống từng chút từng chút.

Bạn quỳ ở cửa sổ, trong sự tôn kính và sợ hãi.

Bạn đã bao giờ nghĩ rằng chúng ta đến thế này,

Chúng ta sống từ nụ hôn tới nụ hôn nụ hôn?

Bạn có nghĩ cơ thể già nua làm chúng ta lo sợ

Khi chúng ta tự do và phóng túng và nguy hiểm.

 

THE MIRACLE OF ORDINARY LIFE

 

A play of ours that’s done, a poem that’s read,

A night of making love, a children’s park,

A television flickering in the dark,

A boring rainy Sunday afternoon

Are all that differentiate us from the dead

Who tell us both in dreams, “We’ll see you soon.”

We talk about our memories through the night.

You try to comfort me. I hold you tight

Till one of us falls asleep. The other can’t,

Is too afraid to take a sleeping pill.

The other wakes from nightmare in a pant

And says that time is stronger than our will.

We had so many years of being ill.

Be thankful for just sleeping through the night.

 

PHÉP LẠ TRONG CUỘC ĐỜI THƯỜNG

 

Cuộc đời chúng ta hôm nay đã xong, một bài thơ được đọc,

Một đêm giao hoan, công viên của trẻ em,

Chiếc máy tuyền hình nhấp nháy trong bóng tối,

Một buổi trưa chủ nhật mưa buồn

Tất cả phân biệt chúng ta với người chết

Kẻ với cả hai chúng ta trong giấc mơ, “Chúng tôi sẽ gặp bạn sớm.”

Chúng ta nói về những ký ức qua đêm.

Anh cố an ủi tôi. Tôi ôm chặt lấy anh

Cho tới khi một trong chúng ta rơi vào giấc ngủ.

Người khác thì không thể, họ quá sợ uống thuốc ngủ.

Họ thức dậy trong ác mộng thở hổn hển

Và nói rằng thời gian mạnh hơn ý chí của chúng ta.

Chúng ta đã bệnh quá nhiều năm.

Hãy cám ơn vì được ngủ trong đêm.

 

THE HOUSE WE HAD TO SELL

 

This is the house we lived in, white as a bride.

Mozart is echoing the birds outside.

We’re sitting at the table playing gin.

My son is laughing every time he wins

Because he’s eight, because we’re all in love,

Living the future we’re still dreaming of.

Spring is in the mountains, green as Oz,

In the fresh-cut flowers in the crystal vase,

Mirroring the garden where the bees are thick.

Though everyone was dying, dead or sick,

These were our uncontaminated hours,

Like bottled water sipped by scissored flowers,

Permanent in memory, sealed by the pain

That childhood ends, and we can’t go home again.

 

NGÔI NHÀ CHÚNG TA PHẢI BÁN

 

Đây là ngôi nhà chúng ta đã ở, trắng như một nàng dâu.

Mozart vang vang bầy chim bên ngoài.

Chúng tôi ngồi nơi bàn chơi bài.

Con tôi cười mỗi lần thắng

Bởi vì nó mới tám tuổi, bởi chúng tôi thương nhau,

Sống với tương lai chúng tôi mơ về.

Mùa xuân trên núi, xanh như trong câu chuyện Oz,

Trong những cành hoa tươi trong bình thủy tinh,

Phản ánh khu vườn nơi những bầy ong.

Đây là thời khắc không bị ô nhiễm,

Giống như chai nước được hớp bởi những cành hoa,

Vĩnh cửu trong ký ức, niêm phong bởi nỗi đau

Thời thơ ấu chấm dứt và chúng ta không thể về lại nhà.

 

SHAKESPEARE

 

If I could live a Muslim cabbie’s day

Driving in traffic, parking at noon to pray

In 96th Street’s Mosque, I’d stop to chat

With vendors hawking fruit, pashminas, books

Even about my centuries of fame;

If I could be a New York City hack

I’d give up every sonnet, every play,

Not in disgrace with men’s eyes, not in shame

For just one sandwich stuffed with sizzling fat

Plump Falstaff in a greasy apron cooks,

I’d take blank time, not scripted Fortune, back.

 

SHAKESPEARE

 

Nếu tôi có thể sống một ngày của

Người tài xế taxi Hồi giáo lái

Trong lúc đông xe, ngừng lại buổi trưa

Cầu nguyện tại Thánh đường Hồi giáo đường

96, tán gẫu với những người bán

Hàng bán trái cây, khăn trùm đầu, sách,

Ngay cả hàng thế kỷ tăm tiếng của

Tôi; nếu tôi có thể là người tài

Xế taxi ở thành phố New York,

Tôi sẽ từ bỏ mỗi bài thơ, mỗi

Vở kịch, không được trọng vọng dưới mắt

Mọi người, không xấu hổ với chỉ một

Chiếc bánh sandwich nhét đầy mỡ nóng

Do Falstaff béo tròn mặc tạp dề

Đầy dầu mỡ làm, tôi chọn một tương

Lai mở, không phải thứ tương lai định trước,

Nghịch lại.

 

 

* Sir John Falstaff là nhận vật trong kịch William Shakerspeare.

 

SNOW WHITE

 

Her face is now a zero of despair

Over aging, money, the fatality

Of menopause, sexual schemers …

She lifts a wisp of gray hair

And tries to grin, “Bring me no more dreamers.”

 

Now is her final chance to meet The Prince.

“My inner wars are over, I need peace

Not the poison of my mother’s ‘No!’

“I’ve wakened to the dreaded five oh!”

 

“Hurry, Prince, soon I will be bleeding.

Time brings one down incalculably slow.

My heartbeat’s rapid, terrified of giving.

Like hers, hers, hers!

Hurry, Prince. I’m so tired of living.”

 

 

* From the author: Ronald Fairbairn was a Scottish Minister and a psychoanalyst. He used a key dream of a patient as a central metaphor which I use in and outside my office. It also is a riddle: You are alone in a room and starving and there is a bowl of soup next to you. But it is poisoned. Most people say they would drink the soup. I say “Why don’t you say No and walk out the door.”

 

BẠCH TUYẾT

 

Khuôn mặt nàng tràn đầy tuyệt vọng

Về tuổi tác, tiền bạc, số phận

Vô sinh, những kẻ âm mưu tình dục …

Nàng nâng lọn tóc xám

Và cố tóet miệng cười, “Đừng mang đến tôi những người mơ mộng.”

Cơ hội cuối cùng của nàng bây giờ là gặp gỡ Hòang tử.

“Những cuộc chiến tranh thầm kín đã qua, tôi cần sự bình yên

Không phải thuốc độc của lời mẹ tôi nói ‘Không!’

“Tôi đã tỉnh dậy vào tuổi năm mươi!”

“Nhanh lên, Hòang tử, chẳng mấy chốc tôi sẽ bị chảy máu.

Thời gian làm suy sụp con người chậm chạp khó tính trước.

Nhịp tim của tôi đập nhanh, đáng sợ về sự cho.

Giống như nhịp tim của mẹ tôi, mẹ tôi, mẹ tôi.

“Nhanh lên, Hòang tử. Tôi rất mệt vì sự sống.”

 

 

* Theo tác giả: Ronald Fairbairn là một trưởng Tô Cách Lan và là một nhà phân tâm học. Ông sử dụng một giấc mơ chính yếu của bệnh nhân như một ẩn dụ trung tâm mà tôi dùng ở trong và bên ngòai văn phòng của tôi. Đó cũng là một câu đố: Bạn ở một mình trong căn phòng và đói và có một tô súp bên cạnh. Nhưng tô súp đó đã bị bỏ thuốc độc. Hầu hết mọi người nói họ sẽ ăn tô súp. Tôi nói “Tại sao bạn không nói ‘Không’ và bước ra khỏi căn phòng.”

 

* Tác giả là một nhà thơ và một nhà phân tâm học. Nếu chúng ta đã đọc truyện Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, sẽ không thấy những chi tiết trên. Bài thơ chứa đầy ẩn dụ, và những ghi chú trên của tác giả hẳn sẽ giúp bạn đọc sắp xếp thành một câu chuyện khác.

 

THE PRINCE

 

In this fairytale of rescue we know well,

No one speaks of the Prince and what he’s giving

– His confidence, his courage, and his hope

 

Despite his journeys through his inner hell

– His fire-breathing Sis who couldn’t cope

With masculinity and independent living

 

So here’s Snow White, apparently not living.

Behind her glass, she doesn’t look too well.

Yet the Prince still has the innocence to hope

 

– Like Pop who would debase his youthful hope:

“Your sacrifice will make your sister well.

Watch me with Mom who’s never unforgiving.”

 

He can resuscitate her with this kiss he’s giving:

Warmed by the fire in her inner hell,

He doesn’t hear her cackle, “Your breath’s smoke.”

 

Or see the Mother Witch inside her unforgiving,

Or the Victim shouting in the mirror, “I can’t cope!

This Prince here thinks I’m actually living?

 

“He doesn’t know I’m happiest with dopes,

My seven ex-s with their dwarfish living.”

“I’m happiest, poor Prince, when I’m not feeling well,

 

“For I was fed red apples plucked from Hell.

I can’t digest your antidote of giving:

Your confidence, your courage, and your hope!”

 

HOÀNG TỬ

 

Trong truyện cổ tích về sự giải cứu, chúng ta biết rõ,

Không ai nói về Hòang tử và những gì chàng cho

– Sự tự tin, lòng can đảm và niềm hy vọng

 

Mặc dù hành trình của chàng xuyên qua địa ngục thâm sâu

– Người chị giận dữ của chàng không thể đối mặt

Với cuộc sống độc lập đầy nam tính

 

Giống như vua Pop hạ thấp niềm hy vọng trẻ trung của chàng:

“Sự hy sinh của ngươi sẽ làm cho chị ngươi hài lòng.

Hãy nhìn ta với mẹ ngươi không bao giờ khoan dung.”

 

Như vậy đây là bạch Tuyết, rõ ràng không còn sống

Đằng sau lớp kính, nàng nhìn không tươi thắm

Hoàng tử vẫn còn là sự ngây thơ để hy vọng

 

Chàng có thể làm nàng sống lại với nụ hôn:

Làm ấm lại bằng lửa nơi địa ngục thâm sâu của nàng

Chàng không nghe nàng động đậy gì, “hơi thở là khói”

 

Hoặc nhìn người Mẹ phù thủy bên trong sự không khoan dung,

Hoặc Nạn nhân gào lên trong tấm gương, “tôi không thể đối mặt!

Chàng hoàng tử này đây nghĩ rằng tôi thật sự đang sống?

 

Chàng không biết tôi hạnh phúc với những chất kích thích,

Bạch tuyết và bảy chú lùn của tôi với cuộc sống lùn tịt của họ.”

“Tôi hạnh phúc nhất, hỡi hoàng tử tội nghiệp, khi cảm thấy không                                                                                             khoẻ,

 

“Vì tôi được ăn những trái táo đỏ ngắt xuống từ địa ngục

Tôi không thể tiêu hóa thuốc giải độc chàng cho:

Lòng tự tin, sự can đảm, và hy vọng của chàng!”

 

FAIRYTALES

 

Story-tellers know what scholars learn

That we in time, because of time, must burn

And to the womb of Death we must return.

 

Fairytales tell us what we can’t forget;

That we are always children, to expect

The witches’ woods of trauma and neglect.

 

In almost every fairytale we’ve ever heard

We children can’t be seen, can’t say a word,

And know our Fate must always be absurd.

 

For instance, when the father suffers grief,

He sends us children to our stepmom’s double

Who puts us on a cross or bas relief.

 

Our task, then, is to be resurrected

By challenging the unexpected,

To re-appear the fractally perfected.

 

Hansel and Gretel, Snow White are the best

To learn from, learn never to trust or rest

– The poorest of us and the wealthiest.

When we toast Life, remember we’re Death’s guest.

 

TRUYỆN CỔ TÍCH

 

Những người kể biết gì những nhà học giả nhận biết

Rằng trong thời gian, bởi thời gian, chúng ta phải bị đốt cháy

Và trở về nơi tử cung của sự chết.

 

Những truyện cổ tích kể lại những gì chúng ta không thể quên;

Rằng chúng ta luôn luôn là những đứa trẻ, trông chờ

Những rắc rối và sao lãng của mụ phù thủy.

 

Trong hầu hết truyện cổ tích chúng ta từng nghe

Chúng ta những đứa trẻ không được thấy, không thể nói nên lời

Và biết rằng số phận chúng ta phải luôn luôn vô lý.

 

Chẳng hạn, khi người cha trải qua nỗi đau buồn,

Ông gửi chúng ta những đứa trẻ tới một bà không khác gì mẹ ghẻ

Đặt chúng ta lên thập giá hoặc để rơi vào tình trạng còi cọc.

 

Công việc của chúng ta, lúc đó, là phải sống lại

Bằng sự thách thức với điều-không-trông-đợi,

Để tái hiện điều-đã-được-hoàn-thiện từng phần.

 

Hansel và Gretel, Snow White là hạng nhất

Để học từ đó, học không bao giờ trông cậy hoặc bỏ qua

– Những kẻ nghèo nhất và những kẻ giàu nhất.

 

Khi chúng ta chúc mừng cuộc sống, nên nhớ,

                            chúng ta là người khách của Thần chết.

 

 

 

* Chú thích

Hansel (anh) và Gretel (em gái) là con một người tiều phu nghèo, bị ng­ười mẹ kế âm mưu làm cho người cha phải vào rừng, để tránh bớt miệng ăn. Trong rừng chúng phát hiện một ngôi nhà làm bằng bánh mì và bánh ngọt. Nhưng đó là ngôi nhà của một mụ phù thủy già, chuyên môn dụ dỗ con nít để ăn thịt. Bà ta bắt Gretel làm nô lệ, và nhốt Hansel trong một cái lồng sắt, nuôi Hansel cho mập để ăn thịt. Nhưng vì bà ta mù nên mỗi lần kiểm tra Hansel đưa ra một khúc xương. Sau một tuần, mất kiên nhẫn, bà ta sai Gretel đốt lò và thúc giục Gretel thò vào xem lò nóng chưa. Gretel làm bộ không hiểu, bà ta tức giận tự thò đầu vào, ngay lập tức Gretel xô bà ta vào trong lò lửa. Bà phù thủy cháy thành tro và hai anh em, vơ vét ngọc ngà châu báu tìm đường về nhà. Người dì ghẻ đã chết và người cha mừng rỡ đón các con trở về, sống trong giàu có.

 

Chích vào ngón tay, rơi 3 giọt máu xuống tuyết và thành cửa sổ màu gỗ mun. Bà ước sinh được một cô gái da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen mun. Chẳng bao lâu bà hạ sinh một công chúa với những đặc điểm trên, đặt tên là Bạch Tuyết. Ngay sau khi sinh Bạch Tuyết, bà qua đời.

 

Snow White, tức Truyện Bạch Tuyết và Bảy chú lùn. Ngày xưa có một bà hòang hậu, ngồi khâu ở cửa sổ, bất ngờ cây kim Nhà vua lấy vợ kế, rất đẹp nhưng tự cao. Bà ta có một chiếc gương thần, và thường hỏi gương, “Gương ơi, ai là người đẹp nhất trong đất nước này?” Và gương thần luôn luôn trả lời, “Bà là người đẹp nhất.” Nhưng khi Bạch Tuyết lên bảy thì gương thần trả lời, “Bạch Tuyết là người đẹp nhất.”

 

Vì lòng ghen tỵ, bà sai một người thợ săn mang Bạch Tuyết vào rừng giết đi, và mang về cho bà ta trái tim. Người thợ săn thả Bạch Tuyết đi và lấy tim một con nai nhỏ thay vào. Trong rừng, Bạch Tuyết được bảy chú lùn săn sóc. Về phần người dì ghẻ, bà biết Bạch Tuyết còn sống, khi hỏi gương thần. Bà thân vào rừng, ba lần hãm hại Bạch Tuyết nhưng đều được bảy chú lùn giải cứu. Cuối cùng, bà giả làm vợ một người nông dân, dâng trái táo có tẩm độc cho Bạch Tuyết. Bạch Tuyết ăn phải và rơi vào giấc ngủ hôn mê. Bảy chú lùn đặt Bạch Tuyết trong chiếc quan tài bằng kính. Thời gian trôi qua, có một hòang tử đi ngang, trông thấy Bạch Tuyết, bèn mang quan tài nàng đi. Trong lúc di chuyển, va vào bụi rậm, khiến cho miếng táo độc trong cổ họng rơi ra, đánh thức nàng dây. Hòang tử tuyên bố làm đám cưới với Bạch Tuyết.

 

Không biết Bạch Tuyết còn sống, một hôm bà dì ghẻ hỏi gương thần, gương thần trả lời, “Hòang hậu trẻ một nghìn lần đẹp hơn bà.” Không biết hòang hậu trẻ là con ghẻ của mình, bà tới dự đám cưới và chết điếng khi biết sự thật. Để trừng phạt, một đôi giày sắt được mang tới và buộc bà phải xỏ chân vào, và khiêu vũ cho đến khi ngã chết.

 

(Còn tiếp)

Comments are closed.