Diễn từ Nobel

Annie Ernaux

Hà Dương Tường dịch, Đỗ Tuyết Khanh hiệu đính

Hơn một tháng trước, Văn Việt đã đăng Diễn từ Nobel của Annie Ernaux do Minh Hùng dịch. Nay được biết có bản do Hà Dương Tường dịch, Đỗ Tuyết Khanh hiệu đính, Văn Việt xin đăng để bạn đọc có thêm chọn lựa.

Văn Việt

(ảnh chụp từ trang mạng của Nobelprize.org)

Bắt đầu từ đâu? Câu hỏi này, tôi đã tự hỏi mình hàng chục lần trước trang giấy trắng. Như thể tôi phải tìm ra một câu, duy nhất, cho phép tôi bắt đầu viết cuốn sách và ngay lập tức xóa tan mọi nghi ngại. Một loại chìa khóa. Hôm nay, đối mặt với một tình huống mà, sau khi đã sững sờ trước sự kiện – “điều này thực sự xảy ra cho mình ư?" – trí tưởng tượng làm tôi càng sợ, cũng nỗi lo ấy xâm chiếm tôi. Tìm được câu nào cho tôi thoải mái và vững vàng để nói mà không run, ở nơi mà các bạn mời tôi đến tối nay. (1)

Câu này, tôi không cần tìm đâu xa. Nó tự đến. Với tất cả sắc nét, dữ dội của nó. Ngắn gọn Không thể bác bỏ. Nó đã được viết sáu mươi năm trước trong nhật ký của tôi. "Tôi sẽ viết để trả thù cho giống nòi của mình". Vọng âm từ tiếng kêu của Rimbaud: “Ta là một giống nòi thấp kém từ muôn thuở”. Khi ấy, tôi hai mươi hai tuổi. Tôi là sinh viên Văn khoa của một trường tỉnh, giữa đám bạn học trai gái nhiều người thuộc tầng lớp tư sản địa phương. Tôi tự hào và ngây thơ nghĩ rằng viết sách, trở thành một nhà văn, ở cuối một dòng họ gồm nông dân không có đất, công nhân và tiểu thương, những người bị coi thường về cách cư xử, giọng nói, vốn văn hóa ít ỏi của họ, sẽ đủ để bù đắp những bất công xã hội do sự xuất thân mang lại. Rằng một chiến thắng cá nhân đã xóa bỏ hàng thế kỷ thống trị và nghèo đói, trong một ảo tưởng mà Trường học đã nuôi dưỡng trong tôi qua thành tích học tập của tôi. Làm sao thành tích cá nhân của tôi có thể chuộc lại bất cứ điều gì từ những sỉ nhục và xúc phạm đã phải gánh chịu? Tôi đã không tự hỏi mình câu ấy. Tôi có vài lý do.

Từ khi biết đọc, sách đã là bạn đồng hành của tôi, đọc sách là hoạt động tự nhiên của tôi ngoài trường học. Sở thích này được nuôi dưỡng bởi một người mẹ rất thích đọc tiểu thuyết giữa hai khách hàng trong cửa hàng của bà, bà thích tôi đọc sách hơn là may vá và đan lát. Sách là vật đắt tiền, đối tượng của mọi ngờ vực trong trường đạo của tôi, lại càng trở nên hấp dẫn hơn đối với tôi. Don Quixote, Gulliver Du ký, Jane Eyre, Truyện cổ tích của Grimm và Andersen, David Copperfield, Cuốn theo chiều gió, rồi Những người khốn khổ, Chùm nho nổi giận, Buồn nôn, Người xa lạ: hơn cả các chỉ đạo của nhà trường, chính ngẫu nhiên đã chọn lựa những gì tôi đọc.

Lựa chọn học văn là ở lại với văn chương, cái đã trở thành giá trị cao hơn tất cả những thứ khác, thậm chí một cách sống, cho phép tôi sống thật sự trong một cuốn tiểu thuyết của Flaubert hay Virginia Woolf. Một loại lục địa mà tôi vô thức đối lập với môi trường xã hội của mình. Và tôi chỉ nghĩ tới viết như khả năng biến đổi hiện thực.

Không phải việc hai hay ba nhà xuất bản từ chối một cuốn tiểu thuyết đầu tiên – cuốn tiểu thuyết mà công trạng duy nhất của nó là tìm kiếm một hình thức mới – đã làm giảm khát vọng và lòng kiêu hãnh của tôi. Chính những tình huống của cuộc sống trong một xã hội kỳ thị nam nữ nặng nề mới làm cho tôi thất vọng, một xã hội xác định các vai trò theo giới tính, cấm đoán tránh thai và coi việc chấm dứt thai kỳ là một tội ác. Là một phụ nữ có chồng và hai đứa con, với công việc giảng dạy và gánh nặng quản lý gia đình, mỗi ngày tôi càng rời xa viết lách và lời hứa trả thù cho giống nòi của mình. Tôi không thể đọc "Ngụ ngôn về luật pháp" trong Vụ án của Kafka mà không nhìn thấy trong đó hình bóng của số phận mình: chết mà chưa bước qua cánh cửa chỉ dành cho tôi, chưa viết xong cuốn sách mà chỉ mình tôi mới có thể viết.

Nhưng đó là không tính tới những ngẫu nhiên cá nhân và lịch sử. Cái chết của người cha qua đời ba ngày sau khi tôi về nhà trong kỳ nghỉ, chân giáo viên trong các lớp học có học sinh xuất thân từ tầng lớp bình dân giống tôi, các phong trào phản đối toàn cầu: rất nhiều yếu tố đã đưa tôi trở lại với gốc gác của tôi, với "giống nòi" của tôi, theo những con đường vừa bất ngờ vừa nhạy cảm, và điều đó đã biến khát vọng viết của tôi thành một điều cấp bách thầm kín và tuyệt đối. Lần này, vấn đề không phải là đắm chìm trong ảo tưởng “viết dù chẳng có gì” của tuổi đôi mươi, mà là lao vào những điều không thể nói thành lời của một ký ức bị kìm nén và đưa ra ánh sáng cách tồn tại của những người thân của tôi. Viết để hiểu những nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã đưa tôi xa rời cội nguồn của mình.

Không có lựa chọn viết nào là hiển nhiên. Song những ai, như dân nhập cư không còn nói ngôn ngữ của cha mẹ mình, và những người đã ra khỏi tầng lớp xã hội của mình, ngôn ngữ đã phần nào thay đổi, suy nghĩ và thể hiện bằng những câu chữ khác, tất cả đều phải đối mặt với những rào cản khác. Tiến thoái lưỡng nan. Quả vậy, họ cảm thấy khó khăn, thậm chí không thể dùng cái ngôn ngữ thống trị đã học, mà họ đã thành thạo và ngưỡng mộ trong các tác phẩm văn học, để viết mọi thứ liên quan đến cội nguồn của họ, thế giới đầu tiên của những cảm giác và từ ngữ mô tả cuộc sống hàng ngày, công việc, vị trí xã hội. Một mặt, có cái ngôn ngữ mà họ đã học để đặt tên cho mọi thứ, với sự thô bạo và những im lặng của nó, chẳng hạn như ngôn ngữ đối thoại giữa người mẹ và đứa con trai, trong văn bản rất hay của Albert Camus, “Giữa có và không”. Mặt khác là các hình mẫu trong các tác phẩm được nội tâm hóa, được ngưỡng mộ, những tác phẩm đã mở ra vũ trụ đầu tiên và họ cảm thấy mắc nợ vì nhờ chúng mà họ có được sự thăng tiến, thậm chí thường coi là tổ quốc thực sự của mình. Trong tổ quốc này của tôi có Flaubert, Proust, Virginia Woolf: khi tôi quay lại với viết lách, mấy vị này chẳng giúp được gì cho tôi. Tôi đã phải đoạn tuyệt với "viết hay", câu văn đẹp, là những thứ mà tôi đã dạy cho học sinh của mình, để lôi ra, phơi bầy và hiểu được sự rạn nứt trong con người tôi. Một cách tự phát, đến với tôi là tiếng gầm vang của một ngôn ngữ chuyên chở phẫn nộ và chế nhạo, thậm chí thô lỗ, một ngôn ngữ cực đoan, nổi loạn, thường được sử dụng bởi những kẻ bị làm nhục và bị xúc phạm, như cách duy nhất để đáp lại ký ức của những khinh bỉ, xấu hổ và xấu hổ là đã xấu hổ.

Rất nhanh chóng, và dường như hiển nhiên – đến mức không thể hình dung ra bất kỳ điểm xuất phát nào khác – tôi đã đặt câu chuyện về sự rạn nứt xã hội nơi tôi vào cái hoàn cảnh đã từng là của tôi khi còn là sinh viên, hoàn cảnh ghê tởm mà Nhà nước Pháp vẫn áp đặt lên phụ nữ, phải nhờ cậy đến một bà phá thai chui. Và tôi muốn mô tả mọi thứ xảy ra với cơ thể thiếu nữ của tôi, sự khám phá khoái cảm, kinh nguyệt. Do đó, một cách vô thức, cuốn sách đầu tay của tôi, xuất bản năm 1974, đã xác định lĩnh vực mà tôi sẽ đặt công việc viết lách của mình, một lĩnh vực vừa mang tính xã hội vừa mang tính nữ quyền. Trả thù cho giống nòi và cho giới tính của tôi từ nay về sau sẽ chỉ còn là một.

Làm sao một khi đã băn khoăn về cuộc sống mà không băn khoăn về viết lách? Không tự hỏi liệu viết lách củng cố hay làm xáo trộn những biểu tượng đã được chấp nhận, được nội tâm hóa về các sinh vật và sự vật? Với tính bạo lực và giễu nhại của chúng, phải chăng những bài viết nổi dậy đã phản ánh thái độ của kẻ bị chế ngự? Khi người đọc thuộc lớp người được ưu đãi về văn hóa, anh ta giữ thái độ trịch thượng, kẻ cả đối với nhân vật trong sách cũng như ngoài đời. Cái nhìn ấy không thể chấp nhận được nếu nó hướng về cha tôi, người mà tôi muốn kể lại cuộc đời, và tôi cảm thấy còn là một sự phản bội nếu không ngăn chặn nó. Chính vì thế mà tôi đã sử dụng, từ cuốn sách thứ tư của mình, một cách viết trung lập, khách quan, "phẳng lặng" theo nghĩa là nó không chứa ẩn dụ cũng như dấu hiệu nào của cảm xúc. Bạo lực không còn được phô bày nữa, nó đến từ chính sự kiện chứ không phải từ chữ nghĩa. Tìm được những ngôn từ chứa đựng cả thực tế và cảm giác do thực tế mang lại, đã trở thành cho đến tận ngày nay mối quan tâm dai dẳng của tôi khi viết, bất kể chủ đề gì.

Tiếp tục nói “tôi” là cần thiết đối với tôi. Ngôi thứ nhất – ngôi thứ mà qua đó, trong hầu hết các ngôn ngữ, chúng ta tồn tại, từ lúc chúng ta biết nói, cho đến khi chết –, trong văn học thường được coi là mang tính ái kỷ khi đề cập đến tác giả, khi không phải là một cái "tôi" hư cấu. Phải nhắc lại là cái "tôi", vốn là đặc quyền của giới quý tộc khi thuật lại những chiến công hiển hách trong các Hồi ký, ở Pháp là một thành quả dân chủ giành được trong thế kỷ 18, khẳng định quyền bình đẳng của các cá nhân và quyền trở thành chủ thể của lịch sử của họ, như Jean-Jacques Rousseau đã tuyên bố trong phần mở đầu đầu tiên của cuốn Những lời thú tội: "Và đừng ai cãi rằng, khi chỉ là một người của nhân dân, tôi không có gì nói đáng để độc giả quan tâm. […] Dù tôi có thể đã sống trong bóng tối nào, nếu tôi suy nghĩ nhiều hơn và tốt hơn các vị Vua, thì câu chuyện về tâm hồn tôi sẽ thú vị hơn câu chuyện của họ ”.

Không phải niềm tự hào bình dân này đã thúc đẩy tôi (tuy rằng…) mà là mong muốn sử dụng cái "tôi" – hình thức có cả nam tính và nữ tính – như một công cụ khám phá để ghi lại những cảm giác mà ký ức đã chôn vùi, những cảm giác mà thế giới xung quanh vẫn không ngừng đem cho chúng ta, ở mọi nơi và mọi lúc. Điều kiện tiên quyết của cảm giác đối với tôi vừa trở thành kim chỉ nam vừa đảm bảo tính xác thực cho sự tìm tòi của tôi. Nhưng với mục đích gì? Đối với tôi, vấn đề không phải là kể câu chuyện về cuộc đời mình hay giải phóng bản thân khỏi những bí mật của nó, mà là giải mã một tình huống đã trải qua, một sự kiện, một quan hệ yêu đương, và từ đó tiết lộ một điều gì đó mà chỉ viết lách mới cho phép tồn tại và truyền đạt sang ý thức và ký ức của người khác. Ai có thể nói rằng tình yêu, nỗi đau và tang tóc, sự xấu hổ, là không phổ quát? Victor Hugo đã viết: "Không ai trong chúng ta có vinh dự có cuộc sống của riêng mình". Nhưng vì mọi thứ đều được sống một cách nghiệt ngã trong trải nghiệm cá nhân – "điều đó xảy ra với tôi" – chúng chỉ có thể được đọc theo cùng một cách nếu cái "tôi" của cuốn sách, một cách nào, đó trở nên trong suốt và cho phép cái tôi của người đọc chiếm lĩnh nó. Tóm lại, nếu cái Tôi vượt khỏi cá nhân và cái riêng đạt tới độ phổ quát.

Đó là quan niệm của tôi khi dấn thân vào công việc viết lách, không phải là viết "cho" một loại độc giả, mà là "từ" trải nghiệm của tôi với tư cách là một phụ nữ và một người nhập cư nội địa, từ ký ức ngày càng dài của tôi về những năm tháng trải qua, kể từ hiện tại, không ngừng đem đến hình ảnh và lời nói của những người khác. Sự dấn thân như đem chính mình ra thế chấp trong viết lách, được củng cố bởi niềm tin, đã trở thành tin chắc, rằng một cuốn sách có thể góp phần thay đổi cuộc sống cá nhân, để phá vỡ sự cô đơn của những chịu đựng và kìm nén, để suy nghĩ khác về mình. Khi điều không thể nói ra lời được đưa ra ánh sáng, đó là chính trị.

Ngày nay chúng ta thấy điều đó với cuộc nổi dậy của những phụ nữ, những người đã tìm ra ngôn từ để lật đổ quyền lực của nam giới và đã đứng lên, như ở Iran, chống lại hình thức tàn bạo nhất và cổ xưa nhất của quyền lực đó. Tuy nhiên, viết ở một đất nước dân chủ, tôi vẫn tiếp tục băn khoăn về vị trí của phụ nữ, kể cả trong lĩnh vực văn chương. Họ vẫn chưa được thừa nhận là những người sáng tạo ra tác phẩm. Ở Pháp và trên khắp thế giới, có những trí thức nam giới coi những cuốn sách do phụ nữ viết ra như không hề có, và không bao giờ trích dẫn chúng. Việc Viện hàn lâm Thụy Điển công nhận tác phẩm của tôi là một tín hiệu của công lý và hy vọng cho tất cả các nhà văn nữ.

Đưa ra ánh sáng điều không thể nói ra được của xã hội, sự nội tâm hóa về các mối quan hệ thống trị giai cấp và/hoặc chủng tộc, cũng như giới tính, mà chỉ những người là đối tượng của nó mới cảm nhận được, mở ra khả năng giải phóng cá nhân và cả tập thể. Giải mã thế giới thực bằng cách tước bỏ những cái nhìn và giá trị tiềm ẩn trong ngôn ngữ, bất kỳ ngôn ngữ nào, là xô đẩy cái trật tự đã thiết lập, đảo lộn các thứ bậc.

Nhưng tôi không nhầm lẫn động thái chính trị này của văn học, lệ thuộc vào sự tiếp nhận của người đọc, với lập trường mà tôi cảm thấy bắt buộc phải có trước các sự kiện, xung đột và ý tưởng. Tôi lớn lên trong thế hệ sau thế chiến, khi việc các nhà văn và trí thức lấy lập trường đối với chính trị của nước Pháp và tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội được coi là một lẽ tất nhiên. Ngày nay không ai có thể nói liệu mọi thứ có thể khác đi hay không nếu họ đã không có tiếng nói và sự dấn thân đó. Trong thế giới hiện nay, với đủ loại nguồn thông tin, những hình ảnh nhanh chóng thay thế nhau, dẫn đến một tâm lý thờ ơ, người ta dễ có khuynh hướng chỉ tập trung vào nghệ thuật của mình. Nhưng đồng thời, ở châu Âu – vẫn còn bị che khuất bởi bạo lực của một cuộc chiến tranh đế quốc do nhà độc tài đứng đầu nước Nga tiến hành – sự trỗi dậy của hệ tư tưởng thoái lui và co cụm, đang lan rộng và ngày càng giành được chỗ đứng trong các nước cho tới nay vẫn là dân chủ. Trước hệ tư tưởng đó, chủ trương loại trừ người nước ngoài và người nhập cư, bỏ rơi những người yếu kém về kinh tế, giám sát cơ thể phụ nữ, đối với tôi cũng như đối với tất cả những ai coi giá trị của một con người là như nhau ở mọi lúc và mọi nơi, bổn phận là phải cảnh giác. Còn đối với nhiệm vụ cứu hành tinh, bị hủy hoại chủ yếu do sự tham lam của các cường quốc kinh tế, trách nhiệm đó không thể đè nặng lên những người vốn đã túng thiếu, như người ta có thể e ngại. Im lặng, vào những thời điểm nhất định trong lịch sử, là không thể chấp nhận.

Khi trao cho tôi danh hiệu cao quí nhất về văn học, quý vị đã đưa ra ánh sáng rực rỡ một công việc viết lách và nghiên cứu cá nhân được thực hiện trong cô độc và nghi ngại. Ánh sáng đó không làm tôi lóa mắt. Tôi không coi việc được trao giải Nobel là một chiến thắng cá nhân. Không phải vì tự kiêu hay khiêm tốn mà tôi cho rằng, một cách nào đó, đây là một chiến thắng tập thể. Tôi chia sẻ niềm tự hào về nó với những người, bằng cách này hay cách khác, mong muốn có nhiều tự do, bình đẳng và phẩm giá hơn cho tất cả mọi người, bất kể giới tính nào, màu da và nền văn hóa nào. Những người nghĩ đến các thế hệ mai sau, đến việc bảo vệ một Trái đất mà ham muốn lợi nhuận của một thiểu số vẫn tiếp tục biến nó thành một nơi ngày càng khó sống cho tất cả mọi dân cư.

Nếu nhìn lại lời hứa lúc hai mươi tuổi sẽ trả thù cho giống nòi của mình, tôi không thể nói liệu tôi đã thực hiện được hay chưa. Chính từ lời hứa này, và từ tổ tiên tôi, những người đàn ông và phụ nữ vất vả với những công việc đã khiến họ phải chết sớm, mà tôi đã nhận đủ sức mạnh và phẫn nộ để có khát khao và hoài bão chiếm cho lời hứa đó một chỗ trong văn học, trong sự hoà âm của những tiếng nói đa dạng từ rất sớm đã đồng hành cùng tôi bằng cách cho tôi tiếp cận những thế giới khác và những suy nghĩ khác, có cả suy nghĩ chống lại văn chương và muốn thay đổi nó. Để đem tiếng nói của tôi, một phụ nữ và một người thoát ly giai cấp vào cái không gian luôn tự xưng là một nơi giải phóng, văn chương.

Tư liệu dẫn trong bài:

Arthur Rimbaud, Édition critique. Introduction et notes par H. de Bouillane de Lacoste. Paris: Mercure de France, 1941

Jean-Jacques Rousseau, Œuvres complètes I. Les confessions. Édition publiée sous la direction de Bernard Gagnebin et Marcel Raymond. Paris : Gallimard, 1959

Victor Hugo, Œuvres complètes. Poésie V, Les Contemplations (Préface des Contemplations). Paris: Hetzel-Quantin, 1882

Bản gốc tiếng Pháp : https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2022/ernaux/201000-nobel-lecture-french/

Bản dịch tiếng Anh của Alison L. Strayer:  https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2022/ernaux/lecture/

(1) Đọc thêm: Annie Ernaux, nhà xã hội học của cuộc đời bản thân, phân tích của Đỗ Tuyết Khanh về tác phẩm của Annie Ernaux (nội dung, ý nghĩa, văn phong…) trên mặt báo này. (D.Đ.)

Nguồn: https://www.diendan.org/sang-tac/annie-ernaux-dien-tu-nobel

Comments are closed.