Chiến lược dạy chính tả*

Nguyễn Đức Dương

0. Tại sao mãi tới giờ, sau gần 16 năm cải cách giáo dục, học sinh (HS) ta vẫn còn viết sai chính tả (CT) và sai nhiều đến thế? Phải chăng họ chậm hiểu? Hay họ chưa chăm học? Hay giáo viên dạy họ chưa đủ tận tình? Muốn rõ hư thực ra sao, ta cần làm sáng tỏ hai điều chính:

[i] đâu là những nguyên nhân chính gây nên những “hạt sạn CT” trong bài vở các em?

[ii] SGK môn tiếng Việt hiện hành đã dùng chiến lược nào để dạy các em viết đúng CT?

Bây giờ, ta hãy cùng nhau xem kĩ lại từng điểm.

1. Những “hạt sạn” CT trong bài vở HS, theo kết quả chúng tôi điều tra được từ năm 1984 đến nay, chủ yếu đều chỉ do một nguyên nhân: do quên mặt chữ, nên các em đành hạ bút ứng phó theo đối sách đọc sao–viết vậy: một cách xử lý từng in đậm trong tâm thức họ ngay từ ngày được cắp sách tới trường lần đầu thông qua lối học đánh vần. Chẳng hạn, hễ quên cách viết đúng mấy từ

NHỎ ÚT MẮC DỊCH

các em có thể viết thành:

NHÕ ÚC MẮT VỊT,

vì hai dạng này đều có cách đọc (phát âm) y hệt nhau theo chuẩn phát âm của phương ngữ Nam Bộ hiện nay.

Cần nhớ rằng thứ phương ngữ này trên đà diễn biến đã thủ tiêu thêm nhiều thế đối lập ngữ âm: chẳng những đã nhập làm một cặp D-/GI- với R-, mà còn không phân biệt hàng loạt cặp âm đầu, âm chính cùng âm cuối lẫn hai thanh “hỏi” / “ngã”. Vì vậy, mặt chữ của hàng loạt từ ngữ chẳng còn phản ánh sát sao bộ mặt ngữ âm của nó, như có thể thấy trong nhiều phương ngữ khác. Điều đó cho thấy rõ đối sách đọc sao–viết vậy là một ông “quân sư” tồi: chẳng giúp ích được gì cho các em khi phải đối mặt với một loạt vấn đề CT “hóc búa”, mà nguyên do vốn chẳng dễ gì cắt nghĩa được ngay tức khắc.

2. Giới biên soạn SGK tiếng Việt cải cách, dĩ nhiên, chẳng xa lạ gì với thực trạng đáng ngại đó, và, tất nhiên, họ đã cố tìm đủ cách khắc phục. Thế họ đã tìm cách tháo gỡ theo chiến lược nào?

Đọc kỹ phần Chính tả trong 8 tập SGK và 4 cuốn bài tập từ lớp Hai đến lớp Năm (được coi là then chốt trong quá trình hình thành kỹ năng CT của HS) dành cho năm học 1996–1997 chắc ai cũng có thể dễ dàng thấy ngay: giới biên soạn đã cố tìm mọi cách để luyện cho học sinh phát âm đúng chuẩn (tức đúng chính âm [orthoepy]) bởi lẽ họ đinh ninh: hễ đọc đúng tự khắc viết đúng.

Cách lập luận này thoạt nhìn quả hấp dẫn khó chối cãi. Thật thế, “chữ viết ra đời là để ghi lại hệ thống ngữ âm của tiếng nói” (Lý Toàn Thắng 1982 : 23), và “với thứ chữ viết ghi âm như quốc ngữ chúng ta, cơ sở quyết định CT là phát âm” (Hoàng Phê 1979 : 5), nên thử hỏi: còn gì tự nhiêngiản dị bằng lấy phát âm làm điểm tựa cho CT, nhất là đối với đối tượng đang ở tuổi đầu đời?

Tiếc thay, giải pháp trên rõ ràng chưa đủ sức thuyết phục, vì nhiều lẽ:

a. Trước hết, mọi hệ thống âm chuẩn, theo nhiều khảo cứu có uy tín, vốn chỉ được xác lập qua một quá trình tự nhiên, kéo dài hàng thế kỉ, nên không thể nào đem ra dạy cho học sinh chỉ với dăm năm trời!

b. Vả chăng, “giọng” địa phương hiện vẫn đang được “trọng vọng” hết mức, nên chưa rõ nhà trường sẽ dùng áp lực nào để buộc cả thầy lẫn trò (vốn ít được trọng vọng hơn hết thảy trong cộng đồng) công nhiên thách thức cái cộng đồng nơi họ sinh trưởng bằng một việc làm còn tệ hơn cả “chửi cha” [người ta] là “pha tiếng”, như tục ngữ từng đúc kết?

c. Hơn nữa, dù cả thầy lẫn trò có thành công mĩ mãn trong việc giúp nhau đọc đúng chuẩn chăng nữa thì các em vẫn chưa thể viết đúng. Lý do thật dễ hiểu: CT chữ quốc ngữ tuy theo rất sát nguyên tắc ngữ âm học, nhưng trong khá nhiều trường hợp vẫn còn bị chi phối bởi nguyên tắc truyền thống và nguyên tắc từ nguyên. Chẳng hạn, ta vẫn phạm lỗi CT như thường nếu viết

Y DƯỢC thành I GIƯỢC

CON CHÁU – CON CHẮU

ƯỚC MUỐN – ƯC MUỐN

QUỐC GIA – CUỐC DA,

v.v., tuy mấy cặp từ ngữ trên đều có cách phát âm giống hệt nhau theo theo chuẩn hiện thời.

Cần lưu ý thêm: mặc dù chẳng hề có một thứ chữ viết nào hoàn toàn độc lập đối với mặt âm mà từ đó nó sinh ra, nhưng cũng đừng nên quên rằng mặt chữ và mặt âm hay ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, vốn có đặc điểm khác nhau, chức năng khác nhau và “do đó, cả sự tồn tại cùng sự hành chức và phát triển cũng chả giống nhau” (Hoàng Tuệ 1979 : 148). Một giải pháp CT mà không đếm xỉa gì đến sự kiện chữ viết, “một thực thể được coi là tồn tại riêng, chứ chẳng phải là cái chuyển thân từ mặt âm mà có” (Hoàng Tuệ 1979 : 148) quả rất khó được đánh giá là thượng sách! Và những thành quả quá nhỏ nhoi mà chiến lược đó gặt hái được trong hơn mười mấy năm qua là một bằng chứng hùng hồn về tính kém hiệu quả của nó!

3. Vậy, đâu là giải pháp tối ưu cho vấn đề?

Theo học giả Phan Ngọc (1982 : 7), “đa phần người viết đúng CT hiện nay, nói chung, đều dựa vào cách nhớ từng chữ một, tuy đây là giải pháp thường bị giới giáo dục chỉ trích hết sức gay gắt và bị coi rẻ nhất. Lý do tưởng chả có gì là khó hiểu: nó buộc HS phải học thuộc lòng mặt chữ khoảng trên sáu nghìn âm tiết có mặt trong tiếng mẹ đẻ hiện thời, một công việc vừa hết sức tẻ, vừa mất bao công.

Nhưng nếu nhìn từ một góc độ khác, ta sẽ thấy sự thể chưa hẳn đã đáng buồn đến thế.

Thật vậy, trong số hơn sáu nghìn âm tiết ấy hoá ra chỉ có chừng hơn một nửa là thông dụng (hay gặp). Bằng chứng? Nếu không tra từ điển, chắc chả ai trong chúng ta có thể ngờ rằng tiếng mình lại có những từ, như biêu (danh), (rách) bướp, lúc lỉu, quọ, rỏn, xền, xều, xười, v.v. Hơn nữa, không ít từ ngữ thuộc loại ít gặp vừa nêu chúng ta chỉ dùng nhiều lắm là vài ba lần trong cả một đời người, nên cứ để HS tự trang bị lấy thiết tưởng đỡ mất công sức và thời giờ hơn là đưa vào SGK.

Vả chăng, con số các từ ngữ không có vấn đề CT (tức HS rất khó có cơ viết sai), chẳng hạn, có, thì, là, đi, nó, như, ạ, à, mẹ, bố, u, v.v. chiếm tới gần 1/3 trong tổng số âm tiết hay gặp còn lại.

Chúng tôi có thử tính con số đó theo bản danh sách các từ hay gặp nhất do Remarchuk & Makagonov (1976) thống kê thì thấy: tổng số các từ “không có vấn đề CT” lên đến 88/319 từ. Tính toán theo Từ điển điện tử tần số tiếng Việt hiện đại của Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ (1991-96), kết quả thu được còn đáng lạc quan hơn: 99/ 320. Riêng với HS phát âm theo giọng Hà Nội, số từ mà các em dễ dàng viết đúng còn cao hơn thế nhiều: đến 252 từ!

Thêm vào đó, nếu biết khai thác thói quen viết lách của các em (chẳng hạn, hầu hết có xu hướng viết ch- thay vì tr-, viết d- thay vì gi-), thì số từ cần dạy còn ít hơn, bởi lẽ trong số 65 từ “có vấn đề CT” kia, những từ mở đầu bằng ch- là 19; còn bằng tr- chỉ có 12; bằng s- là 11; còn bằng x- chỉ có 4; bằng d- là 9; còn bằng gi- chỉ có 3 và bằng r- chỉ có 5; nghĩa là ta chỉ cần dạy cho HS có 12 từ với âm đầu tr, 4 từ với âm đầu x-, 3 từ với âm đầu gi-, tổng cộng là 19 ! Con số vài chục này chắc chắn sẽ càng tăng thêm sức “quyến rũ” khi ta lưu ý thêm rằng “mức độ lấp đầy văn bản” của 319 từ kia rất cao: lên đến 66,53%. Nói cách khác, hễ viết đúng CT 319 từ kia, ta có thể tránh được gần 70% lỗi CT có thể mắc.

4. Từ những gì vừa trình bày, ta có thể đi đến vài kết luận.

a. Nên biên soạn một bộ từ điển các từ hay gặp trong tiếng Việt để trên cơ sở đó tính toán và phân chia số lượng từ ngữ cần dạy cho HS từng lớp, từng năm học ở bậc phổ thông sao cho sát hợp với tình hình của từng địa phương. Tránh lối phân bố chương trình thiếu bài bản, như SGK hiện hành, để giáo viên có một tiêu chuẩn phân minh về lượng từ vựng cần viết đúng CT của từng lớp và nhất là HS khỏi phí thì giờ học những điều mà họ đã biết quá rõ, chẳng hạn, HS Hà Nội khỏi phải nhọc công với chuyện viết đúng hỏi/ngã; còn các em Thành phố Hồ Chí Minh đỡ phải khổ luyện việc phân biệt l-/n-.

b. Biên soạn một hệ thống bài tập về CT thật đa dạng và hoàn chỉnh, để HS có điều kiện rèn luyện kỹ năng nhớ mặt chữ của từng từ, và luôn tự nhắc mình : Coi chừng, đừng để cách phát âm thao túng đầu óc ta, vì diện mạo ngữ âm và diện mạo chữ viết chẳng phải lúc nào cũng tương ứng một-đối-một!”.

c. Nhân tiện xin nói thêm: đừng dạy trẻ đánh vần theo kiểu từng được sử dụng trong phong trào “xoá mù” hồi nước ta mới giành được độc lập: i” + “tờÞ “tờ + i Þ ti. Tại sao? Cách này tuy giúp trẻ chóng biết “đọc” (chỉ mất nhiều nhất là mươi tuần lễ !), nhưng đi ngược với mọi thành tựu khoa học hiện đại. Trước hết, chúng ta đọc một văn bản bằng mắt (tiếp nhận hình tượng thị giác của từ ngữ), chứ không phải bằng tai (hình tượng âm thanh), như nhiều thực nghiệm tâm lý từng chỉ rõ (xin tham khảo thêm Adreas & Adreas 1994). Hơn nữa, cách dạy này gieo vào cảm thức trong trắng của các em lối hình dung sai lạc về vỏ ngữ âm của từ ngữ, chẳng hạn:

a đi với o không thể là ao (mà phải là a + u),

a đi với u không thể là au (mà phải là ă + u),

i đi với a không thể là ia (mà phải là i + ơ), v.v.

Chẳng phải vô cớ mà hiện thời ở bất cứ quốc gia nào người ta cũng dạy HS đọc từng từ một, chứ không dạy đánh vần. Sau cùng, lối học đánh vần này lại chính là thủ phạm của “hạt sạn” CT đủ mọi loại khó dung thứ, mà HS khó tránh suốt nhiều năm về sau, và cũng là một rào cản khó vượt nhất khi họ cần học ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, tiếng Pháp.

PHỤ LỤC

DANH SÁCH CÁC TỪ HAY GẶP NHẤT SẮP XẾP THEO TẦN SỐ

I. Theo V. Remarchuk và R. Makagonov (1976)

1 không 2 có

3 tôi 4 anh

5 một 6 người

7 thì 8 con

9 cái 10

11 đi 12 lại

13 nó 14 cho

15 cũng 16 phải

17 ở 18 ra

19 như 20 đã

21 thế 22 nhà

23 làm 24 mà

25 được 26 rồi

27 ông 28 đến

29 của 30 còn

31 này 32 những

33 với 34 gì

35 nào 36 vào

37 về 38 và

39 ấy 40 cả

41 nói 42 lên

43 để 44 trong

45 nhưng 46 mình

47 bà 48 hai

49 các 50 chúng

51 chị 52 ta

53 biết 54 em

55 cứ 56 đồng

57 thấy 58 đâu

59 sao 60 nữa

61 đây 62 mới

63 thằng 64 giờ

65 đấy 66 nước

67 trên 68 mấy

69 từ 70 ăn

71 lúc 72 mặt

73 tay 74 ngày

75 đâu 76 làm

77 chứ 78 lấy

79 ai 80 chết

81 đánh 82 mẹ

83 vẫn 84 họ

85 đó 86 năm

87 việc 88 nhau

89 nhge 90 khi

91 mày 92 cô

93 bị 94 vừa

95 xuống 96 nay

97 chi 98 chưa

99 bác 100 qua

101 tiếng 102 bộ

103 vậy 104 đội

105 cháu 106 làng

107 vì 108 quá

109 trước 110 cụ

111 hay 112 hôm

113 quan 114 sau

115 à 116 ba

117 đường 118 chuyện

119 nhiều 120 bên

121 muốn 122 chạy

123 công 124 hết

125 thật 126 vợ

127 nên 128 chàng

129 nhìn 130 mắt

131 hơn 132 báo

133 bao 134 bây

135 chú 136 chị

137 kia 138 nghĩ

139 hàng 140

141 mất 142 bắt

143 đêm 144 nếu

145 ngày 146 cậu

147 hỏi 148 sáng

149 tiền 150 lần

151 bằng 152 khác

153 tao 154 nhất

155 lòng 156 thành

157 nhớ 158 theo

159 tự 160 bố

161 đứng 162 chỗ

163 thế 164 sẽ

165 xin 166 đừng

167 mỗi 168 tối

169 đang 170 đưa

171 rất 172 chân

173 chồng 174 thương

175 đời 176 cây

177 nằm 178 sự

179 xe 180 sống

181 chịu 182 lo

183 dân 184 định

185 động 186 càng

187 máy 188 buồn

189 đứa 190

191 mai 192 trời

193 bảy 194 cách

195 xa 196 cần

197 cơm 198 cùng

199 sợ 200 giữa

201 khổ 202 chiếc

203 tây 204 trông

205 lẽ 206 tưởng

207 xem 208 báo

209 bỏ 210 hẳn

211 tin 212 tình

213 ý 214 ngủ

215 quanh 216 thêm

217 từng 218 vô

219 thử 220 đều

221 vui 222 xong

223 bọn 224 cao

225 chả 226 cửa

227 gần 228 lao

229 lớn 230 nhận

231 quân 232 trở

233 bán 234 bóng

235 bốn 236 chơi

237 đem 238 đủ

239 học 240

241 chắc 242 cười

243 hiểu 244 áo

245 câu 246 mười

247 tới 248 u

249 chính 250 gặp

251 pháp 252 bắn

253 dưới 254 núi

255 xóm 256 bé

257 cha 258 già

259 ít 260 tâm

261 mươi 262 nhân

263 nhỏ 264 ruộng

265 súng 266 mãi

267 nuôi 268 quả

269 ban 270 sang

271 tháng 272 to

273 dài 274 đàn

275 đình 276 lâu

277 nỗi 278 số

279 cảnh 280 chiến

281 đỏ 282 đôi

283 gọi 284 thanh

285 bước 286 chủ

287 phủ 288 tìm

289 bàn 290 chung

291 mọi 292 ngọn

293 nhiêu 294 phố

295 tất 296 thân

297 tí 298 tụi

299 coi 300 gió

301 giữ 302 khó

303 thiếu 304 cuộc

305 mua 306 sáu

307 sinh 308 thường

309 tính 310 vài

311 bào 312 buổi

313 cảm 314 cơ

315 đen 316 đói

317 hình 318 hơi

319 luôn

II. Theo Đặng Thái Minh và Nguyễn Vân Phổ (1991-1996)

1 của 2 có

3 và 4 một

5 là 6 không

7 người 8 những

9 cho 10 được

11 trong 12 đã

13 các 14 khi

15 với 16 vào

17 ở 18 đến

19 để 20 cũng

21 ra 22 về

23 con 24 như

25 thì 26 còn

27 lại 28 đó

29 năm 30 phải

31 làm 32 ông

33 họ 34 này

35 thể 36 từ

37 sự 38 mà

39 nước 40 trên

41 nhiều 42 nhà

43 khác 44 chi

45 sau 46 nhưng

47 theo 48 ngày

49 chúng 50

51 sẽ 52 ta

53 bị 54 thấy

55 số 56 đi

57 lên 58 thế

59 bạn 60 cái

61 tại 62 mới

63 biết 64 rất

65 hàng 66 trước

67 cách 68 mình

69 nó 70 bằng

71 anh 72 việc

73 đây 74 nào

75 nói 76 loại

77 rằng 78 nhất

79 cuộc 80 do

81 qua 82 đầu

83 cả 84 thứ

85 vẫn 86 dùng

87 sống 88 hết

89 vậy 90 tôi

91 cùng 92 nên

93 lớn 94 lúc

95 thật 96 đang

97 mặt 98 mỹ

99 đường 100 nếu

101 bà 102 ăn

103 tay 104 cây

105 lần 106 nay

107 rồi 108 đời

109 đều 110 nhau

111 em 112 ấy

113 điều 114 pháp

115 chính 116 học

117 khoảng 118 cao

119 thế 120 giới

121 ngoài 122 cô

123 hơn 124 chưa

125 kẻ 126 mỗi

127 vừa 128 cần

129 dưới 130 đất

131 nhỏ 132 ai

133 phần 134 kể

135 nơi 136 lấy

137 thịt 138 chuyện

139 máy 140 tìm

141 hình 142 bên

143 vàng 144 muốn

145 thời 146 yêu

147 sao 148 ba

149 dài 150 tới

151 mọi 152 hỏi

153 bộ 154 chữ

155 mắt 156 câu

157 hành 158 vài

159 viết 160 trẻ

161 thành 162 tuổi

163 bệnh 164 bài

165 khoa 166 học

167 vợ 168 từng

169 tháng 170 lòng

171 loài 172 tiếng

173 chết 174 phụ

175 nữ 176 tiền

177 khó 178 màu

179 nghiên 180 cứu

181 khỏi 182 chẳng

183 vùng 184 thường

185 châu 186 chân

187 ngay 188 quá

189 bỏ 190 dân

191 nữa 192 ít

193 mẹ 194 lời

195 chồng 196 bé

197 thời 198 gian

199 xem 200 chiếc

201 tên 202 đưa

203 đặt 204 nổi

205 haỹ 206 kinh

207 tế 208 mang

209 gia 210 đình

211 thuốc 212 xuống

213 đẹp 214 sức

215 tất 216 mai

217 tình 218 thêm

219 hát 220 khả

221 năng 222 phim

223 trái 224 thế

225 kỷ 226 triệu

227 xe 228 kiểu

229 sách 230 mất

231 dù 232 chó

233 tin 234 việt

235 nam 236 tạo

237 vấn 238 đề

239 da 240 đôi

241 càng 242 khách

243 tính 244 trời

245 đánh 246 thực

247 hiện 248 cứ

249 đầu 250 tiên

251 đối 252 với

253 kia 254 khá

255 phòng 256 kỹ

257 thuật 258 nhìn

259 lá 260 đàn

261 ông 262 cửa

263 nghe 264 vị

265 đủ 266 chất

267 sông 268 trung

269 quốc 270 đem

271 chơi 272 sang

273 kéo 274 nhận

275 trở 276 thành

277 chịu 278 chung

279 dễ 280 bột

281 tốt 282 trường

283 vua 284 bắt

285 cổ 286 sử

287 dụng 288 phía

289 hạnh 290 phúc

291 bởi 292 phát

293 triển 294 đáng

295 đúng 296 hãng

297 biển 298 cá

299 mua 300 uống

301 bánh 302 sáng

303 riêng 304 lâu

305 tiêu 306 xã

307 hội 308 tim

309 trắng 310 bay

311 đâu 312 luôn

313 đá 314 đọc

315 thơ 316 nằm

317 nhật 318 bàn

319 chỗ 320 bước


* Xin tham khảo theâm treân tạp chí “Thoâng tin khoa hc vaø coâng ngh của Sở Khoa học, Coâng nghệ vaø Moâi trường Thừa Thieân – Huế, s 3-1996 hoặc treân tạp chí NGOÂN NGÖÕ & ÑÔØI SOÁNG, soá 4 -1997.

Comments are closed.