Ngụ ngôn giữa đời thường: Việt Nam giữa Canada; Ta giữa Tây; dân tộc giữa nhân loại (kỳ 2)

Đỗ Quyên

III. Viết văn là kể chuyện

Quan niệm vậy có từ thuở hồng hoang của văn học viết. Vì, viết, đó là nói bằng tay – qua ngôn tự! Nhà văn cừ nhất ấy là kẻ kể hay nhất, “dẻo tay” nhất.

Trong các hình thức diễn ngôn truyện nói riêng và văn xuôi nói chung, hãy tạm chia bốn loại chính: Kể, Thuật; Tả, Diễn; Thoại; Luận, Bình. Ở cả hai thi pháp/phong cách (với mốc trước và sau năm 2018), sở trường của McAmmond Nguyen Thi Tu là văn trần thuật, kể một câu chuyện trước sau gì cũng trọn vẹn; đôi khi xen lẫn bình, luận. Thoại (đối thoại, độc thoại) và diễn biến tâm lý là sở đoản.

Như là một trong những cây bút chuyên về đời di dân, tác giả của các bạn đã chọn cách viết “đúng sách” theo các nhà lý luận:

Về đối tượng, hình thức diễn ngôn và tiêu điểm truyện/focus of narrative: “Hiện tượng lưu xứ thường được thể hiện như một thể tài mới trong lối viết cá nhân. Điểm chung của các tác phẩm là thường viết về hành trình hiện hữu và dịch chuyển của cá nhân trong những tương quan với cộng đồng và không gian xã hội.”1][ĐQ nhấn mạnh]

Về điểm nhìn và cách thức kể: “Ý thức giới thể hiện rõ ở phương thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất, nhân vật tôi/đàn bà/người kể chuyện kể chuyện mình, chuyện giới mình, chuyện thế sự… qua trường nhìn phụ nữ. Về phương diện này, các nhà văn nữ thường chọn hình thức tự thuật. Điểm nhìn của chuyện/truyện hầu hết đều là điểm nhìn bên trong. Nhân vật và người kể chuyện cũng thường đồng nhất, xưng tôi để kể những chuyện chỉ riêng tôi mới biết (chuyện trinh tiết, chuyện trở thành đàn bà, chuyện ngoại tình, chuyện chối bỏ bản năng làm mẹ…) Những bí ẩn giới tính trong nhiều trang văn nữ giới trở thành những sự chia sẻ, trải lòng.”[2] [ĐQ nhấn mạnh]. Cũng có thể thấy vậy với McAmmond Nguyen Thi Tu, qua ý kiến của nữ biên tập chính từ một nhà làm sách có uy tín hàng đầu Việt Nam là Nhã Nam[3].

Chúng ta đang đi vào dòng truyện ngắn có phong cách trần thuật như sau:

Cả hai lối viết – kể thuật hiện thực hay phúng dụ ảo dị – đều giàu tính tự truyện. Câu chuyện được trình diễn mạch lạc, cấu trúc truyện chặt chẽ, bố cục tuần tự theo logic (dù có kết hợp đồng hiện, cắt dán không gian và thời gian), mạch văn thản nhiên trôi chảy, chi tiết rậm rạp cứ đan cài nhau, miêu tả sát thực như có thể cầm nắm, không khí truyện sinh động như “lên đồng”, diễn tiến có đầu có cuối theo số phận nhân vật, xung đột liên tiếp phát triển không theo tâm lý nhân vật mà qua các sự cố bất ngờ. Xoay đảo ý tứ gấp như vòng cua tay áo mà bám riết ý đồ[4]. Trữ tình nội tâm hoàn toàn không thuận tay với tác giả. Tình huống truyện không theo cung cách phân tách mâu thuẫn, thắt mở nút tâm lý. Có thể gọi đây là dòng truyện không-tình-huống-chính, không-tứ-truyện, thậm chí không-nhân-vật. Chi tiết, chi tiết và chi tiết! Ý tưởng, ý tưởng và ý tưởng! Truyện McAmmond Nguyen Thi Tu là cuộc hôn phối giữa người Nữ Chi tiết và người Nam Ý tưởng. Mạnh, và cũng là yếu, tùy từng truyện. Mà cũng bởi thế lối văn này có ít khoảng trống nghệ thuật dành cho loại bạn đọc năng động cùng tham dự (ngay cả không cần đồng sáng tạo như phái Hậu hiện đại). Nó để lại bài học sau những cái kết thường là đột ngột như kết tụ của vô số chi tiết bằng một thứ hóa chất đặc biệt. Hóa chất đó là tính ngụ ngôn hiện đại! Truyện ngắn như thế không chỉ là câu chuyện của tình tiết có thủy có chung, mà quan trọng từ đó đi tới một hay nhiều điều cần nói: ý tưởng. điều cần nói: ý tưởng. Tuy nhiên, thái quá bất cập. Đến như nhà văn tầm vóc hàng đầu không chỉ ở miền Nam trước 1975 mà còn của cả Việt Nam thế kỷ trước là Bình Nguyên Lộc vẫn còn bị nhiều nhà phê bình chê, mạnh nhất là Võ Phiến: “Rốt cuộc ông lâm lụy vào hai cái ấy: truyện rộn ràng tình tiết và nặng giảng giải.”

Về mặt vận chữ dụng nghĩa, thoạt mới coi quý vị nào “vội mắt chậm óc” cứ tưởng ngữ ấy là viết không có văn. Thưa, bé cái nhầm! Đấy không làm-văn. “Văn” ấy câu chữ gãy gọn, cung cách tự tin như loại tác-giả-biết-tuốt bằng lối nói bình thường đượm vẻ tếu hài và điểm xuyết kinh sách, điển tích, ngụ ngôn, kiến thức… “Văn” ấy luôn trao khoảng cách thân thiện cho độc giả, chu đáo với nhân vật, tinh tường với chi tiết, căng thẳng và mạnh mẽ với oan trái và thách đố, song vẫn đủ lịch sự, trầm tĩnh (mà những khi thật cần nhân vật cũng được chửi thề như ai!) “Văn” ấy thường ngắn câu. Từ ngữ nào cũng có trong từ điển hoặc dân gian. (Hiếm có từ nào made by McAmmond Nguyen Thi Tu!) Chủ vị rành mạch. Chấm phẩy cực chuẩn. “Văn” ấy rất dễ chuyển dịch qua các ngôn ngữ khác, vì không tu từ, ẩn dụ ngôn tự; còn phúng dụ toàn bộ ý tưởng thì có. Không dành cho những bạn đọc chuộng lối diễn tả mạnh bạo hành vi và cuồn cuộn từ vựng của Trần Vũ, hay cù cưa thổ ngữ tâm tình gái đất Mũi ở Nguyễn Ngọc Tư. Thật ra, văn chương McAmmond Nguyen Thi Tu kết hợp thuần thục ba hình thức: văn nói kể chuyện một lèo “có sao nói vậy người ơi” ở cánh phụ nữ gia đình; văn viết tường thuật chi tiết, chính xác và khoa học của báo chí; và văn giảng chuẩn mực, bao quát, lý giải trong giới mô phạm. Chị làm chủ, thấm sâu các hình thức ngôn ngữ. Nếu như tới một ngày Chúa gọi, cho những trang tiêu biểu từ lối viết ấy vào sách giáo khoa tiếng Việt, chúng tôi cũng chẳng ngạc nhiên. Dẫu dòng văn mà Chúa tạo ra đó vẫn còn vắng chút duyên lộ. Mời các bạn xuống phần Chú thích để đến với hai trường đoạn đặc trưng (cả hay lẫn chưa hay): Lối viết quen thuộc của tác giả trước đây[5], và lối viết đổi mới từ năm 2018[6].

Ngữ điệu trữ tình sao mà hiếm gặp (có nhẽ chỉ ở Lời nguyện nửa khuya Người tình ký ức)? Bao trùm một giọng điệu hiện thực trung dung, rạch ròi (góp phần mách bảo người viết ra chúng đích thị con nhà gốc miền Bắc); lãng đãng cùng giọng điệu hài hước giễu cợt – ấy cái uy-mua bóng bảy, dông dài Bắc Kỳ mà không đến nỗi chì chiết mưa phùn do được pha chút gió biển hồn nhiên của dân Trung. Cũng là theo hướng khôi hài đen/black humor không nhân nhượng trước cái trớ trêu bi hài từ các trò đời, song phải công nhận là ý vị. Không lẫn được với các tay bút khác. Chúng tôi muốn gọi đó là kiểu khôi-hài-nâu McAmmond Nguyen Thi Tu.

Tức là ở tác giả này, viết văn là kể lại theo đường lối truyền thống chân chỉ. Vâng, đúng vậy và còn hơn vậy nữa: Kể lôi cuốn! Phong cách trần thuật vẻ như chưa thật độc đáo mà vẫn dư dấu ấn văn chương và ánh sáng nhân tính nơi lòng độc giả. Tâm niệm vậy dễ đưa tới chân lý: Văn là sự kể chuyện sao cho nhân văn, chân thực và nghệ thuật[7]. Đủ ba chân đế Chân-Thiện-Mỹ.

IV. Soi vào tiêu chuẩn truyện ngắn

Như ở một bài trước đây bàn về truyện ngắn của tác giả khác[8], chúng tôi sẽ thử tham chiếu truyện McAmmond Nguyen Thi Tu với các nhận định kinh điển về truyện ngắn hiện đại thế giới[9].

• “Thông thường, giáo trình kỹ năng truyện ngắn của các lớp dạy viết văn hình thành từ năm yếu tố: 1. Ý tưởng và đề tài; 2. Tình huống; 3. Nhân vật; 4. Kết cấu và chi tiết; 5. Ngôn ngữ và giọng điệu. Các thành phần khác như cốt truyện, xung đột, điểm nhìn/người trần thuật, bối cảnh, hình tượng, ẩn dụ… được gia giảm tùy bục giảng.”

Truyện McAmmond Nguyen Thi Tu (McA NTT): Ý tưởng được đầu tư kỹ, nhất là ở lối viết mới; thể tài hơi đơn điệu khi cố thủ cuộc sống di dân và bản ngã. Tình huống chủ đạo hầu như không có; nhiều tứ truyện trong một truyện đến mức truyện như không cần tứ10] mà bù vào vô số các chi tiết (Bữa tiệc gà tây; Đêm hoang mạc; Lông ngỗng trắng; Máu trên tuyết…) Dưới ý đồ ngụ ngôn tác giả không tạo nhân vật văn học; các nhân vật chỉ như nhiều nhánh hoa rải trong vườn chứ không làm một khóm hoa lớn. (Ở tất cả các truyện trừ Bóng ma quá khứ). Ngôn ngữ và giọng điệu hầu như chỉ theo phong cách trần thuật. Cốt truyện: Đa dạng, thay đổi vô lường, nhiều sáng tạo trong Chín mươi giây; Bữa tiệc gà tây; Chuyến hành trình sau chót; Cuộc đời bắt nạt; Người tình ký ức; bt. Xung đột truyện thường là mâu thuẫn văn hóa, hướng tới bản-ngã-con-người và ít coi trọng đặc thù văn học ở từng nhân vật nơi mà bản-ngã-cá-thể được xuất hiện. (Bóng ma quá khứ là truyện duy nhất không vậy, và thành công như một truyện ngắn “chuẩn” về mặt này và về tứ truyện).

• “Đối với truyện ngắn hay, có một vấn đề đặc biệt quan trọng, đó là bảo vệ cho được tính xác định về mặt thể loại. Truyện ngắn cần phải cô đọng đến mức cao nhất. Vấn đề số một đối với nó là vấn đề dung lượng – ‘tất cả trong một’”; “Tính thuyết phục của sự hư cấu của truyện ngắn nằm ở sự nhỏ gọn nhưng đầy đủ của nghệ thuật trần thuật.”

Truyện McA NTT: Có lẽ tác giả đã “tụng kinh” những lời trên trong khi viết năm truyện viết theo lối mới? Trước năm 2018 thì vẫn “bảo vệ cho được tính xác định về mặt thể loại”, song “cô đọng đến mức cao nhất” thì e rằng chẳng truyện nào đạt được! Ở các truyện kể thuật quen thuộc, bạn đọc sẽ không dễ nhận ra chất hư cấu sinh ra từ đâu – từ hư cấu chi tiết/kỹ thuật hay hư cấu cốt truyện/nghệ thuật, hay cả hai. Chúng tôi vừa có dịp đọc lại một cái viết mẫu mực hệt như yêu cầu trên cho nghệ thuật truyện ngắn kinh điển: Giấc ngủ trưa thứ ba, của “ông lớn” Gabriel G. Marquez11].

• “Truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch”.

Truyện McA NTT: Quả vậy. Có điều “mạch” trong dòng truyện này hơi bị nhiều!

• “Có thể cho rằng, truyện ngắn hiện đại với hình hài và phẩm chất như hiện nay, là khởi đầu từ Mỹ.

Truyện McA NTT: Đúng! Khác truyện ngắn Nga, Pháp, Đông Âu, ở đây không dẫn dụ câu chuyện theo kiểu trữ tình tâm lý, diễn giải nội tâm dông dài mà trình bày hiện thực một cách dóng diết. Có phần khắc nghiệt. Nhân vật truyện cũng không được chầm bập quan tâm như là con cưng của tác giả. Còn cách tháo nút và kết truyện lại không tự nhiên như truyện Bắc Mỹ, mà thường bằng các bi thảm cụ thể: từ thất bại tình cảm (Lời nguyện nửa khuya; Lông ngỗng trắng; Kiếp chó; Người tình ký ức; Bữa tiệc gà tây; Chuyến hành trình sau chót) đến khủng hoảng tâm lý (bt; Không ai yêu thương tôi; Dâng hiến; Chín mươi giây; Đường đến cõi Sa-ma-đi), cuối cùng là án mạng (Linh hồn tôi đâu; Đêm hoang mạc; Máu trên tuyết; Mùi thiên đàng). Trong tất cả 18 truyện in ở ba tuyển tập (một vài truyện in lại với bổ sung bản tiếng Anh), chúng tôi thấy chỉ hai truyện kết thúc trong tâm trạng văn học (Bóng ma quá khứ; Chiếc nhẫn cầu hôn). Không thể tìm thấy truyện nào có kết thúc (dù vẻ ngoài) tương đối bình thường. Ừ nhỉ, có lẽ tại bởi không hề có nhân vật nào từ McA NTT là… bình thường tương đối?

• “Yếu tố quan trọng bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.”

Truyện McA NTT: Không giống như vậy! Chi tiết ở đây “nhiều như quân Nguyên”, khó chọn ra cái nào đúc cái nào rỗng. Hành văn nói chung là tung mở, trực tiếp. Hàm ý tác phẩm nằm trong ý nghĩa nhân văn ở từng truyện chứ không qua lối thể hiện ngữ nghĩa. Rất hiếm hình tượng được “cô đúc”. Chẳng hạn, trong Bữa tiệc gà tây có màn mần tình cực gợi cảm mà chưa phạm vùng nhạy cảm12]. (Không tính đôi lần kể lại ngắn gọn và đơn giản về các vụ tâm tham ái dục, nói cho oách, đây là màn “cụp lạc mây mưa” đầu tiên và duy nhất cận cảnh mà chúng tôi mục kích được dọc theo những trang viết do nữ văn sĩ mô phạm đứng tên. Màn thứ hai, trong Đêm hoang mạc13], tình công sở nhì nhằng nhàn nhạt thôi, cũng gợi tí ti). Tiếc thế không biết! Giá như tác giả nâng cấp chi tiết vô giá “yêu bằng ngón chân” thành một hình tượng, một tình huống có giá trị “quân chính quy”/thẩm mỹ thì có thể không cần đến cả tiểu đội chi tiết “địa phương quân”/báo chí đang đầy nhóc truyện. Cái mẹo yêu thô kệch mà tận tình và động tình của người đàn bà quê mùa tỉnh Thanh đất Việt chạm tuổi hồi xuân hẳn cũng là đồng dạng nho nhỏ với thuật phòng the của phụ nữ Trung Hoa theo phái bó chân ngày xưa? Tiếc! Nhớ, thiên truyện ngắn Tiếng búa đinh đong14] cũng theo trường phái trần thuật tỉ mỉ. Ngó nhanh tưởng cà kê dê ngỗng, song té ra là một kiệt tác của Dazai Osamu, được xem như “quyển tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai thu nhỏ”. Là nhờ văn hào Nhật đã đưa bi kịch Nhật Bản sau Đệ nhị thế chiến vào một và chỉ một hình tượng thẩm mỹ trong truyện, qua những tiếng búa đinh dai dẳng ngân vọng gõ xuống các tháng ngày hậu chiến của tuổi trẻ Nhật.

• “Những cách tân, sáng tạo của các nhà văn bậc thầy về truyện ngắn đã khẳng định rằng, truyện ngắn, về tạng chất của nó rất gần với thơ, thậm chí có thể nói một cách không đến nỗi quá đáng rằng, truyện ngắn là một dạng cấu trúc đặc biệt của thơ. […] với cái nghĩa Thơ được hiểu là chất trữ tình sâu lắng của những trạng huống”.

Truyện McA NTT: Vâng, và là đòi hỏi xa xỉ với các truyện được viết trước năm 2018 – nơi thẩm mỹ văn học đến từ các xung khắc nhất nguyên mạnh mẽ và hiển hiện giữa cái Đẹp và cái Xấu, sự thực dụng và tính lý tưởng trong quan hệ người-người. Chứ đâu có từ những nỗi niềm lăn tăn, mông lung ở các biên giới nội tâm làm nên chất thơ! Tính truyện ở đấy vì thế bị giảm, do chất báo chí tăng. Như đã nói, trừ Bóng ma quá khứ là mang “trạng huống”. Tới mạch truyện mới, Lời nguyện nửa khuya Người tình ký ức đã có thể được xem như hai bài thơ luận đề. Nữ văn sĩ Việt-Canada chớ buồn nhiều! Ngay như nam văn sĩ Ăng Lê Somerset Maugham cũng từng là một ví dụ to đùng. Dẫu có nhiều thành công về xuất bản và bạn đọc, nhưng vị VIP này của văn xuôi Pháp chưa hề nhận được đề cao xứng đáng từ đồng nghiệp ngang cơ và giới phê bình hàn lâm. Chính Maugham tự biết mình còn thiếu “phẩm chất trữ tình”, do nguồn từ vựng sơ sài và không sành kỹ thuật ẩn dụ.

• “Có người chú ý đến phẩm chất đặc biệt của truyện ngắn do môi trường báo chí đòi hỏi, đó là yếu tố mới lạ. Song, cần lưu ý rằng, yếu tố mới lạ đó không phải là tính thời sự “sát sạt”, càng không phải là “chuyện lạ đó đây” của môi trường báo chí.”

Truyện McA NTT: “Báo chí” là Mùi thiên đàng; Máu trên tuyết; Đêm hoang mạc; nhất là Bữa tiệc gà tây![15]

• “Yếu tố mới lạ đó là sự xâu chuỗi cái đời thường và (…) cái lớn lao thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh đặc biệt ngắn gọn, cô đọng của truyện ngắn khiến cho cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cá biệt và cái điển hình ở truyện ngắn khác hẳn tiểu thuyết: nó hòa vào nhau và dường như là một để tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ ở người đọc – đọc liền một mạch.”

Truyện McA NTT: Cũng đạt được vậy ở cách viết truyền thống qua Kiếp chó; Đường đến cõi Sa-ma-đi. Sang lối viết đổi mới, với bốn truyện đã nêu (cuối Phần II) mà “mới lạ” nhất, “đặc biệt ngắn gọn, cô đọng […] khiến cho cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cá biệt và cái điển hình […] hòa vào nhau […] như là một để […] đọc liền một mạch” nhất, đó là bt!

• “Tchekhov nói: “Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, không có cái gì được thừa, cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, không có gì được thừa.” Còn Maugham bảo: “Truyện ngắn phải sao cho người ta không thể thêm vào đó chút gì cũng không thể rút ra chút gì.”

Truyện McA NTT: “Hổng có truyện tui trong trỏng! Xo-rì nha, bộ hai ổng muốn viết truyện… bikini hay sao?!”

• “Tiểu thuyết hay truyện dài thì cứ triền miên theo thời gian, đôi khi có quăng hồi ức trở ngược lại. Truyện ngắn thì gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc hả hê, hết băn khoăn.”; “[…] tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất […] Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định.”

Truyện McA NTT: “Ở tui lắm khi ký ức chạy tới chạy lui. Mà nút nhiều tá lả, đố người đọc mò ra nút nào cần tháo cởi. Vẫn khối “người đọc hả hê, hết băn khoăn” khi tôi mở cái nút của riêng mình. Còn ba cái vụ “một tình huống” thì phê bình gia đã phê/chê tui rồi. Ai mà lạ chi cái thứ quan niệm truyện ngắn như một nhát cắt thời đại! Các xừ sính tiếng Tây bảo là một mô-măng của trường đời, còn các mợ tựa cửa Phật kêu là một sát na đốn ngộ cõi trần, riêng mấy ông thầy lý luận thì phán khoảnh khắc của thời gian nghệ thuật. Nhưng tui đâu có “ke”. Với tui, mỗi truyện ngắn – một cuộc đời cô đúc. Thế nhé…”

V. Bình điểm một số truyện cụ thể

Tứ tử trình làng! Chúng ta sẽ dùng cách tìm hiểu thực địa (gần giống phương pháp “Case study” trong y khoa) qua bốn trường hợp mà đa số được viết theo lối mới trong hướng sáng tác của tác giả: Lời nguyện nửa khuya; Cái vú thừa; Cuộc đời bắt nạt;bt.

Điểm chung về hình thức, cấu trúc truyện là không còn theo lối trần thuật chân chỉ; và dung lượng rất ngắn, như một tiểu phẩm, trên dưới bốn trang sách khổ nhỏ.

Yếu tố thi pháp chung ở bốn truyện này là hình thái ngụ ngôn được đông đặc; dường như nhà văn đã thông tỏ châm ngôn để đời của Vua hề Sác-lô/ Charlie Chaplin: “Trò đùa phải chấm dứt khi nó thành công nhất”. Văn lệnh như sơn: Ngắn!

LỜI NGUYỆN NỬA KHUYA[16]

• Bút pháp cổ trang (“cổ văn” được tân trang/hiện đại về hiện thực lẫn ngôn ngữ) tỏ ra hết sức nhuần nhụy. Tin là các độc giả ruột của tác giả sẽ ngỡ ngàng với sáng tác đầu tiên phá rào từ bút pháp hiện thực thuần túy (sau Dâng hiến – một truyện chưa hay, có phần nào dễ dãi). Thành công không hẳn đến từ tay nghề. (Xét về dẫn truyện còn có vẻ kém cơ hơn các truyện hay ở bút pháp cũ – Mùi thiên đàng; Kiếp chó). Mà từ “đổi mới tư duy”. Một tư duy khác về nghệ thuật truyện ngắn. Ngay khi đọc lần đầu, Người bình điểm đã kịp chúc tác giả ráng kéo thành vệt “văn cổ trang made by McA NTT”. (Hên, quả nhiên, nhân bảo gần được như thần bảo!)

• Thủ pháp phúng dụ được “xài xể” quá chăng? Tác giả hóa thân? Ưu: truyện lôi cuốn và đau đời mà vẫn nhi nhiên như “C’est la vie!” Mạch chuyện nhuyễn như tương bần chảy ra chỉ trong hơn sáu trang sách. Nhược: với độc giả không rành “nhân thân” tác giả, nhiều chi tiết có vẻ khó hiểu.

• Nội dung tư tưởng không mới song rất lạ và cực hay! Chỉ gỏn gọn trong vuông tay các vấn đề gia đình, giải phóng phụ nữ, hôn nhân, tình ái quyện chặt vào vấn nạn chung của loài người hiện đại, cũng như của một “vương quốc”[17] (có thể hiểu đó là Canada).

• Ngôn ngữ pha trộn nhịp nhàng giữa hiện thực, lãng mạn và hài hước. Chất thơ mênh mang.

• Vài chi tiết:

– Rất thành công ở hình tượng yoga, vừa ẩn vừa hiện. Ẩn: Làm cho sinh hoạt chính trong “vương quốc” thêm huyền bí, độc đáo. Hiện: Không phải bạn đọc bình thường nào cũng đoán ra. Vậy lại hóa hay. Nó giảm bớt tính riêng tư của truyện mà những độc giả quen biết tác giả lại thiệt thòi khi không nhận ra cái lung linh của ẩn dụ văn học.

– Trạng huống “ly hôn” là điểm sáng, là tứ truyện; nhưng trong khung cảnh này trở nên thế tục và, thiển ý, khá tầm thường, không tương xứng nhân vật “Ngài” – một đế vương ắt xa lạ với cái sự ly hôn phàm trần. Đau ở chỗ với nhân vật “Em” thì quan trọng, là cả cuộc đời. Gợi ý: Nên chăng nâng vụ “ly hôn” thành vấn đề khác cho lạ, ảo hơn. Tức là thêm chừng hơn một trang nữa, tứ truyện sẽ nở tiếp?

– “Vương quốc của Ngài là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề của thế giới”;“duy nhất trên địa cầu là lời giải đáp cho tất cả vấn nạn thể xác và tâm linh.” Phải đấy, Vùng đất hứa – Xứ sở Lá phong của chúng tôi, còn đâu khác được!

– “Ánh sáng xanh”: Ẩn dụ tốt; chắc là rất riêng tư nên hơi khó hiểu. Mà cũng khỏi cần hiểu hết. Truyện ngụ ngôn vốn có chất thơ. Nào ai hiểu thơ là gì?

– Lặp lại hai lần cụm câu “Em đứng trên đầu. Em đứng […] trở thành một thây ma.”: Đẹp mượt mà và nhịp nhàng. Như chính các động tác yoga.

– Đưa vụ con gián vào kỹ vậy (dù khá vui và đau!) liệu làm chia trí độc giả không ta? Sở trường “bồi bổ tri thức” của tác giả với truyện cô đọng có thể thành sở đoản đó à nha…

Đây là một truyện-ngắn-khó. Được dùng làm mở cho tập truyện mới, bạn đọc hiểu “ý trung nhân” chứ ạ?

CÁI VÚ THỪA[18]

Ở các phần trên đã gióng đôi ba lời về vai trò và ý nghĩa của thiên truyện quan trọng nhất này. Xin tiếp tục…

• Viết về “cái vú”, bao nhiêu cũng là thừa. Đã có vô vàn tác phẩm văn học Việt và quốc tế từng chọn bộ phận nữ tính quan yếu nhất nhì của người nữ, người mẹ làm chủ đề. Và hẳn không tác giả nào không động đến tính chất “nguồn nuôi” loài người của nó. Người bình điểm vững tin chưa có truyện nào sâu (thẳm) và độc (đáo) như truyện của nữ văn sĩ McA NTT. Dám nghĩ, nếu có một tuyển truyện viết về “cái vú” của văn chương ở nhiều ngôn ngữ, Cái vú thừa tiếng Việt – ắt là trúng tuyển rồi! – sẽ có cơ được trong danh sách chọn làm tên sách!

• Tên của truyện ngắn, kinh điển và hút hồn! Không thể khác hơn. Nữ nhà văn tỏ ra sành đặt tên những đứa con của mình, và Cái vú thừa đắt nhất. (Đắt nhì, đố bạn truyện gì? Chưa đoán ra, vài phút nữa sẽ biết!)

• Gói trong 1271 từ là một tạng truyện ngắn mà suốt đời viết của một tác giả chỉ được vài ba cái. (Chúa không thể hào phóng!) Như chén máu và nước mắt cô lại. Không là người nặng khổ đau nhiều dằn vặt, khó “bịa” ra nổi “truyện bịa hạng nhất” (L. Fisk) này.

• Tay bút nữ viết về nhân vật “Tôi” nam giới thì đầy nhóc làng văn, và chính McA NTT cũng nhiều lần “giả giai” ngon lành. Lần này, giai đẹp Số 1!

• Ngôn ngữ và lối kể: “Một lần đi đường tôi sơ ý đánh rớt tên mình.” Câu mở đầu đạt mức “bậc thày”. Cùng với tên truyện, nó nhẹ nhàng áp tải bạn đọc nhập vào phong cách ảo dị. Hơi tiếc, vấp ngay tới một đoạn diễn lại ngụ ngôn, khá khô và hơi dài, xa lạ với truyện hư cấu. Phần thân truyện trong gần 700 từ đi suốt cả chục biến cố vùi dập đời người, đời trai, đời làm con làm chồng làm cha… mà vẫn liền lạc tư duy truyện ngắn. Nhờ cách kể trôi chảy, bình dị nhưng mang nỗi đau ngàn cân.

Cốt lõi truyện là các hư cấu phản biện Kinh thánh: “Sáng Thế Ký viết sai. Ta không tạo Ađam trước. Ta tạo Eva, để cai quản muôn loài. Được mấy ngày thì Eva than phiền phần ngực nặng, đi lại thấy vướng. Lúc đó Eva có ba vú. […] Ta xẻo cái vú ở giữa vứt vào bụi cây gần đó. […] Ta bèn nhớ ra cái vú vô dụng vứt vào bụi rậm bữa nọ. Ta lôi ra, thổi vào nó một linh hồn, thành Ađam.” Một tái sáng tạo lớn lao và kinh dị! Của nữ văn sĩ McA NTT. Nội vụ này đủ mọi yếu tố làm nên tất cả, cho một truyện ngắn độc đáo.

• Góp ý quan trọng: Trong một dung lượng quá eo hẹp đã dồn nén ba biểu tượng, cái nào cũng từ nhớn đến khủng: Cá nhân bị vô danh tính – “mất tên”; Quả báo cha con với sợi dây con trói cha; Nguồn gốc giới tính nam-nữ với Eva có ba vú. Hai biểu tượng đầu và cuối đủ thành tứ truyện quá ngon rùi. Ngu ý của kẻ bình điểm: rút ngắn vụ “sợi dây hoặc có thể… cắt béng đi! Về nội dung, quan hệ phụ tử khá xa với tư tưởng truyện. Vụ này lại an tọa ngay ở đoạn thứ nhì và “tốn” đến 150 từ. Hơi dài so với dung lượng toàn truyện, cũng như với đoạn Eva ba vú. Về mặt tự sự, đoạn “sợi dây” hệt như trích từ nguồn ngụ ngôn quen thuộc, thay vì ít dòng người đọc cũng đủ hình dung. Làm giảm văn phong hư cấu đang rất bất ngờ với các dòng đầu tiên và sau đó. Vì sao? Vì truyện “bằng bàn tay” mà ôm những giai thoại khổng lồ thì tính văn chương của toàn truyện sẽ giảm, dẫn đến cái dở là chất ngụ ngôn đậm quá. Trong khi ở Lời nguyện nửa khuya dù độ phúng dụ cao, chỉ khiến hơi khó hiểu chứ không làm nặng mức độ giáo huấn. “Đại sư phụ” Franz Kafka đã nêu nhiều tấm gương cô đọng các ý tưởng kinh dị (người biến thành con côn trùng, hay cái vô hạn của thời gian đi sang làng bên) giúp cho chất hư cấu được làm chủ toàn bộ truyện ngắn. Nếu còn ham tiếc “sợi dây”, nên chăng mở rộng không gian câu chuyện sao cho giữ được ý đồ chính của tình huống: từ việc bị mất tên dẫn đến biết được nguồn gốc đàn ông là từ cái vú dư của phụ nữ.

• Tóm, Cái vú thừa là truyện “bất bình thường”, về thi pháp cũng như nội dung, tư tưởng, không chỉ với văn chương McA NTT mà cả trên nền truyện ngắn đương đại. Tiếp sau Lời nguyện nửa khuya, nó xác quyết triển vọng một hướng viết mới cho tác giả. Vượt xa hiện thực kể chuyện thuần túy; chiếm lĩnh nghệ thuật kỳ ảo và phi thực.

CUỘC ĐỜI BẮT NẠT[19]

• Trong lối viết trần thuật hiện thực, so với chính tác giả, cái mới nhất ở đây là cấu tứ truyện theo kiểu phân mảnh/đồng bộ/bình đẳng. Một chiêu mà khá nhiều tác giả khác đã dùng và mỗi vị thường chỉ xài một đôi lần. Cũng có thể gọi là motif “tham quan”. Qua bảy chân dung phụ cùng một chân dung chính là “Gã”, ta có tám nhân vật cùng làm nên nhân vật chung là Cuộc đời. Nó giải thích chính xác cho vài phần trong tên bài khảo luận: Ngụ ngôn giữa đời thường Canada. Nghệ thuật tạo truyện ở Cuộc đời bắt nạt là minh họa cho một ý đồ lộ tỏ (biến tướng nhẹ hều của truyện định đề), nên nếu không cao thủ thì chỉ sau vài nhân vật, độc giả sẽ dễ thấy nhàm, nhảy cóc xuống đoạn kết cho thỏa tò mò. Một số kỹ thuật điện ảnh (lắp ghép, chuyển đoạn), kịch thoại được sử dụng tài tình.

• Bút pháp tung tẩy về chi tiết thường nhật, tung hoành về mảng miếng đời sống, xã hội Bắc Mỹ vốn là át chủ bài của nữ văn sĩ. Dàn dựng chắc lẳn về dung lượng, với 2883 từ vừa đủ đọc một hơi. Câu mở “Tòa nhà có hai tầng, mỗi tầng có bốn căn hộ. Gã ở căn xoàng nhất tầng dưới. Một buổi tối gã đi gõ cửa từng căn”, dẫn bạn đến mỗi nhân vật và phải tới đoạn cuối mới túm cái rụp được “sợi chỉ hồng” của tác phẩm: đủ thấy tay nghề kiến trúc truyện ngắn cao dường nào! “Mọi người trong các căn hộ không để ý đến việc gã gõ cửa đòi tiền nhà.” Thoạt tiên “bà họa sĩ độc thân tuổi tứ tuần” rồi “Viên thượng úy cảnh sát”, tới “Cặp vợ chồng Nhân Chứng Giê-hô-va”, qua những là “chàng nghệ sĩ guitar tài ba chửa gặp thời”, “cô gái làm nghề pha rượu cho một quán bar”, “cô du học sinh” (“đầu đen”, vẻ như con cháu Bà Trưng Bà Triệu Vua Hùng phe ta?), cuối chót là cả “Ngài chánh án sống trong căn hộ rộng và sang trọng”. Tất cả đồng thanh nhất trí “xù đểu” một món tiền sinh sống tối thiểu. Cả xã hội quay lưng phá hủy khế ước sống bình thường với một kẻ cô đơn và ấm ớ.

• Thêm một lần tít truyện được thăng hoa. Sau hai chữ “cuộc đời” nhàm như… cuộc đời, là hai chữ “bắt nạt” rất tầm phào, nhưng Cuộc đời bắt nạt thì thành văn rồi!

• Toàn truyện được chăm sóc tốt bởi phong vị hài hước, nên không thể dài như một truyện bình thường. Sở trường humor trong bất kỳ sáng tác nào cũng phảng phất nay được thỏa chí tang bồng. Cũng vậy với các thủ thuật phóng đại, thậm xưng. “Thảo nào George Bernard Shaw khẳng định chỉ có hai phần trăm loài người tư duy, ba phần trăm nghĩ rằng họ tư duy, và chín mươi lăm phần trăm thà chết còn hơn tư duy.” Hóm đến thế là cùng!

• Lời thoại đan xen và thoại gián tiếp đều bất ngờ, linh hoạt. Còn có chỗ chưa kỹ về diễn ngôn, như đoạn cuối phần “Ngài chánh án” không khá hơn một góc báo bình thường là bao.

• Một tiểu cẩm nang náo hoạt về đời sống Canada! Trong bút lực điêu luyện, trường vốn về thông tin xã hội, kiến thức về nước sở tại của nhà văn được phất vun vút. Mỗi ý nghĩ, chi tiết, câu nói tung ra như những lưỡi dao bọc đường. Độc giả nào ở các xứ khác đang chờ di dân sẽ nắm bắt nhanh và chuẩn về hồn vía cuộc sống các xứ Canada, Hoa Kỳ được hài hước hóa chỉ trong truyện-ngắn-bàn-tay. Riêng với Người bình điểm, thú thiệt, cũng vơ thêm mớ ba mớ bảy cách ứng xử của dân chính hiệu Ca Na Điên, ít nhất trong vụ tiền nhà. Hi hi…

bt[20]

Cần nói ngay, bt không viết hoa và không chữ in, khác cách trình bày cho ba tên truyện “bình thường” ở trên. bt, “em” phải được hiện diện như nguyên bản của chị McA NTT, nhé?[21].

Nhiều ý lời đáng kể đã được thưa từ các phần trên. Giờ minh họa tiếp:

• Giữa nền văn học Việt đương đại, đây là sáng tác có thể nói rất đặc biệt về đề tài – nội dung hậu chiến, xuất sắc về hình tượng nghệ thuật thể hiện, sang chấn về triết lý hiện sinh, và sáng chói về nhân văn – nhân tính. Một cây bút phải được/bị những gì để có thể “đẻ” nổi tác phẩm vẹn toàn đến vậy? Nếu “bị” thì đời ơi, sao nhẫn tâm hành hạ để chữ nghĩa phải thét lên đến thế? Giá như bt ra đời từ thời hậu Đổi mới, sẽ có cơ trở thành một “con dấu” của dòng văn chương hậu chiến tranh, nhánh “văn chương chấn thương”. (Chứ thời Đổi mới 1986 – 1992 ắt hẳn không chịu loại truyện này đâu).

• Trên con đường văn học của tác giả hơn 30 năm qua, bt là thành tựu nhất về mọi mặt (nội dung, hình thức, thi pháp; và hơn cả là ý nghĩa “máu thịt” của nó). Chịu thai nghén 40 năm, thiên truyện ngắn vỏn vẹn 1415 từ mà ôm vẹn nỗi đau đớn của giống người, đại diện qua người phụ nữ Việt như một địa chỉ bị giằng xé bởi chiến tranh tương tàn Quốc-Cộng của Việt Nam hòa trong cuộc chiến giữa hai ý thức hệ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong thế kỷ 20.

• Chúng tôi đọc đi đọc lại, kể như không gặp hạt sạn nào về kỹ xảo hành văn. Mỗi từ, câu, đoạn như dán như đóng vào trang viết. Tuyệt vời thay tên truyện: bt! Tưởng trong đại hải từ vựng Việt và nhân loại không còn lựa chọn nào khác. Hai con chữ bt vốn bình-thường, thế rồi trong ghép đôi bởi “bàn tay phù thủy” McA NTT, từ nay các “con” đã hóa nên một mà nhuốm trong máu thịt Mẹ loài người. Đã được sống như những thành phần của văn học.

• Hai bông hồng dành cho nghệ thuật tạo truyện:

a. Nữ nhà văn của bạn đã dùng tối đa và tài ba quan niệm “viết bằng cơ phận” của lý thuyết văn học nữ: Chủ đề “thấy tháng” và hệ quả nhi nhiên của nó đương nhiên được “thấy” vô cùng là thường xuyên trong văn chương. Nói thẳng tưng mà hồn nhiên như Thế Uyên: “Dĩ nhiên kinh nguyệt không còn là vấn đề kín của các cô các bà xì xào với nhau trong một góc phòng nữa, và trong văn chương nữ giới, kinh nguyệt xuất hiện một cách tự nhiên như trời xanh mây trắng.” (Tình dục và các nhà văn nữ di dân Việt Nam, Hợp Lưu số 81, 2005; Lê Thị Thấm Vân nhìn từ Thế Uyên, vanviet.info 8/7/2019). Song le vụ này thường chỉ làm chi tiết, mạnh chút nữa trở thành tình huống truyện. Ở bt nỗi đau ngàn đời đó không chỉ được nâng lên làm đề tài mà về thi pháp, nó trở thành hình tượng phúng dụ, thành tứ truyện, thành hệ thống nhân vật. Nhân vật “Tôi” là âm đạo, cũng từng có trong nhiều, rất nhiều tác phẩm “viết bằng thân thể”, “viết về thân xác” theo nghĩa đen (phô diễn khoái lạc dục vọng) lẫn nghĩa bóng (dùng cơ quan sinh dục như đối tượng nghệ thuật). Với văn học Việt, ở hải ngoại 15-20 năm trước từng thành cao trào, còn ở trong nước hơn thập niên nay cũng là… chuyện nhỏ[22]. Nhưng nhập vai, theo nghĩa bóng, một cách đau đớn, uất hận mà tự nhiên nhi nhiên như bt chắc chỉ có bt? Với bt, khuynh hướng “viết bằng cơ phận”/bằng hệ sinh dục đang có thêm một mẫu mực dưới sự chỉ đạo đồng thời của hai quan niệm kinh điển “viết bằng đầu” và “viết bằng trái tim”.

b. Đây vẫn là một tác phẩm văn chương bằng tiếng Việt hay và độc đáo, song sẽ chưa đẹp (tức là chưa hoàn hảo với cặp đôi nội dung tư tưởng – ý nghĩa nghệ thuật), nếu như tác giả để đôi ba câu chữ về địa danh, danh tính nhân vật, sự kiện, thời điểm mà qua đó “tiết lộ” hiện thực lịch sử (dù đã hư cấu hóa). Nó sẽ chưa hoàn hảo, hoặc là bởi tầm đón nhận của độc giả Việt vốn quen chính trị hóa, cụ thể hóa mọi vấn đề, chi tiết; hoặc tại vì các thực tế đời thường (tỷ như: thành phố Kimmonton đông lạnh 43 độ âm ngày 9/9/2018; Vốn người gốc Trung Hoa tướng Lucas ham đánh chiếm biển đảo; Bác sĩ tim mạch Trần Huấn Tú Chi hoa khôi Sài Thành, v.v. và v.v.) sẽ không ngang cơ về diễn ngôn nghệ thuật với thế giới ẩn dụ, phiếm chỉ của nhân vật “Tôi”. Càng nhiều yếu tố phiếm chỉ, bt sẽ càng được thăng hoa thành câu chuyện trần đời từ các chuyện của một cá nhân, của một đất nước, của một dân tộc, gọi chung là của một thời cuộc – nó, cái thời cuộc vốn là hậu quả tức tưởi từ cuộc chiến tranh dai dẳng và tàn khốc hàng đầu trong lịch sử nước Nam ta mà vấn đề người-Việt-hải-ngoại trong 44 năm qua vẫn đang là đứa con đầu lòng và khốn khổ khốn nạn nhất của Mẹ Việt Nam! Cũng vào một mùa Xuân, như khi những dòng chữ đây đang tìm đến nơi lòng bạn đọc…

Chúng ta thử lọc ra các đối tượng chính được mô tả (từ khóa), nhờ đó có thông tin về “thực tế” trong thiên truyện ảo dị pha hiện thực. Và nếu chỉ theo các chữ nghĩa độc lập sau đây, các bạn đọc khách quan sẽ không dễ đoán ra truyện xảy ra ở đâu (quốc gia, vùng miền) và sự kiện gì liên quan – tức là bt ẩn dụ tuyệt đối về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Theo thứ tự từ đầu đến cuối truyện: “mảnh kính vỡ”,hạt Mân Côi”, “trường dòng”, “nàng”, “bác sĩ”, “thẩm phán”, “giọt máu”, “mười ba tuổi”, “bốn mươi năm”, “kinh nguyệt”, “đại học”, “kẻ ngoại lai, “dân nhập cư”, “vùng miền xa lạ”, “nhóm sinh viên cùng lãnh thổ”, “đi đạo”, “cave”, “cha cố”, “gái vùng tạm chiếm”, “lính ngoại bang”, “lãnh đạo nhóm”, “ký túc xá”, “phòng y tế”, “vệ binh”, “dây thừng trâu”; “mẹ”, “ba”, “tay sai”; “bọn ngoại xâm”, “chiếc kẹp mỏ vịt”, “bếp mai-xo” “sổ khám bệnh”, “tiếng khóc”, “ly hôn”, “kẻ ngoại nhóm”; cuối cùng và quan trọng là“tấm gương”.

Tính nhân văn cao cả (có phần nhẫn nhịn) nơi người phụ nữ Việt đã khiến nữ tác giả kìm bút nén nỗi đau thân thể của cá nhân (nhân vật “Tôi” “Nàng”) chìm trong bất hạnh chính trị của dân tộc. Công lao đó là nhờ toàn bộ 1415 con chữ được bảo bọc bằng ẩn dụ cực kỳ tế vi mà không kém phần dữ dằn. Nữ tính, nghệ thuật và nhân văn. Yếu tính nhân văn có thể thấy ở toàn truyện. Rõ nhất, nhân văn (mà không nhân nhượng) ở đoạn kết với hai câu: “Nàng cứ kể với tôi về những giấc mơ có lại tấm gương lành lặn.”, “Nàng vẫn ngày ngày ra sức chứng minh mình với họ, những con người luôn xem nàng là kẻ ngoại nhóm.” Nhưng – chữ Nhưng làm nên tất cả – thứ tự đảo lại: Câu đầu vừa trích dẫn mới là câu kết của toàn truyện. Dạ vâng, cuối cùng thì người nữ, sau nửa thế kỷ đớn đau và oan uất vẫn không thể quên phận “kẻ ngoại nhóm”. Tất nhiên! Nhưng nhớ không để oán hận mà để thủ thỉ cùng “em bé” của mình hướng tới một tương lai tốt lành cho cả hai, dù biết là không thể nào hết còn bị đau nỗi-đau-hàng-tháng.

bt là một thiên truyện rất khác thường về thẩm mỹ văn chương, có phần dị thường về nghệ thuật dựng truyện, và phải nói là “phi thường” về nỗi đau thời cuộc – chính trị. Nếu chỉ có thế, nó sẽ thuộc loại được nâng cấp của văn chương chống chiến tranh, văn chương phản kháng các xung đột hệ tư tưởng. Không, với đức độ nhân bản của mình, bt đã là một văn phẩm hay một cách đau thương và đẹp một cách bình thản. Tự nhiên nhi nhiên như nỗi đau khi dai dẳng lúc xé toang mà Tạo hóa dành Người nữ – nguồn sinh nhân loại.

Nàng nằm tênh hênh. […] Mẹ ơi… Ba ơi… Nàng gào lên, đôi chân trơ trụi cố giãy giụa trong vô vọng. Hình ảnh ba nàng trước lúc bị xử bắn giữa một sân trường tiểu học. […] Hai tay bị trói quặt vào cái cọc đằng sau. Cũng dây thừng trâu. Mẹ nàng ngã quỵ xuống cạnh chân nàng… […] Hai đùi nàng bất ngờ bị giạng toác ra. […] Lần đầu tiên trong đời, tôi bị phơi bày lộ liễu. […] Nàng rú lên như con lợn bị thọc tiết. Chiếc mỏ vịt thô bạo và các thứ kìm kéo hành hung tôi. […] Tôi không còn nghe tiếng kêu la của nàng. Nàng hình như đã chết.”[23]

TẠM KẾT

1.

Chúng ta đã đi một vòng trên mặt-phẳng-văn-chương McAmmond Nguyen Thi Tu trong hơn thập niên qua, mà độ sung mãn vào các năm 2006 – 2010 ở phong cách trần thuật truyền thống, để rồi mới hơn một năm nay 2018 – 2019 khi chuyển hẳn sang lối viết phúng dụ ảo dị. Cả hai lối viết đều có thể xem như hai diễn ngôn khác nhau của hình thức ngụ ngôn – ngụ ngôn gián tiếp từ chuyện cuộc đời, mưu sinhngụ ngôn trực tiếp qua bản thể, nhân sinh.

Còn một số chủ đề cần thiết và thú vị qua chúng sẽ có thể nói thêm nhiều về đặc trưng nghệ thuật văn xuôi của nhà viết truyện mà chúng tôi chưa đủ thời gian và tư liệu. Đó là:

– Dụng công cho mở đầu và kết thúc truyện;

– Quan hệ về điểm nhìn giữa nhân vật Tôi với các nhân vật khác;

– Sự kết hợp giữa chất ảo dị với hình thức phúng dụ cổ điển;

– Súc vật, thú (chó, mèo, sói) trong tư cách nhân vật văn học và ý nghĩa nhân sinh;

– Một vài yếu tố tiểu thuyết (giọng điệu, tình tiết, không-thời gian) trong truyện ngắn;

– Và, quan trọng, về các sáng tác ở giai đoạn đầu, tại Việt Nam (1985 – 1991) cho đến khi trở thành nhà văn di dân.

2.

Ngay từ đầu thế kỷ 19, thiên tài J.W. Goethe từng nhận ra manh nha của hiện thực trong hai thế kỷ kế tiếp: “Ngày nay văn chương quốc gia không còn có thể nói lên điều gì quan trọng nữa, thời đại của văn chương thế giới đã đến, và mỗi người bây giờ phải hành động để đạt tới tiến trình ấy”[24].

Các trào lưu di dân đã góp phần lớn cho sự hình thành, thúc đẩy một nền văn-chương-thế-giới. Nhưng văn-chương-di-dân chưa thể thành văn-chương-thế-giới khi mà nó thường chỉ thành công ở hai yếu tố quan trọng nhưng khá dễ dàng, đó là ý nghĩa đề tài và nội dung tư tưởng. Cần có thêm hình thức sáng tạo và thẩm mỹ văn học tương xứng – tức là hội đủ bốn tiêu chí của sáng tạo nghệ thuật thông thường. Nếu như ở cả bốn tiêu chí vẫn chưa hiện diện không-gian-nghệ-thuật của toàn cầu thì nó, cái văn chương di dân ấy bước đầu chỉ là văn-chương-quốc-gia nối dài; tất nhiên về mặt này điểm kia đã được tăng trưởng cả về phẩm lẫn chất (đáng kể là với những dòng văn học đến từ các quốc gia chậm tiến, thiếu tự do, độc tài…).

Để kết thúc, hãy trở lại tiêu điểm của khảo luận.

Truyện ngắn McAmmond Nguyen Thi Tu, cũng như đa số các sáng tác tương tự của văn học Việt hải ngoại mang nội dung cuộc sống di dân, trên căn bản là văn-chương-di-dân mà yếu tố quốc gia xuất xứ là Việt Nam và tinh thần dân tộc Việt còn bị nhiều ràng buộc từ duyên đến nợ, từ nghiệp đến phận. Nói chung, các liên đới về tinh thần và địa lý, chính trị và văn hóa, trách nhiệm con dân Việt và ý thức công dân bản địa… đã ảnh hưởng “âm” đến tài năng tự thân nơi mỗi tác giả[25].

Đến đây có thể kết luận: Sau một thời gian dài tuân thủ thành công thi pháp trần thuật chuẩn mực, truyện ngắn McAmmond Nguyen Thi Tu đang đạt đến độ kết tụ về thể thức ngụ ngôn và thăng hoa về hiện thực đời thường trong ba đề tài lưu xứ, bản ngã và giới tính, được thể hiện qua người Việt di cư tại Canada. Đó là nhờ sự độc đáo ở phong cách phúng dụ và ảo dị trong một vài sáng tác xuất sắc như bt, Cái vú thừa, Lời nguyện nửa khuya…

Hướng tới đích lý tưởng văn-chương-thế-giới, từ đấy, nữ văn sĩ sẽ có cơ hội tạo ra không-gian-văn-chương của riêng mình made by McAmmond Nguyen Thi Tu.

Quý lắm!

Vancouver, xuân 2018 – 2019 (hoàn thành 1/4/2019; tu chỉnh 1/9/2019)

Đỗ Quyên

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Rushdie, Salman; “Ảnh hưởng, Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ, trangngaunhien.wordpress.com 5/3/2019.

2. Đỗ Quyên; Văn học Việt ở ngoài nước trong các năm 2005-2010”, vanchuongviet.org 5/7/2010.

3. Khánh Phương; “Văn chương Việt hết năm 2010, một thập kỷ vẫn… “chờ” thành tựu”, chungta.com 15/2/2011.

4. Thành Nam; “Hòa hợp dân tộc và sự phát triển văn học”, nhandan.com.vn 29/6/2016.

5. Lê Tú Anh; “Con người dấn thân trong văn xuôi đề tài tha hương đầu thế kỉ XXI”, vannghequandoi.com.vn 10/8/2019.

6. Lê Tú Anh; “Con thuyền của Nam Lê giữa hai bờ dân tộc và nhân loại”, vannghequandoi.com.vn 31/1/2019.

7. Quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học, thcsvanlang.pgdviettri.edu.vn 8/11/2013.

8. Bùi Việt Thắng; “Tin vào truyện ngắn”, vanhien.vn 14/2/2019.

9. ”Phê bình Văn học nữ quyền”, tiasang.com.vn 5/3/2009.

10. Nguyễn Đăng Điệp; “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, phebinhvanhoc.com.vn 20/4/2013.

11. Liễu Trương; “Viết với thân xác như Túy Hồng”, lieutruongvietvadoc.wordpress.com 31/5/2017.

12. Hà Văn Lưỡng; “Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Haruki Murakami – từ góc nhìn tự sự học”, tapchisonghuong.com.vn 22/5/2015.

13. Đỗ Quyên; “Rất nhiều điều về Tiểu-thuyết-Đặng-Thân”, vanhoanghean.com.vn 12/1/2012.

14. Rusakova, O.F.; “Các lý thuyết diễn ngôn hiện đại: Kinh nghiệm phân loại” – 2006, Lã Nguyên dịch từ nguyên bản tiếng Nga, khoavanhue.husc.edu.vn – 2017.

15. Huỳnh Trọng Khang; “Thân phận người ly hương trong tác phẩm của những nhà văn châu Á”, nld.com.vn 15/6/2019.

16. Trần Hữu Thục; “Đi tìm vài góc khuất trong văn chương Trần Thị NgH”, damau.org 19/7/2019.

– HẾT –


[1] Phạm Văn Quang; “Văn chương và tâm thức lưu xứ”, Giai phẩm Xuân 2019 diendan.org.

[2] Thái Phan Vàng Anh; Ct 18.

[3] “McAmmond Nguyen Thi Tu và Ninh Kiều là hai nhà văn có lối viết nhuần nhuyễn, mạnh về khai thác chi tiết. Nhưng trong khi McAmmond Nguyen Thi Tu thiên về nhìn nhận sự đối kháng của những thuộc tính con người và phẩm chất xã hội xuất phát từ những văn hóa khác nhau, cũng là đối kháng giữa xu hướng thực dụng gay gắt và duy mỹ thuần khiết, thì Ninh Kiều chủ yếu quan tâm đến góc độ nữ quyền trong sự phân công đời sống và sinh hoạt đời thường.” (Khánh Phương; Ct 11 – ĐQ nhấn mạnh).

[4] Hệt như lời nữ tác giả khác trong một truyện ngắn của mình: “Phụ nữ tài thật, chuyển hướng đề tài rất nhanh hoặc có thể nói rất nhiều chuyện cùng một lúc. Biến hóa khôn lường”. (Hồ Anh Thái;Vượt thoát để mơ mộng, nxbtre.com.vn 2/27/2019).

[5] Trích truyện Chuyến hành trình sau chót (2009): “Vậy nghe Út,” […] Tết này ai cũng nhắc mày,” chị chuyển đề tài, “vậy là ba năm mày không về rồi. Thiên hạ về ào ào, ăn chơi sướng thân. Còn mày lúc nào cũng vướng chân với cái bi-zi-nét, thiệt khổ…” chị giả lả thêm một hồi trước khi cúp máy. Gã buông điện thoại, thần người mấy giây, rồi hấp tấp nổ máy xe, lao trở ra đường phố. Gã lái tắc xi, đang trên đường đón khách thì chị gã gọi qua nên phải đỗ vào bãi đậu xe của một siêu thị để nói chuyện. Mỗi lần bên ấy gọi, gã thấy gai người, biết ngay chuyện thăm hỏi chỉ là mào đầu, chuyện tiền nong mới là nội dung chính. Người nhà gã lại thường xuyên có việc, thường xuyên gặp nạn, gã phải ra tay giải quyết. Nào là nhà anh Hai bị dột phải xây lại, mượn cậu Út tiền mua vật liệu; […]; nào con gái lớn anh Năm đậu đại học lên thành phố xin cậu Út một chiếc xe máy, loại Honda Wave thôi; […] Gã lạ gì, cái từ “mượn” nghe cho lịch sự, thay vì chữ “xin” nghe hơi trắng trợn. Thế nhưng gã chẳng bao giờ từ chối, vì gã cảm thấy gã không thể từ chối. Gã thà âm thầm rút tiền từ cái thẻ MasterCard với lãi suất cắt cổ, rồi âm thầm đi làm trả nợ dần. Lần đầu về nước, gã lỡ khoác lác rằng gã là chủ một lò bánh thu nhập cao nhất của thành phố với hàng trăm công nhân, bao người nể sợ quý hóa gã mất rồi, nên gã cứ phải tiếp tục diễn cho trọn vai. Cái vai luôn hành gã, khiến gã lắm lúc phát khùng lên.” (Cái vú thừa; Sđd, Tr.177).

[6] Trích truyện bt (2018): “Tôi đang nhặt những mảnh kính vỡ. Kiên trì. Buồn tẻ. Tựa như nàng nhẩn nha lần hạt Mân Côi suốt thời niên thiếu trong trường dòng. Những mảnh kính đủ mọi kích thước dáng hình văng ra từ một tấm gương trong trẻo bị đập nát. Thận trọng, tôi bươi ra từng miếng trong muôn vàn những mảnh nhỏ to. Tôi xoay sở lắp chúng lại. Công việc tôi đó. Đã hơn bốn chục năm. Vì nàng. Tùy ngày. Hôm nào phấn chấn tôi làm hăng, không màng tay bị cắt trầy trụa chảy máu. Hôm thì chưa làm đã đuối tôi cứ trân trân ngó đống kính vụn trước mặt, có những mảnh bé hơn cả hạt gạo, tôi khóc trong tuyệt vọng.” (X. Ct 13).

[7] Trần Tiến: “Văn là kể chuyện một cách nhân văn những điều ai cũng đã trải qua và sẽ trải qua, đã biết và sẽ biết. […] vòng đời ngắn lắm. Người trước nói với người sau điều mình biết. Thế thôi! Nhưng Văn chỉ khác một điều: Ai là người kể chuyện mình nghe. Thời ấu thơ, chỉ có mẹ là nhất. […] Kẻ kể chuyện kiểu riêng, hấp dẫn ai đó sẽ được người đó gọi là nhà văn.” (“Ngẫu hứng Trần Tiến 10”, quechoablog.wordpress.com 1/10/2011).

[8] Đỗ Quyên; “Từ truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch, trở lại một số cái khó của văn học”, vanchuongviet.org 24/6/2016. Các đoạn trích dẫn, và có thêm nhấn mạnh, trong Phần IV là từ bài này mà đa phần được rút tỉa từ bài của Đỗ Ngọc Thạch trong Ct 34.

[9] Đỗ Ngọc Thạch; “Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại”, blog.tamtay.vn 5/3/2012.

[10] Bùi Việt Thắng: “Anh có nhận thấy khi viết truyện ngắn, cần nhất trước hết là tìm ra những “tứ” mới và hay?” – Văn Giá: “Tứ truyện là một vấn đề phức tạp. Ai sành truyện ngắn đều cảm thấy là có tứ. Nhưng bảo định nghĩa tứ truyện là gì, quả không dễ. Tôi thì cho rằng tứ truyện là một tình huống bất bình thường của đời sống, nơi đó có khả năng kích hoạt cảm hứng sáng tạo và hàm chứa ý nghĩa xã hội, nhân văn. Thí dụ, cái truyện Vợ nhặt của Kim Lân mà ai cũng biết, tứ của nó chính là chuyện đùa mà thành thật để làm nên một đám cưới nhỏ trong một đám ma lớn của toàn xã hội. Đó là một tình huống tạo sự bất ngờ thú vị, mang ý nghĩa sâu xa về đời sống và phận người đấy thôi. (“Những sắc màu truyện ngắn”, vannghequandoi.com.vn 26/1/2019 – ĐQ nhấn mạnh).

Xem thêm: Yiyun Li; “Làm sao để chuyển một tình huống thành một câu chuyện?”, Kodaki dịch, vannghequandoi.com.vn 9/7/2019.

[11] X. damau.org 6/3/2019, Vũ Thành Sơn chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của G. Rabassa và J.S. Bernstein.

[12] “Trên căn gác thuê chật hẹp ảm nồng hơi khói từ gian bếp bên dưới, ông nhắm mắt nằm yên lắng nghe sự động chạm của cơ thể hai người. Những ngón chân nhỏ, ráp, sần sùi và lấm đất của nàng lần mò như những càng cua quặp vào bắp vế rồi lướt lên đùi ông, âu yếm ngắt véo ông một cách man dại. Những ngón chân tinh tế nồng nàn như thân thuộc da thịt ông từ kiếp nào, nhận biết nó, và mạnh bạo riết chặt lấy nó cho đến khi thân thể ông tan vào hư không. Những ngón chân ấy đã níu giữ được trái tim và linh hồn ông.” (X. damau.org 5/5/2010 – ĐQ nhấn mạnh).

[13] X. Cái vú thừa; Sđd, Tr.154, đoạn đầu.

[14] Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, damau.org 30/1/2019.

[15] Đã từng có người khen kẻ chê truyện này:

– “Bữa tiệc gà tây của McAmmond Nguyễn Thị Tư kể một ông “giáo sư tiến sĩ” (tr.32) người Canada nhân chuyến du lịch hội thảo mà bất đồ rơi vào cuộc tình “say nắng” với một đàn bà bán dạo đĩa CD ở Hải Phòng; chuyện kể dài dòng một cách thiếu thiện cảm, nhất là bởi không đưa đến cái bất ngờ nào: rút cục thì có vẻ người đàn bà nông thôn kiếm ăn nơi đô thị đã chăm bẵm đến nơi đến chốn cả thể xác, tâm hồn và túi tiền của ông Tây già ngây thơ; và nếu có một hàm ý phê phán nào đó ở đây thì nó cũng đã rơi tõm vào cái khoảng chênh văn hóa mà đô thị nào cũng giăng sẵn.” (Nguyễn Chí Hoan – Biên tập viên; Bài giới thiệu tập tuyển truyện ngắn hay hằng năm từ báo Văn Nghệ “Làm thế nào ra khỏi những giấc mơ?”, sachhay.org 10/5/2013).

– “Một câu chuyện thật mượt mà, tình tứ, và duyên dáng, nhưng cũng rất đắng cay phũ phàng. Nhiều chỗ có tính khái quát cao. Thảng hoặc, ta bắt gặp những nét dí dỏm trào lộng vốn dĩ của dân Bắc kỳ nhưng cũng không che khuất được những nỗi buồn của đói nghèo, những lố bịch của thời cuộc, những nhố nhăng của trưởng giả. Thật mắc cỡ cho các anh nhà báo, nhà thơ, nhà “Việt kiều” đi đâu, ở đâu cũng thấy mùi ruợu, bia, thuốc lá, và gái. Tội nghiệp cho ông giáo sư tiến sĩ thành thực, ông không thể nào hiểu được phụ nữ Việt Nam.” (Lucas Tran; Thảo luận của bạn đọc; x. Ct 37).

[16] X. Cái vú thừa; Sđd, Tr.7-13. Cũng có thể coi trên các mạng trangngaunhien.wordpress.com 12/12/2018, Giai phẩm Xuân 2018 diendan.org; và tại yogainfo.ca có tam ngữ Việt, Anh, Tây Ban Nha.

[17]Phần V này, những câu chữ in nghiêng và trong ngoặc kép là trích từ mỗi truyện ngắn đang được bình.

[18] X. Cái vú thừa; Sđd; Tr.77-80. Có thể coi trên các trang mạng baovannghe.com.vn 17/10/2018, damau.org 17/4/2018, trangngaunhien.wordpress.com 24/1/2019.

[19] X. Cái vú thừa; Sđd, Tr.209-216. Có thể coi trên các trang mạng trangngaunhien.wordpress.com 17/12/2018, Giai phẩm Xuân 2018 diendan.org.

[20] X. các Chú thích 11, 31.

[21] Người viết vô tình nhận ra hai ấn bản trên mạng (Ct 11) cũng trình bày như vậy!

[22] Xem thêm: Đỗ Quyên; “Đẻ Sách – Chương 5: Độc giả ăn tác giả – Thư của độc giả Do Ngoc gửi tác giả Đẻ Sách”, vanviet.info 9/7/2019; trích tiểu thuyết Đẻ Sách, Nxb Người Việt Books 2018, Tr.262-265.

[23] Riêng với bt, tính cả những đoạn bàn luận lẻ ở các phần trước, Người bình điểm đã cố gắng dùng số lượng chữ “ngang cơ” với chính truyện.

[24] X. Ct 26.

[25] Chúng ta đang xét phạm vi văn học của người Việt, trước hết bằng tiếng Việt, ở ngoài đất nước Việt Nam, song có thể nói rõ thêm:

a) Thành tựu lớn hay nhỏ trong văn học – nghệ thuật cũng gần như với khoa học xã hội – nhân văn nói chung, khác với các lãnh vực khoa học tự nhiên – kỹ thuật, thường chịu ảnh hưởng nhất định dù không hề bị quyết định bởi môi trường xã hội – chính trị sinh sống, làm việc; đặc biệt về việc vị trí bàn viết và tư thế nhà văn ở ngoài hay trong đất nước và hệ thống chính trị. Thậm chí, thiển nghĩ, với các tác giả văn nghệ Việt Nam, khi “ở xa Tổ quốc” trong mọi lý do khác nhau, thì ít người thành đạt hơn khi còn ở trong nước; với những người bắt đầu viết sau khi ra đi có thể còn khó so sánh hơn, song cũng hiếm thấy văn-thi sĩ người Việt nào như thế xuất hiện như là tác giả lớn trên trường quốc tế.

b) Bên cạnh năng lực cá nhân, nhờ thuận lợi về ngôn ngữ, văn hóa, và cả vị thế quốc gia, những tác giả di dân đến từ các “cường quốc” rõ ràng là dễ thành đạt hơn.

c) Vì thế, dễ hiểu là các tác giả lớn, chỉ sống và viết ở trong Tổ quốc của mình đã dự phần làm nên nền văn học dân tộc bằng chính các tác phẩm “văn chương quốc gia” đạt tầm văn-chương-thế-giới. Cổ kim Đông Tây, không ngoại lệ! Cả nghĩ, ở các nước đang phát triển trong mỗi thời kỳ văn học 20-30 năm, bù đi sớt lại, mỗi thế hệ văn thi sĩ “quốc gia” chỉ có chừng đôi ba tác giả mang “kích thước trái đất” (chữ của ký giả Nga Irina Zisman từng nói về họa sĩ Chóe), và cả nền văn học dân tộc có thêm chừng năm bảy tác phẩm văn-chương-thế-giới.

Đây là một chủ đề sâu rộng, kết hợp ba yếu tố không dễ tách rời: văn chương quốc gia, văn chương di dân, và văn chương thế giới. Chúng tôi sẽ trở lại khi có dịp…

Comments are closed.