THƠ TỐ HỮU – KHO “KÍ ỨC THỂ LOẠI” CỦA VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

(tiếp theo và hết)

Lã Nguyên

IV. BỐN MÔ THỨC TU TỪ

(Thệ – Hịch – Ca thi – Đại cáo)

Mọi loại hình văn học, – từ cổ đại, trung đại, đến hiện đại,- lấy truyền thuyết làm chiến lược diễn ngôn đều phải dựa vào một tự sự mà người kể và người nghe, người viết và người đọc cùng biết rõ như nhau. Cứ đọc lại Iliad Odyssey của Homer ta sẽ nhận ra điều đó. Trong những pho sử thi ấy, Homer không sáng tạo truyện kể mới. Ông chỉ thuật lại thật hay, ca lại thật réo rắt những câu chuyện đã có sẵn trong kí ức cộng đồng. Phải dựa vào một tự sự như thế, truyền thuyết mới tạo ra được nguyên tắc đồng thuận, đồng ca cho chiến lược diễn ngôn truyền thụ tri thức. Nhìn từ góc độ ấy, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thuộc loại hình văn học từ chương[1]. Thơ Tố Hữu không phải là trường hợp ngoại lệ. Khảo sát sáng tác của ông, tôi nhận ra bốn mô thức tu từ phổ quát của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa: Thệ, Hịch, Ca thi Đại cáo. Tôi dùng khái niệm “mô thức tu từ” để chỉ các thể loại diễn ngôn đã hoàn bị, bộ xương cấu trúc của nó đã đông chắc, đã hóa thành “hình thức thế giới quan” (thuật ngữ của G.D. Gachev), hay “hình thức quan niệm” (thuật ngữ của Trần Đình Sử). Chúng được văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sử dụng như một công thức diễn ngôn nhằm biến thi pháp sáng tạo thành thi pháp của cái truyền thống, điển phạm, qua đó, làm cho phát ngôn của nó thực sự thành một quyền lực. Trong khuôn khổ của tiểu luận này, tôi chỉ có thể nhận xét sơ bộ về đặc điểm của từng mô thức nói trên qua các bình diện: Hệ chủ đề, vai phát ngôngiọng điệu như là biểu hiện của phong cách lời nói.

1. Thệ. Là “thề”, cũng có thể gọi là “diễn ngôn hứa hẹn”. Thơ Tố Hữu là một lời thề lớn. Từ ấy của ông thực sự là tập thơ thề. Các bài Từ ấy, Như những con tàu, Giờ quyết định, Quyết hi sinh, Con cá chột nưa, Tâm tư trong tù, Trăng trối… đều là những bài thơ thề trong tập thơ này. Việt Bắc trong tập Việt Bắc, hay Theo chân Bác thuộc loại thơ thề trường thiên. Có thể kể ra vô số bài thơ của Tố Hữu được viết theo các mô thức tu từ khác, nhưng chen vào đó vẫn có những câu thề. Chẳng hạn, Sáng tháng năm là bài lãnh tụ ca (ca thi), nhưng hai câu sau đây chắc chắn là thơ thề: “Chúng con chiến đấu hi sinh. Tấm lòng son sắt đinh ninh lời thề”. Hoặc Ta đi tới, xét về thể loại, nó nửa như ca thi, nửa như đại cáo, nhưng ở giữa lại có mấy câu:“Dù ai nói ngả nói nghiêng. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Dù ai rào dậu ngăn sân. Lòng đa vẫn giữ là dân Cụ Hồ”. Cho nên, thệ thực sự là mô thức tu từ quan trọng của thơ Tố Hữu.

Ta nhận ra “thệ” là mô thức tu từ trong thơ Tố Hữu, vì ở đây chủ đề của nó đã được gói vào khuôn mẫu. Mọi lời thề trong sáng tác của ông chỉ xoay quanh một nội dung cốt lõi:“Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Khái niệm “chủ nghĩa” này có nội hàm không thay đổi. Nó là “Mác – Lênin”, là “mặt trời chân lí”: “Mặt trời chân lí chói qua tim”. “Mác – Lênin, vĩnh viến mặt trời”. Trong bài Ngẫu hứng viết năm 1984, Tố Hữu mời gọi: “Hãy hô một tiếng vang trời đất. Muôn năm, muôn năm Mác – Lênin!”. Hiện thân của “Mác – Lênin” là “Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại”. Cho nên, “Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa” trước hết là lời thề trung thành tuyệt đối với Bác, với Đảng: “Bác bảo đi là đi”. “Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi. Vững như muôn ngọn giải Trường Sơn”. “Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng <…> Vững lòng quyết sống, không rời Đảng ta <…> Cắn răng thà chết, không xa Đảng mình”. Nhờ có “Đảng chói lọi, Hồ Chí Minh vĩ đại” mà “Trăm năm mất nước mất nhà. Hôm nay mới cất lời ca tiếng cười. Ta đã đứng nên người độc lập. Cao bằng người, nào thấp thua ai?”. Cho nên, lời thề “tôn thờ chủ nghĩa” còn là lời thề ơn nghĩa, “ơn dân”, “ơn Đảng”,ơn Bác”: “Con chim biết nhớ đàn, nhớ tổ. ta nhớ người đau khổ nuôi ta. Ơn người như mẹ, như cha. Lòng dân yêu Đảng như là yêu con”. “Lòng ta ơn Bác đời đời <…> Còn đây ơn Bác nối dòng dài lâu <…> Đời đời ơn Bác càng sâu càng nồng”.

Chủ thể của lời thề được qui phạm hóa. Trong thơ Tố Hữu, nó xuất hiện ở những “ngôi” giao tiếp khác nhau. Nó có thể là “Tôi”: Tôi buộc lòng tôi… <…> Tôi đã là con…”. “Tôi chưa chết, nghĩa là…”. Nó cũng có thể là “Ta”, “Chúng ta”: Ta bước tới.... Chúng ta, con một cha…”. Trong bài Việt Bắc, nó là “Ta”, mà cũng là “Mình”: “Ta với mình, mình với ta”. “- Lòng ta ơn Bác…” … Có điều không nên quên, trên bức tranh thế giới “phân vai tượng đài”, dẫu phân thân vào “Mình” hay “Ta”, vào “Tôi” hay “Chúng ta”, thì vai phát ngôn của lời thề bao giờ cũng được trao cho “con”, “chúng con”. Nó là tiếng nói của “chiến sĩ đồng bào”: Chúng con chiến đấu hi sinh. Tấm lòng son sắt đinh ninh lời thề”. Chúng con tin: Bác vẫn đi về. Nghìn năm xin trọn lời thề nước non!”.

Cuối cùng, trong thơ Tố Hữu, giọng điệu của lời thề luôn luôn được phong cách hóa. Hai cung bậc chủ đạo của nó là sục sôi nhiệt huyếtcung kính chân thành. Ta biết, hạt nhân ngữ nghĩa của “thề” là “hứa”. Nó chỉ khác “hứa” ở một điểm cốt lõi: thề là một nghi lễ. Nghi lễ này không thể thiếu hai nghi thức. Thứ nhất, “thề” phải thể hiện quyết tâm thực hiện lời “hứa” bằng cách viện ra những gì quí giá nhất mà nó chấp nhận hi sinh để đảm bảo “hứa” không thành “hão”. Chẳng hạn, lời thề “tiêu thổ kháng chiến”: “Bàn tay đã nắm lời thề. Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây”. Không chỉ thế, người chiến sĩ của Tố Hữu còn “hứa” sẵn sàng hi sinh sự sống cho lí tưởng cách mạng: “Sống đã vì cách mạng, anh em ta. Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà”. Tinh thần sẵn sàng hi sinh sự sống, nguyện “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa” ấy thường được thơ Tố Hữu thể hiện qua thủ pháp điệp cú pháp, ví như: “Chúng ta đã quyết thì làm. Đã đi phải đến hoàn toàn thành công. “Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày. Là gươm kề tận cổ, súng kề tai. Là thân sống chỉ coi còn một nửa”. “Với cách mạng tôi không hề đùa bỡn. Và không hề dám chối một nguy nan”. Tôi sẽ chết bình yên không hối hận. Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận”. “Tôi sẽ chết tuy chưa về đến đích”. “Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận. Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời. Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi. Còn trừ diệt cả mộ loài thú độc”. Điệp cú pháp là một trong những thủ pháp tạo nên giọng nhiệt huyết của lời thề. Thứ hai, khi thề, bao giờ người ta cũng phải viện tới một sức mạnh siêu cá thể làm “trọng tài” giám sát. Người xưa thường thề nguyền giữa khói hương nghi ngút tế cáo trời đất, với sự chứng giám của “Hoàng Thiên, Hậu Thổ”, “quỉ thần hai vai”. Ở đây, sức mạnh siêu cá thể này là những đấng siêu nhiên. Trong thơ Tố Hữu, lời thề của “con”, “chúng con” cũng cất lên trước sự chứng giám của một sức mạnh siêu cá thể. Nhưng người cộng sản quả quyết: “Trời không có thiên thần. Đất không có thánh nhân”. Cho nên, sức mạnh chứng giám lời thề trong thơ Tố Hữu không phải là thánh thần, mà là những con người đã hóa thành thần thánh. Tố Hữu gọi đó là “đôi mắt thần chủ nghĩa”: “Từ khi chân dấn bước. Trên con đường đấu tranh. Tôi sẵn có trong mình. Đôi mắt thần chủ nghĩa. “Mắt thần chủ nghĩa” là “mắt Mác – Lênin”, “mắt Đảng”: “Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt”. “Cuộc sống lớn có đôi mắt Đảng. Mỗi bước đi gần, mỗi bước đi xa”. “Đôi mắt Đảng” soi xét mọi hành vi, chứng giám các lời “thề”. Ta hiểu vì sao, hình tượng Đảng và lãnh tụ bao giờ cũng được Tố Hữu mô tả bằng thủ pháp khoa trương, kì vĩ hóa, tạo thành khu vực gián cách giữa sức mạnh thiêng liêng với thế giới phàm tục: “Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt. Đảng ta đây, xương sắt da đông. Đảng ta muôn vạn công nông. Đảng ta muôn vạn tấm lòng, niềm tin”. “Người đứng trên đài, lặng phút giây. Trông đàn con đó, vẫy hai tay. Cao cao vầng trán… Ngời đôi mắt”… Bác ngồi đó, lớn mênh mông. Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”. Được đặt vào khu vực gián cách ấy tuyệt đối ấy, lời thề trong thơ Tố Hữu lúc nào cũng cất lên bằng giọng điệu cung kính, chân thành.

2. Hịch. Là lời kêu gọi chiến đấu. Nó là diễn ngôn hiệu triệu. Thơ Tố Hữu về cơ bản là thơ tuyên truyền, kêu gọi. Từ ấy không chỉ là lời thề tâm huyết, mà còn là lời kêu gọi thanh niên đứng lên phá gông xiềng của chế độ tù ngục thực dân – phong kiến. Việt Bắc, Ra trận là lời kêu gọi giết giặc lập công, thống nhất đất nước. Gió lộng là lời kêu gọi chinh phục thiên nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với Tố Hữu, cứu nước, hay xây dựng chủ nghĩa xã hội đều là làm Cách mạng. Đường Cách mạng là “đường thiên lí”. Ở tuổi hai mươi, nhà thơ kêu gọi thanh niên “Dậy mà đi”, “Đi, bạn đời ơi, đi! Cả cuộc đời”. Ngoài thất thập (1992), ông vẫn không thôi cất lên tiếng thơ mời gọi “lên đường”, “đi tới”: “Ta đi tới, quyết không lùi bước. Cho đến ngày cạn sức, tàn hơi”. Xét cho đến cùng, bài nào của Tố Hữu cũng đều là tiếng gọi lên đường, là lời hiệu triệu đấu tranh, là tiếng kèn xung trận. Cho nên, có thể nói, “hịch” là mô thức tu từ cốt lõi, có vai trò trọng yếu trong thơ Tố Hữu. Đó cũng chính là hình thức diễn ngôn làm lộ rõ các khuôn mẫu diễn ngôn trong sáng tác của ông.

Hịch văn, từ Dụ chư tì tướng (cuối thế kỉ XIII) của Trần Quốc Tuấn, cho tới Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bao giờ cũng sử dụng một kiểu kết cấu, nhắm vào một chủ đề bất di bất dịch. Đó là kiểu kết cấu chia văn bản thành hai phần. Ngoài nội dung kêu gọi, hiệu triệu, phần quan trọng nhất của hịch văn là vạch tội kẻ thù. Có thể gọi “hịch văn” là văn kể tội. Tôi cho rằng, ở Việt Nam, không một nhà thơ nào có tài kể tội giặc như Tố Hữu. Phải vạch ra những tội ác “trời không dung, đất không tha” của kẻ thù và nỗi thống khổ khôn cùng của Tổ quốc, của nhân dân để chuẩn bị cho lời hiệu triệu tiêu diệt chúng. Lấy bài Hầm người trong Từ ấy, hay Bắn trong Việt Bắc làm thí dụ. Hầm người có 7 khổ, sau khổ mở đầu, 4 khổ tiếp theo chỉ tập trung vẽ ra hình ảnh ngột ngạt của một xã hội ngục tù: “Nơi rộng mênh mông không giới hạn. Cơ chừng xây trải mấy muôn năm. <…> Ngổn ngang xương lạnh đầy ao huyết. Giữa lúc tầng cao, dội tiếng người”. Bốn khổ thơ vạch tội này truyền cho người đọc tâm trạng “uất nặng”“khí hận rung hầm lặng” để chuẩn bị cất lên lời hiệu triệu: “Này phá, dô ta! Này ta phá. Dô ta! Cho mở cửa hầm sâu”. Bài Bắn cũng vậy, tất cả có 5 khổ, khổ cuối là lời kêu gọi, ba khổ giữa tố cáo tội ác của kẻ thù với hình ảnh man rợ: “Bao đồng chí của ta bay giết. Chặt đầu cắm cọc phơi khô. Chị em ta bay căng thịt lõa lồ. Con em ta, bay quăng thân vào lửa. Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa. Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang”. Hầu hết các bài thơ trong Từ ấy có kết cấu hai phần như thế. Nhiều bài thơ trong Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận cũng có kết cấu như vậy. Lối kết cấu hai phần, trước: vạch tội, sau: kêu gọi, còn được sử dụng rộng rãi ở nhiều đoạn, nhiều khổ trong các bài thơ trường thiên của Tố Hữu, như Ba mươi năm đời ta có Đảng, Trên đường thiên lí, Theo chân Bác

Cũng như “Thệ”, “Hịch” bao giờ cũng là tiếng nói cất lên trong không gian “tôn ti”. Chẳng hạn, trong Từ ấy, chủ thể phát ngôn của những lời hiệu triệu được trao vào vai người chiến sĩ đại giác ngộ. Người đại giác ngộ là người sở đắc chân lí. Đối tượng lắng nghe lời hiệu triệu của người sở đắc chân lí là những vú em, lão đầy tớ, đứa bé đi ở, cô gái giang hồ, những “trai quí, gái yêu” còn “Bâng khuâng đứng trước đôi dòng nước”, hoặc cả “Một khối người <…> Đang mải cuốc cày, cưa, kéo, đẩy. Như nhau, không biết một ngày vui”…Trong Bài ca mùa xuân năm 1961, cả nước lắng nghe lời hiệu triệu của Bác Hồ:

Nào đi tới! Bác Hồ ta nói

Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân

Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân

Mời những bàn chân tiến lên phía trước

Tất cả dưới cờ, hát lên và bước.

Lời Bác Hồ là “lời non nước”. Tiếng nói của Bác là “Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”. Ta hiểu vì sao, trong Bài ca xuân 68, lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vang lên như vậy:

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!

Hệt như hịch văn, mọi lời hiệu triệu trong thơ Tố Hữu đều là lời của Cha già dân tộc nói với “chúng con”, lời của đất nước non sông, của lãnh tụ nói với “chiến sĩ đồng bào”. Nó là tiếng nói cất lên từ trên cao truyền xuống phía dưới, vang xa muôn phương:

Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng .

Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng

Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau

Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu.

Với ý nghĩa như thế, “hịch” trong thơ Tố Hữu thực sự là lời nói phong cách hóa. Trong Thi pháp thơ Tố Hữu, đặt sáng tác của tác giả này vào bối cảnh thi ca trước 1945, Trần Đình Sử đưa ra nhận xét quan trọng: “Tố Hữu đã tạo ra một giọng thơ quyền uy duy nhất hấp dẫn lúc ấy…”[2]. Tôi cho rằng, “giọng thơ quyền uy” này chính là điệu giọng hịch văn như một phong cách lời nói trong sáng tác của nhà thơ. Từ trong bản chất, nó là giọng “độc thoại” được phong cách hóa với tham vọng vắt kiệt nghĩa đối tượng bằng một phát ngôn duy nhất.

Trong thơ Tố Hữu, giọng hịch văn đầy “quyền uy” thể hiện ngay ở cặp đại từ nhân xưng của ngôn ngữ nhà binh được sử dụng để chỉ quan hệ “địch – ta”: “Bay – Choa” (Choa đói choa rét, bay thù chi choa”. “Bay coi Tây – Nhật là cha”), “Chúng ta – Chúng nó, Chúng bay (Chúng nó là vật, ta đây là người”. “Chúng bay chui xuống đất. Chúng bay chạy đường trời”). Giọng quyền uy được tăng cường bởi những cặp hình ảnh tượng trưng làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa “Chúng ta” với “Chúng nó”. Mỗi “chúng ta” là một “ngôi sao” (“Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao”), ai cũng là “thiên thần” ( “Như thiên thần bay giữa trăng sao” ). “Chúng nó” là thú dữ, như “hổ”, “rắn” (“Cũng loài hổ báo ruồi xanh”. “Như hổ mang chực bắt được mồi”), hoặc súc vật bẩn thỉu, như “dê”, “chó”, “mèo” (“Lũ chúng nó rầm rầm rộ rộ. Mắt mèo hoang mũi chó, râu ). Xã hội “ta” là “Thiên đường” (“Miền Bắc, thiên đường của các con tôi”). Xã hội của “chúng nó” là “hố thẳm không cùng” (“…Biết bao thân tù hãm. Đọa đầy trong những hố thẳm không cùng), là “hầm người” (“Nơi rộng mênh mông không giới hạn <…> Nhô nhúc – trời ơi! Một khối người”) , là “lò sát sinh” (“Ôi nhân loại! Địa cầu cháy bỏng. Lò sát sinh ngập máu xương rơi. Lũ đế quốc như bầy quỉ sống. Nướng người ăn nhảy nhót reo cười”). “Ta nay” là “hoa” (“Ta làm sen thơm ngát giữa đầm”), là “ban ngày” (“Nay thêm sông biển, lại thêm ban ngày), là “vui và ánh sáng” (“Ngày mai đây tất cả sẽ là chung. Tất cả sẽ là vui và ánh sáng”). “Xưa”, dưới ánh thống trị của “chúng”, tất cả chỉ là “máu” (“Sân đình máu chảy…”. “Lò sát sinh ngập máu xương rơi” ), là “đêm”, “bóng tối” (“Ôi những đêm xưa, tối mịt mùng”. “Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm”, “Lần đêm bước <…> Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi” ).

Giọng “quyền uy” của phong cách hịch văn được cất cao trong thơ Tố Hữu bởi những lời kêu gọi hành động đáp trả quyết liệt tội ác man rợ của kẻ thù theo nguyên tắc: “Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu”. Giặc “đốt nhà”, “giết người”, “cướp nước ta, cắt cổ dân ta”, thì “ta”:

Cầm dao, cầm súng xông ra phen này!

Đánh cho giặc Nhật tan thây.

Vằm cho nát mặt cả bầy Việt gian.

Diệt trừ phát xít Việt gian”.

Hoặc:

Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm.

Hãy sẵn sàng tay mác nhảy lên đâm.

Giết, bắt sống, không mống nào được thoát!

Anh đại bác gầm lên trong tiếng hát”.

Cuối cùng, giọng hịch văn đầy “quyền uy” thể hiện rõ nhất qua hệ thống nhan đề tác phẩm, qua lớp từ và câu mệnh lệnh thức được sử dụng dầy đặc trong thơ Tố Hữu. Một loạt bài thơ của ông có nhan đề được đặt bằng các từ, hoặc các mệnh đề mệnh lệnh: Đi đi em, Liên hiệp lại. Giờ quyết định, Dậy lên thanh niên, Tranh đấu, Quyết hi sinh, Dậy mà đi, Đi, Giết giặc, Hãy đứng dậy (Từ ấy), Bắn, (Việt Bắc) … Hai chữ “ra trận” giống như một mệnh lệnh được Tố Hữu sử dụng đặt tên cho cả một tập thơ, tập: Ra trận. Có thể tìm thấy nhiều hô ngữ hàm ý kêu gọi, hiệu triệu, như “hỡi”, “ơi”, trong vô số câu thơ của Tố Hữu: “Thi sĩ hỡi”. “Hỡi những tù nhân …!”. “Bạn đường ơi” “Kiêu hãnh chút, bạn đời ơi!”. “Hỡi người bạn! Vui lên đi! Ất Dậu”.“Hỡi những con khôn của giống nòi”.“Hỡi tất cả những người đang sống’.“Ơi các anh xung kích”… Đặc biệt, thơ Tố Hữu đầy ắp những câu mệnh lệnh: “Đi đi em!”. “Đi, bạn ơi, đi! Biệt tháng ngày!”. “Nào đi tới!”. “Đi ta đi! Khai phá rừng hoang!”. “Này hãy nghe cả lâu đài xã hội. “Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát”. “Hãy đứng dậy ta có quyền vui sống”. “Này phá, dô ta ! nào ta phá”. “Quyết chiến đấu nào ta liên hiệp lại!”. “Đứng lên đi, xây dựng cuộc đời chung”. “Tiến lên, quân giải phóng!” “Tiến lên giành quyền sống”. “Hãy nhằm hướng phương đông mà tiến”. “Hãy nhớ lấy lời tôi”. “Anh chị em ơi! Hãy giương súng lên cao chào xuân 67”

Chính các cặp đại từ nhân xưng, những hình ảnh tượng trưng tương phản, các hô ngữ hàm ý kêu gọi, những câu mệnh lệnh thức được sử dụng trong thơ Tố Hữu đều là cấu trúc biểu nghĩa vốn có sẵn của hịch văn. Những cấu trúc biểu nghĩa có sẵn này đã mang lại cho thơ ông giọng điệu đầy “quyền uy”, khi thì hào sảng, lúc quyết liệt, đanh thép. Nhưng nên nhớ, đây là đặc trưng của phong cách thể loại, chứ không phải là sản phẩm của ý thức sáng tạo cá nhân.

3. Ca thi. Khái niệm này có nội hàm tương đương với phạm trù “Tụng” trong mĩ học phương Đông, hoặc “Ode” của mĩ học phương Tây. Nó là thơ tán dương, ca ngợi. Tố Hữu bắt đầu viết ca thi từ năm 1946. Các bài Hồ chí Minh, Huế Tháng Tám, Vui bất tuyệt in trong Từ ấy là những tác phẩm ca thi đầu tiên của ông. So với Từ ấy, số lượng ca thi trong Việt Bắc nhiều hơn. Đêm xanh, Cá nước, Lên Tây Bắc, Sáng tháng năm, Ta đi tới, Việt Bắc… là những áng ca thi đặc sắc của thơ ca Cách mạng. Đặt nhan đề cho tập thơ được sáng tác sau ngày hòa bình lập lại là Gió lộng (1955 – 1961) với câu đề từ rút từ bài Mẹ Tơm: “Gió lộng đường khơi rộng đất trời!”, Tố Hữu đã hé lộ để người đọc nhìn thấy một thời đại ca thi thực sự đã được mở ra. Kể từ đây, cùng với “hịch”, ca thi trở thành mô thức tu từ chủ đạo trong sáng tác của ông.

Như đã nói, Tố Hữu làm thơ là để phục vụ và tuyên truyền Cách mạng. Thơ ông là thơ trữ tình chính trị[3]. Toàn bộ ca thi trong sáng tác của ông không vượt ra ngoài giới hạn của ba loại chính ca đã trở thành điển phạm: Đảng ca, Lãnh tụ caCách mạng ca.

Đảng ca là thơ ca ngợi Đảng. Hai bài thơ đầu tiên của Tố Hữu lên tiếng ca ngợi Đảng là Từ ấy (1938) và Con cá chột nưa (1940). Hồi ấy, có lẽ do hoàn cảnh hoạt động bí mật, nhà thơ chỉ nói tới “Mặt trời chân lí” (“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lí chói qua tim”) “Đôi mắt thần: chủ nghĩa”(“Tôi sẵn có trong mình. Đôi mắt thần: chủ nghĩa”). Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, ông mới hô vang giữa chiến khu Việt Bắc: “Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ. Đảng chói lọi, Hồ Chí Minh vĩ đại”. Năm 1960, Tố Hữu viết trường ca Ba mươi năm đời ta có Đảng. Tác phẩm vừa là bản diễn ca Đảng sử, vừa là màn hợp xướng ngợi ca “Đảng chói lọi”. Từ đây, ông trở thành thi sĩ hàng đầu của dòng Đảng ca trên bầu trời văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thơ ông chuyển tải không mệt mỏi tới người đọc một đại tự sự: Đảng là trí tuệ, là văn minh, là người phát động phong trào, tổ chức nên mọi thắng lợi, cứu dân, cứu nước, biến giấc mơ ngàn đời của những kẻ nô lệ thành hiện thực:

Nghìn năm giấc mộng đêm ngày

Ba mươi năm Đảng, hôm nay có mình.

Lãnh tụ ca là thơ suy tôn lãnh tụ. Năm 1946, Tố Hữu viết bài Hồ Chí Minh và trở thành thi sĩ Việt Nam đầu tiên sáng tác Lãnh tụ ca. Năm 1952, ông viết bài Sáng tháng năm nổi tiếng. Năm 1969, Tố Hữu khóc Bác bằng bài Bác ơi, một năm sau, ông cho ra đời trường ca Theo chân Bác. Ngoài Hồ Chí Minh, Tố Hữu còn viết về Stalin (Bài ca tháng Mười, Đời đời nhớ ông), Lênin (Trước Kremlin, Với Lênin, Lều cỏ Lênin). Tôi tin, ở Việt Nam, cho đến nay, chưa một nhà văn hay nhà thơ nào viết về lãnh tụ có sức lay động lòng người mạnh mẽ như Tố Hữu. Có điều, chỉ cần đọc qua, ai cũng thấy, những vần thơ suy tôn lãnh tụ của ông không nói với ta điều gì mới mẻ ngoài những tri thức một thời ta đã được học, đã được biết, ví như, Bác Hồ là “tinh hoa của dân tộc”, là bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, Bác vĩ đại, mà giản dị, suốt “một đời thanh bạch chẳng vàng son”, Người là “Ngọn đuốc thiêng <…> đi trước, nghìn sương muôn tuyết. Dắt dìu dân nước Việt Nam ta”. Nói như thế để thấy, không phải nội dung, mà chính là lớp tu từ đã tạo nên sức hấp dẫn cho những vần thơ suy tôn lãnh tụ của Tố Hữu.

Cách mạng ca là thơ ca tụng Cách mạng. Trong sáng tác của Tố Hữu, đây là bộ phận có khối lượng lớn nhất và nó thường dựa vào các tứ thơ được lặp đi lặp lại như những mô thức dễ nhận biết. Trước hết, phải kể tới một tứ lớn: “Biển sống trào lên thành đại hội”. Lần đầu nó được mở ra trong bài Vui bất tuyệt:

Biển sống trào lên thành đại hội

Muôn màu vũ trụ kết hoa đăng

Xôn xao mặt đất trăng là trăng

Chảy xiết Ngân hà, muôn sao vàng rực

Mặt trời đỏ huyền kì mọc lên, ôi náo nức

Nhạc trân gian cuồn cuộn bốc hồng trần!

Đây là tứ thơ lấy cảm hứng trực tiếp từ không khí của những ngày Tổng khởi nghĩa năm 1945 ở Huế và có nguồn cội từ luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”. Về sau, nó trở thành tứ thơ trung tâm, làm nên linh hồn của Cách mạng ca trong sáng tác của Tố Hữu. Về điểm này, có lẽ không cần nói gì thêm, vì trên kia tôi đã chứng minh: Tố Hữu không chỉ mô tả Cách mạng như ngày hội lớn của dân tộc, mà còn sử dụng ngôn ngữ hội hè để kiến tạo bức tranh thế giới, biến cả thế giới thành vũ hội Cách mạng.

Một tứ thơ khác: “Đời ta gương vỡ lại lành. Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”. Đó là tứ thơ nói về sự hồi sinh của cả một dân tộc được Cách mạng cứu rỗi. Lần đầu tiên nó được thể hiện bằng cảm hứng sục sôi trong bài Huế tháng Tám:

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gong xưa đã gẫy

Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!

Nhà thơ đã sáng tạo ra một ẩn dụ độc đáo để thể hiện sự hồi sinh: suốt bốn nghìn năm dân tộc chỉ còn là lồng “ngực lép”, nay được “cơn gió mạnh … thổi phồng lên”:

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gẫy

Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh

Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời.

Cái tứ nói về một dân tộc nô lệ, một thế giới đã “chết”, nay được Cách mạng “hồi sinh”, vụt đứng lên thành người tự do, cao lớn sẽ còn lặp đi lặp lại hàng mấy mươi lần bằng những ẩn dụ và các hình ảnh tượng trưng khác nhau trong nhiều bài thơ của Tố Hữu, ví như: Ta đi tới (“Mẹ ơi lau nước mắt. Làng ta giặc chạy rồi. Tre làng ta lại mọc. Chuối làng ta xanh chồi”), Lại về (“Hà nội ơi, Hà nội! Cay đắng tám năm ròng. <…> Bây giờ đây lại là đây. Quốc kì đỉnh tháp, sao bay mặt hồ…”), Xưa…nay (“Xưa là rừng núi là đêm. Giờ thêm sông biển, lại thêm ban ngày”), Quê mẹ (“Huế không buồn nữa, Huế ta ơi. Nước mắt trăm năm đã hé cười”), Quang vinh Tổ Quốc chúng ta (“Khổ trăm năm, cực mấy nghìn năm <…> Ta đứng dậy hai tay giải phóng”), Ba mươi năm đời ta có Đảng (“Thở nô lệ dân ta mất nước <…> Ta đã đứng nên người độc lập. Cao bằng người nào thấp thua ai?”). Cái tứ này còn được Tố Hữu sử dụng để nói về sự hồi sinh của Ba Lan: “…Vác-sa-va ấm nắng ban trưa. Nét vàng lịch sử vừa tươi lại. Trong cuộc hồi sinh tạnh gió mưa” (Em ơi…Ba Lan), của Trung Quốc: “Trung Quốc đó. Sức thanh xuân bừng dậy. Có phải chăng xưa nàng tiên nữ ấy. Mấy nghìn năm đầy đọa tháp Lôi Phong. Vươn mình lên rực rỡ dưới cờ hồng” (Đường sang nước bạn), của Liên Xô và cả nhân loại: “Thuở Anh chưa ra đời <….> Đêm ngàn năm man rợ <…> Từ khi Anh đứng dậy.Trái đất bắt đầu cười…” (Bài ca tháng mười), “Những xác chết nằm không nhắm mắt <…> Đã sống lại làm người được sống. Đã đứng lên vĩnh viễn là người” (Bay cao)… Có thể nói, đây là tứ thơ làm nên nội dung cốt lõi của Cách mạng ca trong sáng tác của Tố Hữu.

“Đời trẻ lại. Tất cả đều các mạng”. Có một thiên đường mặt đất ở quanh ta (“Miền Bắc thiên đường của các con tôi”). Đó là tứ thơ nổi lên trong Gió lộng. Nó ca tụng Cách mạng ở thời đại mới. Ở thiên đường này không còn đói nghèo (“Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng”. “Hết khổ rồi, em nhỉ Hỉ Nhi ơi. Em mặc áo hoa, em đi hài ấm”), rất tự do, đầy hòa thanh hòa điệu (“Rất tự do nên tượi nhạc tươi vần”. “Người yêu người sống để yêu nhau” ), người hóa thành thiên thần (“Từ kiếp vượn hỗn mang nguyên thủy (…) Ta đứng trên trái đất làm người (…) Như thiên thần bay giữa trăng sao”), tương lai rộng mở, đời từ nay thế là có hướng đi: “Gió lộng đường khơi rộng đất trời”. Ra trận ngợi ca Cách mạng bằng một tứ thơ khác: “Lịch sử chọn ta làm điểm tựa”, “31 triệu nhân dân” ào ào “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, phơi phới một niềm tin “làm người lính đi đầu”.

Bàn về Cách mạng ca trong sáng tác của Tố Hữu, không thể không nhắc tới có một loạt bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của các loại tình cảm cách mạng, ví như tình “tiền tuyến hậu phương – quân dân cá nước” (Cá nước), tình son sắt thủy chung giữa miền xuôi và miền ngược, người kháng chiến với chiến khu cách mạng (Việt Bắc). Ông cũng có nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của quần chúng Cách mạng, như chú bé liên lạc (Lượm), anh bộ đội cụ Hồ thới kháng chiến chống Pháp (Giữa thành phố trụi), người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ (Tiếng hát sang xuân), chị lao công (Tiếng chổi tre), hoặc các anh hùng liệt sĩ (Người con gái Việt Nam, Hãy nhớ lấy lời tôi). Nhưng có lẽ Tố Hữu thành công hơn cả trong việc dựng tượng đài cho các bà mẹ Cách mạng Việt Nam, ví như Bà má Hậu Giang (Bà má Hậu Giang), bà bủ (Bà mẹ Việt bắc, Bà bủ), bà bầm (Bầm ơi), mẹ Suốt (Mẹ Suốt), mẹTơm (Mẹ Tơm) với nhiều hình ảnh giàu sức khơi gợi: “Nước non muôn quí ngàn yêu. Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang”; “Bầm ra ruộng cấy bầm run. Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non”; “Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung. Gió lay như sóng biển tung trắng bờ…”; “Buồng mẹ – buồng tim – giấu chúng con (…). Sống trong cát, chết vùi trong cát. Những trái tim như ngọc sáng ngời”

Trong “Ca thi” của Tố Hữu, đối tượng ca tụng là Đảng, Lãnh tụ và Cách mạng. Chủ thể phát ngôn ở đây chỉ có thể là “con”, “chúng con”, hoặc là “ta”, “chúng ta” hiểu theo nghĩa là “chiến sĩ đồng bào”: “Con nghe Bác tưởng như lời non nước. Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”. “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta. Ta bỗng lớn ở bên người một chút”. “Ca thi” là tiếng nói hướng thượng. Giống như “Thệ” và “Hịch”, nó là tiếng nói của không gian “tôn ti”. Tuy nhiên, giữa chúng có một điểm khác biệt cơ bản. “Thệ” và “Hịch”là những tiếng nói thể hiện xu hướng chính trị hóa văn nghệ. Xu hướng thẩm mĩ hóa chính trị lại là đặc điểm quan trọng nhất của “Ca thi”. Nó sử dụng rộng rãi ngôn ngữ hình tượng để tác động vào trực cảm, trực giác. Ta hiểu vì sao “Ca thi” của Tố Hữu dồn mọi nỗ lực để kiến tạo hai loại hình tượng: hình tượng thị giáchình tượng thính giác.

Vẽ tranh là cách tốt nhất để tạo ra hình tượng thị giác. Nhà thơ mời gọi: “Anh hoạ sĩ làng Hồ, lại đây anh, mà vẽ”. Ông trầm trồ: “Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh”. Đọc “Ca thi” của ông ta như được tận mắt nhìn thấy một bức tranh với mấy nét vẽ cơ bản.

Nét thứ nhất: vẽ động thái của đối tượng ca ngợi bằng cặp động từ “đi”, “đi tới” “bay”, “bay lên”. Trong thơ Tố Hữu, ai cũng như đang “đi tới” (“Yêu biết mấy những con người đi tới), đôi tay hóa thành “hai cánh” (“Hai cánh tay như hai cánh bay lên), lòng người phấp phới “bay” (“Ta đi đây, lòng ta như bay), đất nước là “cỗ xe trăm mã lực khổng lồ” do “Bàn bàn tay thần diệu của Bác Hồ. Cầm chắc lái, bay trên đường vạn dặm, tất cả đều như đang “đi”, “đi tới”, “bay”, “bay lên”, “bay giữa trăng sao”. Về điểm này, tôi đã trình bày trong phần nói về “ngôn ngữ hội hè”, nên sẽ không bàn luận gì thêm.

Nét thứ hai: vẽ ra hình sắc của vũ trụ. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhận xét tinh tế về ngôn ngữ giàu hình ảnh và màu sắc trong thơ Tố Hữu. Ông phát hiện: “hình ảnh ngôn từ trong thơ Tố Hữu thể hiện một thế giới đang “bừng sáng, bốc cháy, nóng bỏng”. Tố Hữu “thích nói đến mặt trời chân lý, mặt trời lên, đỏ như sao hoả, sáng sao kim, chói lọi khối sao băng, cả địa cầu thành ngôi sao, muôn vạn vì sao dẫn đường”. Theo nhà nghiên cứu, Tố Hữu “thích dùng những hình ảnh nóng cháy – ngọn đuốc thiêng liêng, tim ta làm ngọn lửa…”, vì thế, “cả thế giới trong thơ Tố Hữu, ngoại trừ bọn phản động, tất cả đều phát sáng”[4].

Nét thứ ba: dùng các chi tiết ngoại hình “mặt”, “má”, “ngực”, “bàn chân”, “hai cánh tay” để vẽ ra một cơ thể cường tráng. Nó là cơ thể của “Cộng hòa ta nay tuổi mới mười ba”, của “Đất huy hoàng 25 tuổi trẻ”, của “các em”, “các anh”,các chị”, của “những người trai, những cô gái yêu”. Tất cả đều trẻ trung “trẻ mãi không già”. Người già nua, tật nguyền không bao giờ xuất hiện trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng. Mẹ Suốt, hay “các cụ bạch đầu quân” trong thơ Tố Hữu đều “trẻ lại”, “thành cách mạng” để “Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Ta hiểu vì sao, nhà thơ thường gắn cơ thể cường tráng của của “cộng hòa ta”, của “đất nước huy hoàng” với “xuân”, “mùa xuân”: xuân đất trời, xuân Tổ quốc và cả “xuân nhân loại”. Nổi bật trên cơ thể cường tráng kia là“mặt người rạng rỡ”, “Gương mặt người, ai cũng sáng long lanh”. Và trên gương mặt “rạng rỡ” ấy bao giờ cũng ửng lên đôi má “bồ quân” (“Ngơ ngác trông quanh lạ mấy lần. Hỏi thăm cô gái má bồ quân), “má hây hây” (“Hỡi em đi học, hây hây má tròn), “má hồng” (“Ga mới hồng đôi má. Cầu mới thơm mùi sơn”) “má đỏ dậy” (“… Có gì vui đấy. Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy?” ) “má đỏ thắm” (“Em nói, em cười, má em đỏ thắm), “má hường” (Những sắc đẹp đã ửng hường đôi má. Cộng hòa ta nay tuổi mới mười ba”). Hấp dẫn nhất là các chi tiết nói về “lồng ngực” (Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ”. “Giương ngực nở, đi đến bờ bến mới”. “Ngực dám đón những phong ba dữ dội”), “bàn chân”, ( “Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn (…) Những bàn chân của Hóc Môn, ba tơ, cao Lạng (…) Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu…”. “Chân đạp bùn không sợ các loài sên”…), “bắp chân”, “bước chân”, “đôi vai” (“Bước trường chinh, bắp chân đã vững. Gánh sơn hà vai cứng đảm đương”. “Bước chân ta vững như đồng như sắt”…). Chính những chi tiết như thế làm hiển hiện trước mắt người đọc một cơ thể trẻ trung, cường tráng, ngời ngời sắc xuân, hừng hực sức sống.

Hình tượng thị giác trong thơ Tố Hữu không chỉ là tranh vẽ, mà còn là tượng đài uy nghi, hoành tráng được khắc họa bằng ngôn ngữ khoa trương. Về điểm này, tôi cũng đã nói ở trên, nên không có gì phải bàn thêm.

Hình tượng thính giác cũng tác động mạnh mẽ tới trực giác, trực cảm. Cách tốt nhất để “Ca thi” tạo ra hình tượng thính giác là hô khẩu hiệu. Nhan đề nhiều bài thơ của Tố Hữu tự nó đã là một khẩu hiệu: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Vinh quang Tổ quốc chúng ta!”. Người đọc có thể nghe thấy các khẩu hiệu được nồng nhiệt hô vang trong nhiều tác phẩm của ông: Huế tháng Tám (“Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm”), Hồ Chí Minh (“Hồ Chí Minh. Người trẻ mãi không già!”), Sáng tháng Năm (“Việt Nam phải tự do. Thế giới phải hòa bình!”), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!”.), Hai anh em ( “Giữ hòa bình, Tổ quốc chúng ta! …Ngàn năm Triều – Việt một nhà!”), Chào xuân 67 (“Mác – Lênin, vĩnh viễn mặt trơi!”), Bài ca xuân 68 (“Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”), Theo chân Bác (“HỒ CHÍ MINH! HỒ CHÍ MINH!”)…

Dĩ nhiên, trong nghệ thuật, hiện thân của hình tượng thính giác là hình tượng âm nhạc. Cốt lõi cấu trúc của hình tượng âm nhạc là giọng điệu. Trong nghệ thuật ngôn từ, nền tảng của giọng điệu là ngữ điệu. Năm 1921, trong một công trình nghiên cứu nổi tiếng, dựa vào cú pháp giọng điệu, lấy ngữ điệu làm bản vị, B.M. Eikhenbaum đã chia câu thơ trữ tình Nga thành ba loại phong cách: điệu ca, điệu ngâm điệu nói[5]. “Ca thi” trong sáng tác của Tố Hữu chủ yếu thuộc điệu ngâmđiệu ca. Có thể nhận ra ba đặc điểm cốt yếu về tổ chức ngữ điệu của điệu ca trong “Ca thi” của Tố Hữu.

Thứ nhất: Câu cảm thán và câu nghi vấn tu từ với từ đánh dấu giọng. Nhiều bài thơ của Tố Hữu sử dụng dày đặc các câu cảm thán, câu chỉ định và câu nghi vấn tu từ hàm ý thán phục, ngưỡng mộ, tự hào với những từ đánh dấu giọng, như “ôi” ( Ôi ta biết cảm ơn ai đã sáng tạo cái tên người dũng ĩ!”.“Ôi sức trẻ! Xưa trai phù Đổng”.“Ôi hạnh phúc! Ta yêu vô tận” ), “đó (“Lênin đó. Muôn triệu lần nảy nở (…) Lênin đó. Ngời ngời chân lí”. “Đời vui đó hôm nay mở cửa. Đời vui đó, tiếng ca đoàn kết”…), “biết bao” ( “Đẹp biết bao, cuộc chiến đấu anh hùng”), “sao” (“Đáng yêu sao, những mảnh đất bạc màu. (…) Nghe Đảng khuyên, bỗng thấy mình giàu”), “vì sao” ( Vì sao nhỉ, anh em ơi có lúc. Ta vẩn vơ mơ tưởng trên đường”), “có thấy” ( “Này các chị các anh, đi trên đường có thấy. Nước non mình đâu cũng đẹp như tranh?” ), “phải không” (Phải không vậy, Trong tay ta, tất cả?” ), “phải chăng” ( Phải chăng có những khúc đường nóng lạnh”). Quan trọng hơn, trong điệu ca, các từ đánh dấu giọng thường được đặt vào những vị trí xác định, ví như đầu câu, hoặt đầu mỗi nhịp thơ. Chẳng hạn:

Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát

Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non

Yêu biết mấy, những con đường ca hát

Qua công trường mới dựng mái nhà son!

Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng(…)

Yêu biết mấy, những con người đi tới …

Hoặc:

Vì sao ngày một thanh tân?

Vì sao người lại mến thân hơn nhiều?

Vì sao cuộc sống ta yêu.

Mỗi giây, mỗi phút, sớm chiều thiết tha?”

Vì sao mỗi hạt mưa sa?…

Thứ hai: Hơi thơ liền mạch. Tố Hữu triệt để sử dụng sức mạnh của tất cả các loại gieo vần, vần lưng, vần chân, vần thông, vần gián cách, vần ngay trong nội bộ dòng thơ, gây ấn tượng không có sự ngưng giọng hay ngắt giọng, tạo ra hơi thơ liền mạch trong suốt toàn bài. Để bạn đọc hình dung, xin dẫn đoạn mở đầu bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên:

Tin về nửa đêm

Hỏa tốc hỏa tốc

Ngựa bay lên dốc

Đuốc chạy sáng rừng

Chuông reo tin mừng

Loa kêu từng cửa

Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa

Một đoạn khác trong bài Ta đi tới:

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu phân tích kĩ tổ chức vần điệu và hơi thơ liền mạch trong sáng tác của Tố Hữu, nên tôi thấy không cần nói gì thêm về đặc điểm này.

Thứ ba: Điệu giọng réo rắt. Như đã nói, Tố Hữu bắt đầu viết “Ca thi” từ các bài Hồ Chí Minh, Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt trong tập Từ ấy. Đem so sánh cú pháp giọng điệu trong Từ ấy với Việt Bắc và các tập thơ về sau của ông, ta thấy có sự khác biệt hết sức cơ bản. Từ ấy có 34 bài thơ viết theo thể 8 tiếng, 18 bài thất ngôn, 9 bài ngũ ngôn, 11 bài lục bát và song thất lục bát. Như vậy ở đây, câu thơ 8 tiếng là sự ưu tiên lựa chọn hàng đầu của Tố Hữu. Không cần phải thống kê chi tiết như thế, ai cũng có thể đoán được, từ Việt Bắc, đặc biệt là ở những tác phẩm quan trọng nhất của Tố Hữu, ưu tiên lựa chọn hàng đầu của ông chắc chắn sẽ là câu thơ lục bátsong thất lục bát. Ta biết, câu thơ 8 tiếng là hình thức câu thơ cơ bản của Thơ mới lãng mạn. Nó vốn là câu hát nói, viết theo lối cú pháp liên tục, làm thành câu thơ điệu nói hiện đại. Thơ thất ngôn và song thất lục bát là sản phẩm của thơ ca trung đại. Lục bát là thể thơ dân gian. Câu thơ thất ngôn được tổ chức theo nguyên tắc cú pháp song hành, tạo ra vẻ đẹp trang nghiêm. Trong sáng tác của Tố Hữu, ngay cả lục bát cũng cũng được viết bằng cú pháp song hành như vậy. Chẳng hạn, hầu hết các câu 8 tiếng trong bài Việt Bắc đều được chia thành hai vế đăng đối với nhau:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ// những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối// mối thù nặng vai

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng// măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám //đậm đà lòng son

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật// thuở còn Việt Minh

Nhưng về cơ bản, thơ lục bát được tổ chức theo qui tắc cú pháp trùng điệp hồi hoàn. Qui tắc này thể hiện ở cách gieo vần: vần lưng (chữ cuối của câu lục vần với chữ thứ 6, hoặc chữ thứ tư của câu bát) và vần chân (chữ cuối của câu bát vần với chữ cuối của câu lục ở cặp thơ tiếp theo). Cú pháp hồi hoàn, trùng điệp là nền tảng của điệu ru. Cú pháp đăng đối, song hành là cơ sở của điệu ngâm. Xét từ phong cách giọng điệu, hành trình thơ của Tố Hữu bắt đầu từ điệu nói (Từ ấy), rồi chuyển qua điệu ngâmđiệu ru (Các tập Việp Bắc, Gió lộng, Ra trận. Máu và hoa). Điệu ngâm, điệu ru cùng với tổ chức vần điệu linh hoạt, đa dạng đã mang lại cho câu thơ của ông một giọng điệu cực kì réo rắt.

Có thể nói, Sáng tháng năm, Việt bắc, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Bài ca mùa xuân năm 1961, Mẹ Suốt, Kính gửi cụ Nguyễn du, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm là những bản Lãnh tụ ca, Đảng ca Cách mạng ca thuộc loại réo rắt nhất trong lịch sử thi ca đương đại.

4. Đại cáo. Tôi dùng khái niệm này trước hết để chỉ những tác phẩm ví như Huế tháng tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Ba mươi năm đời ta có Đảng, hay Nước non ngàn dặm. Đó là những tác phẩm được Tố Hữu viết ra để đánh dấu một sự kiện, kết thúc một giai đoạn lịch sử, công bố một thắng lợi. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng, là văn học của thắng lợi. Cho nên, quá già nửa sáng tác của Tố Hữu mang dáng dấp, hơi hướm của “Đại cáo”. Xin đọc đoạn mở đầu bài Chào xuân 67:

Đất nước ta ơi
Xin bắn hai mươi phát đại bác vang trời
Chào xuân 67!
Xuân của chúng ta
Nam Bắc hai miền chiến công lừng lẫy!
Báo cho anh em bè bạn gần xa
Tin vui của chiến trường chống Mỹ!

Đó là phần mở đầu của một văn bản mang phong cách “Đại cáo”. Nó chẳng khác gì cái mở đầu của bài Ba mươi năm đời ta có Đảng :

Anh chị em ơi!
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng đường dài…
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con chim én mới
Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa.

Cho nên, “Đại cáo” cũng là một khuôn mẫu từ chương có vị trí quan trọng trong sáng tác của Tố Hữu. Chủ thể phát ngôn của nó là “Ta”, “Chúng ta”. Nó nhân danh đất nước, Tổ quốc để nói với “Chúng con”, với “Chiến sĩ đồng bào”. Cũng như “Hịch”, tiếng nói của nó bao giờ cũng cất lên từ trên cao, vang xa giữa một không gian công cộng. Nền tảng cấu trúc của nó là một câu chuyện lịch sử. Trong Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có câu chuyện “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”. Trong Ta đi tới có câu chuyện “Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ. Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân”. Ở Vinh quang Tổ quốc chúng ta, nhà thơ “Trông lại quãng đường qua máu đỏ” để kể chuyện “Trải mười năm chiến đấu gian lao. Trông mình nay đã lớn cao…”. Trong hàng loạt tác phẩm khác, như Đường sang nước bạn, Em ơi…Ba Lan, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm, Đường của ta đi… cũng có những câu chuyện trường thiên lịch sử như vậy. Rất dễ nhận ra, câu chuyện lịch sử trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng có hai nội dung chính: lập cáo trạng tội ác kẻ thùliệt kê chiến công nối tiếp chiến công, mở ra một cục diện mới. Đây là cặp chủ đề tạo thành khuôn mẫu nội dung của thể “Cáo”. Cũng chính cặp chủ đề ấy đã biến “Đại cáo” trong sáng tác của Tố Hữu thành một mô thức tu từ tổng hợp. Chẳng hạn đây là đoạn “Ca thi” với tất cả những đặc trưng cơ bản của nó trong Ba mươi năm đời ta có Đảng:

Máu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao…
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người
Đời hết kẻ sống lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm hy sinh
Những người lao động quang vinh
Chúng ta là chủ của mình từ đây…
Nghìn năm giấc mộng đêm ngày
Ba mươi năm Đảng, hôm nay có mình

Nhưng trong Ba mươi năm đời ta có Đảng còn có cả “Thệ”:

Dù khi tắt lửa tối trời

Vững lòng quyết sống không rời Đảng ta”

lẫn “Hịch”:

Hỡi quốc dân, hỡi đồng bào!
Có gươm, có súng, có dao hãy dùng
Quyết kháng chiến đến cùng cứu nước!
Toàn dân trông phía trước, tiến lên!

Nhìn chung, từ Việt Bắc, nhất là ở các tập Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, thơ Tố Hữu là hình thức tổng hợp của các mô thức tu từ. Trong sáng tác của ông vừa có tiếng nói hướng thượng cung kính của “chúng con”, của “chiến sĩ đồng bào”cất lên từ phía dưới, vừa có tiếng nói trang trọng, “quyền uy” của “ta”, “Chúng ta”, của Đảng, Lãnh tụ, của Tổ quốc vang lên từ ở bên trên. Bốn mô thức tu từ Thệ – Hịch – Ca thi – Đại cáo tương ứng với tương quan cấp độ của các chủ thể trong sự kiện giao tiếp và hệ thống phân vai trên bức tranh thế giới như những thẩm quyền diễn ngôn trong sáng tác của Tố Hữu. Chúng thực sự biến thi pháp sáng tạo thành thi pháp của cái điển mẫu, mang lại vị thế quyền lực cho diễn ngôn văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

V. KẾT

Tôi chỉ rút ra hai kết luận để khép lại bài viết này:

Thứ nhất: Sáng tác của Tố Hữu bao trùm một thời kì rất dài, với nhiều bước ngoặt thăng trầm trong lịch sử dân tộc. Ông sáng tác từ năm 1937 đến 1992, đời thơ của ông liền một mạch, gắn chặt với quá trình phát triển của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khi hình thành, cho đến lúc nở rộ, quy phạm hoá, rồi giải qui phạm, trở thành hiện tượng văn hóa – lịch sử được bảo quản kĩ trong ‘kho lưu trữ” của thời gian. Lịch sử sáng tác của ông là một phần lịch sử văn học dân tộc. Ông tạo ra cả một hệ thống điển phạm cho nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Không cần kể nhan đề những tác phẩm rất rõ nghĩa, kiểu như Người thay đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi (thơ Chế Lan Viên), Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (nhạc Phạm Tuyên), ai cũng thấy, toàn bộ nội dung những sáng tác ưu tú nhất của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ văn xuôi, như Con trâu (Nguyễn Văn Bổng), Vùng mỏ (Võ huy Tâm), Xung kích, Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Đất nước đứng lên, Rừng xà nu (Nguyên Ngọc), Truyện Tây Bắc, Miền Tây (Tô Hoài), Cửa biển (Nguyên hồng), Dấu chân người lính (Nguyễn minh Châu), Bão biển, Đất mặn (Chu Văn), qua thơ, như Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông, các tập Riêng chung, Một khối hồng, Hai đợt sóng, Hồn tôi đôi cánh (Xuân Diệu), Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời (Huy Cận), Hoa ngày thường-Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới, Ngày vĩ đại, Hoa trước lăng Người (Chế Lan viên), cho tới kí, như Ở Rừng (Nam Cao), Sông Đà (Nguyễn Tuân)… đều không vượt ra ngoài khuôn khổ của chiến lược diễn ngôn, ngôn ngữ thế giới quan và các mô thức tu từ của thơ Tố Hữu. Chẳng những thế, trong số các nhà văn, nhà thơ cùng thế hệ với Tố Hữu và những cây bút sau ông vài thế hệ, không một ai đủ sức phân thân vào tất cả các chủ thể giao tiếp, nhập vào tất cả các “vai truyền thuyết” trên bức tranh thế giới của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa để tạo ra những sáng tác có thể cất lên tiếng nói sang sảng đầy quyền uy của “Hịch Văn” và “Đại Cáo”. Từ Xuân Diệu, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu…, cho tới sau này, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương…, tất cả bọn họ chỉ có thể viết “Thệ văn”, hay ‘Ca thi”, cất tiếng nói về “Mẹ Tổ quốc”, hoặc “chúng con anh hùng”. Tức là cho đến nay, trong nghệ thuật ngôn từ, Tố Hữu vẫn là tác gia hàng đầu của những tác phẩm Đảng ca và Lãnh tụ ca ưu tú nhất. Với ý nghĩa như thế, sáng tác của Tố hữu thự sự là bức tranh thu nhỏ của nền văn học hiện thực hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai: Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước chuyển đổi cực kì quan trọng của lịch sử văn hóa của nhân loại. Đến đây, trên một phạm vi rộng lớn, nghệ thuật hiện đại có xu hướng quay về với các truyền thống từ chương. Sáng tác của M. Gorki, V.V. Maijakovski, A.N. Tolstoi, A.A. Fadeev, D. Furmanov, A.X. Xerafimovich, F. Gladkov, L. Leonov, K. Fedin (Nga), E. Jones (Anh), G. Herwegh, G. Weerth, F. Freilligrath (Đức), E. Pottier (Pháp), Lỗ Tấn (Trung Quốc) và nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam cung cấp nguồn tư liệu vô giá để ta suy ngẫm về hệ thống lí thuyết của các lí luận gia văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các lí luận gia của Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Trung Quốc và cả ở Việt Nam trước đây đều khẳng định hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tốt nhất, nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa là con đẻ của thời đại mới, của một thế giới quan và hệ tư tưởng mới. Nhưng sáng tác của những nhà văn nói trên lại chứng tỏ, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa gắn rất chặt với quá khứ văn hóa của nhân loại. Những gì tôi trình bày trong tiểu luận này cũng chỉ nhằm chứng minh: là lá cờ đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thơ Tố Hữu trở thành kho “kí ức thể loại” (M.M. Bakhtin), nơi lưu giữ vững chãi hệ thống điển phạm – từ chiến lược diễn ngôn, ngôn ngữ thế giới quan, cho tới các mô thức tu từ – của nghệ thuật từ chương truyền thống phương Đông.

LN

Đồng Bát. Tháng 3/2015.


[1] Về bản chất từ chương của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, xin xem: E. Chernoivanhenko.- Tiến trình văn học trong ngữ cảnh văn hoá – lịch sử. Sự phát triển và thay đổi các loại hình văn học và các loại hình ý thức văn học – nghệ thuật trong văn chương Nga từ thế kỉ XI đến thế kỉ XX.- Nxb “Majax”, Odessa, 1997, tr. 487 – 688.

[2] Trần Đình Sử.- Thi pháp thơ Tố Hữu.- Nxb “Tác phẩm mới”, 1987, tr. 51.

[3] Về xu hướng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu, xin đọc: Trần Đình Sử.- Thi pháp thơ Tố Hữu.- Nxb “Tác phẩm mới”, 1987, tr. 24-40.

[4] Trần Đình Sử.- Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, H., 1987, tr.256 – 257.

[5] Xem: B.M. Eikhenbaum.- Nhạc điệu câu thơ trữ tình Nga – Những vấn đề phương pháp luận//Tạp chí “Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật”, số 4, tháng 12/2012, tr. 57 – Nhạc điệu câu thơ trữ tình Nga – Những vấn đề phương pháp luận//Tạp chí “Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật”, số 4, tháng 12/2012, tr. 57 – 68.

Comments are closed.