Cuộc cách mạng cộng sản của Việt Nam: quyền lực và những giới hạn của ý thức hệ (kỳ 2)

Vũ Tường (2017). Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology. Cambridge: Cambridge University Press.

Nguyễn Trung Kiên dịch

CHƯƠNG 1

SUY NGHĨ VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG, 1917 – 1930

Hồ Chí Minh, người đã trở thành biểu tượng cho chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, là một trong những người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Lenin. Sau này ông nhớ lại:

“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tán thành theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái ‘cẩm nang’ đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái ‘cẩm nang’ thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.[64]

Sinh ra với cái tên Nguyễn Sinh Cung (hay Côn) vào khoảng năm 1890, Hồ đã được đi học chính thức một chút từ khi còn nhỏ và trở thành một nhà hoạt động chính trị vào cuối Đại chiến thế giới lần thứ Nhất khi sống ở Pháp.[65] Con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lenin của ông là trải nghiệm chung của nhiều nhà cộng sản Việt Nam, như trường hợp của Trường Chinh. Như Hồ từng thừa nhận, có được niềm tin vào chủ nghĩa Lenin không phải là sự kết thúc mà chỉ là sự khởi đầu của một con đường mới. Phải mất nhiều thời gian và công sức ông mới nắm bắt được đầy đủ các tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Con đường cách mạng là một cuộc vật lộn về trí tuệ, hệt như cuộc vật lộn về thể chất của Nguyễn Ái Quốc (hoặc Quắc hay Kwak trong một số phiên bản), tên mà Hồ đang sử dụng vào thời điểm đó. Có thể quan sát cuộc đấu tranh tinh thần này qua các bài viết của ông: đầu tiên ông thể hiện sự hiểu biết đơn giản và máy móc về khái niệm cách mạng thế giới, nhưng dần dần ông đã bộc lộ một tri thức sâu sắc hơn.

Đến đầu thập niên 1930, Đảng Cộng sản mà Quốc đã thành lập dưới sự hướng dẫn của Quốc tế Cộng sản đã xác định được tầm nhìn rõ ràng và vững chắc về cuộc cách mạng của họ như một thành tố của cách mạng thế giới. Theo tầm nhìn này, cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: giai đoạn “dân chủ tư sản” và giai đoạn “vô sản”. Giai đoạn đầu nhằm lật đổ sự cai trị của người Pháp, tiến hành cuộc cách mạng ruộng đất, và sự hình thành của một quốc gia dựa trên một liên minh bộ ba của công nhân, nông dân và binh lính, nhưng với sự lãnh đạo độc tôn của công nhân. Giai đoạn thứ hai sẽ đưa Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thế giới quan Mác-xít – Lênin-nít thống nhất chứ không chia rẽ giữa Quốc và các đồng chí của ông. Họ đều chia sẻ một tình yêu sâu sắc đối với Liên Xô như một phòng thí nghiệm của cách mạng. Họ không nhìn thẳng vào một số vấn đề, nhưng sự bất đồng của họ phản ánh không phải là sự khác biệt trong thế giới quan của họ hoặc lòng trung thành của họ với Quốc tế Cộng sản, mà là thời điểm bắt đầu tham gia phong trào, trình độ học vấn chính thức và năng lực tiếp nhận lý thuyết của cá nhân, và khả năng tiếp cận kịp thời thông tin từ Quốc tế Cộng sản.

“TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRƯỚC, SAU ĐÓ TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG THẾ GIỚI”

Vào đầu thế kỷ XX, hệ thống thuộc địa của Pháp ở Việt Nam đã được củng cố và sắp được mở rộng nhanh chóng.[66] Trong ba thập kỷ tiếp theo, chính quyền thực dân tiếp tục xâm nhập sâu vào các làng quê Việt Nam để thực thi quyền kiểm soát và khai thác tài nguyên cho một nền kinh tế tư bản đang phát triển. Ở nhiều vùng của thuộc địa, tình trạng nông dân không có đất trở nên phổ biến hơn, và sự bóc lột của nhà nước thông qua thuế, lao động cưỡng bức và bắt giam trở nên hiệu quả hơn.

Trái ngược với bối cảnh phát triển thuộc địa ấy là việc thành lập một hệ thống trường học chính thức dạy tiếng Pháp và các môn học khác, việc sử dụng rộng rãi ngôn ngữ mẹ đẻ của Việt Nam là ‘Quốc ngữ’, và sự xuất hiện của công chúng biết đọc.[67] Tương tự như các thuộc địa khác, những xu hướng này đã thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam hiện đại.[68] Trước thời khắc chuyển giao thế kỷ, vũ trụ quan đối với hầu hết người Việt Nam là không gian văn hóa Đông Á lấy Trung Quốc làm trung tâm. Những tư tưởng từ bên ngoài phạm vi đó hầu như được hấp thụ qua phương tiện ngôn ngữ và thế giới quan của Trung Quốc. Kiến thức về tiếng Pháp đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới cho thanh niên Việt Nam từ thập niên 1920 trở về sau. Nó không chỉ mang lại những khái niệm mới mà còn liên hệ trực tiếp với các phong trào xã hội và chính trị châu Âu thời đó.

Thuật ngữ được Việt hóa, “cách mạng”, theo nghĩa hiện đại của nó, đã được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản và Trung Quốc vào khoảng đầu thế kỷ,[69] nhưng không có bằng chứng nào về việc người Việt biết về Marx và Lenin trước Cách mạng Nga năm 1917.[70] Các bài báo trên báo chí tiếng Việt về cuộc cách mạng đó có thể được lấy từ các nguồn của Pháp và Trung Quốc và nhìn chung là không mấy thiện cảm. Ví dụ, tờ ‘Nam Phong’ một tạp chí song ngữ Việt/Trung, ca ngợi chính phủ Kerensky và mô tả các đối thủ của họ, bao gồm cả Lenin, là “tham nhũng” và “bán nước” cho Đức để lấy tiền. [71] Thuật ngữ “Bolshevik” được dịch sang tiếng Việt là “quá khích” [cực đoan].[72] Sau đó, trong một phân tích mở rộng về chính trị Nga, ‘Nam Phong’ đưa tin rằng đảng của Lenin ủng hộ việc sử dụng bạo lực để buộc “những nhà tư bản hùng mạnh” phải nhân nhượng nhiều quyền hơn cho người dân.[73] Đồng thời, những người Bolshevik phản đối chiến tranh, tin rằng điều đó sẽ chỉ có lợi cho các nhà tư bản. ‘Nam Phong’ chỉ trích khuynh hướng bạo lực của những người Bolshevik và sự “phản bội Đồng minh” và “làm ô nhục quốc gia (Nga)” bằng cách ký một hiệp định hòa bình với Đức-Áo”.[74]

Ngược lại, các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong ở Pháp và miền Nam Trung Quốc đã hoan nghênh Cách mạng Nga. Tuy nhiên, họ làm vậy vì những lý do khác nhau. Đặc biệt, các nhà cách mạng lão thành của Việt Nam hy vọng có được sự hỗ trợ quân sự của Liên Xô hoặc rút ra những bài học thực tế từ cuộc Cách mạng Nga. Phan Bội Châu, nhà cách mạng lỗi lạc nhất lúc bấy giờ và là người trước đó đã từng tìm kiếm sự trợ giúp của Nhật Bản để chống Pháp, đã đến gặp quan chức Liên Xô tại Bắc Kinh vào năm 1920 để hỏi về khả năng hỗ trợ đưa sinh viên Việt Nam sang học tập tại Liên Xô. Ông mô tả thái độ của các quan chức Xô-viết là “thân thiện và trung thực”.[75] Họ hứa sẽ đài thọ mọi chi phí cho những sinh viên quan tâm với điều kiện những sinh viên đó phải tin vào chủ nghĩa cộng sản và cam kết tiến hành cách mạng ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp. Phan Bội Châu không bộc lộ phản ứng của mình đối với lời đề nghị này nhưng sau đó đã không diễn ra cuộc tiếp xúc nào. Một năm sau, ông viết một bài báo đăng trên tạp chí quân sự Trung Quốc ca ngợi Lenin là một nhà chiến lược cách mạng tài ba.[76] Mặc dù ông ghi nhận chính phủ Xô-viết đã thành lập chính phủ đầu tiên của công nhân và nông dân [chính phủ Lao Nông], nhưng hầu như ông rất ấn tượng, không phải với chủ nghĩa cộng sản, mà với sự thành công của những người Bolshevik trong việc giành chính quyền. Phan Châu Trinh, một nhà cách mạng kỳ cựu khác cùng thế hệ với Phan Bội Châu, cũng phản ứng như vậy. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc năm 1922, Phan Châu Trinh bày tỏ sự ngưỡng mộ chung đối với cuộc cách mạng năm 1917, nhưng với ông bài học chính từ cuộc cách mạng này là người cách mạng chỉ có thể thành công nếu hoạt động ở trong nước (chứ không phải ở nước ngoài). [77]

Cũng như Phan Bội Châu, sự quan tâm của Nguyễn Ái Quốc đối với cuộc cách mạng Bolshevik bắt nguồn từ sự ủng hộ của Lenin đối với nền độc lập thuộc địa. Không giống như Phan, Quốc cố gắng hiểu chủ nghĩa cộng sản bằng cách nghiên cứu lý thuyết và bằng cách tham gia vào phong trào cộng sản.[78] Quá trình cực đoan hóa này được ghi lại trong các bài viết của ông. Quốc rời những người xã hội chủ nghĩa để gia nhập những người cộng sản ở Pháp vào năm 1920, sau khi đọc và bị thuyết phục bởi luận cương của Lenin về vấn đề thuộc địa. Trong suốt các tác phẩm của mình vào đầu thập niên 1920, Quốc bị ám ảnh bởi chủ nghĩa thực dân và tội ác của nó đối với người dân của mình. Nhưng quan điểm của ông ngày càng trở nên quốc tế hóa và chịu ảnh hưởng bởi khái niệm Lênin-nít. [79]

Ví dụ, trong một bài báo xuất bản năm 1921, Quốc đã trích dẫn các nhà tư tưởng Trung Quốc như Khổng Tử và Mạnh Tử để lập luận rằng sẽ dễ dàng hiện thực hóa chủ nghĩa cộng sản ở châu Á hơn ở châu Âu.[80] Theo ông, việc huy động lao động và quyền sở hữu công cộng về đất đai đã phổ biến ở các xã hội châu Á từ thời cổ đại, điều này sẽ khiến họ dễ tiếp thu những tư tưởng và thể chế cộng sản hơn. Bài báo này có lẽ đơn giản được viết để gia tăng sự ủng hộ của giới cánh tả châu Âu với các cuộc cách mạng ở các thuộc địa, nhưng nó tiết lộ sự hiểu biết nông cạn của Quốc về chủ nghĩa Marx.

Tuy nhiên, đến năm sau, Quốc đã hiểu rõ hơn về học thuyết này. Giờ đây, ông đã có thể hiểu cơ sở xã hội của chủ nghĩa cộng sản và phân biệt chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa dân tộc. Ở các thuộc địa, ông phàn nàn rằng:

“người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân. Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích – danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn – có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả”.[81]

Quá trình cực đoan hóa về trí thức được đẩy mạnh sau khi Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô vào tháng Sáu năm 1923 theo lời mời của Quốc tế Cộng sản.[82] Các tác phẩm của ông lúc này chủ yếu tập trung vào chủ đề đấu tranh giai cấp. Một trong các chủ đề yêu thích của ông là các phong trào công nhân trên khắp thế giới.[83] Ông cũng chú ý đến các vấn đề giới và chủng tộc trên tại các quốc gia.[84] Ông đã đi từ việc tố cáo chủ nghĩa thực dân đến việc phát động các cuộc tấn công rộng rãi vào “các nền văn minh” của Pháp và Hoa Kỳ.[85] Trong một bài báo có tiêu đề “Hành hình kiểu Linsơ: Một phương diện ít người biết của nền văn minh Hoa Kỳ”, Quốc đã đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản về chế độ nô lệ và bày tỏ tình đoàn kết với người Mỹ da đen. Bài báo bao gồm các mô tả bằng hình ảnh về một số trường hợp ‘hành hình kiểu Linsơ’, một số hình như được dịch từ các tờ báo Mỹ. Đoạn văn dưới đây, mô tả cao trào của một vụ hành hình, thể hiện tài năng viết lách nhạy bén của Quốc và cảm xúc mãnh liệt của ông về sự bất công đối với người da đen:

“Người da đen không kêu được nữa: lưỡi đã sưng phồng lên vì một thanh sắt nung đỏ gí vào. Toàn thân người ấy quằn quại như một con rắn bị đánh, dở sống, dở chết. Một nhát dao, thế là rụng một tai. Ái chà! Nó mới đen làm sao! Nó mới đáng tởm làm sao! Thế là bọn đàn bà [da trắng] rạch nát mặt người đó ra… [Sau khi họ đốt cháy thi thể của người da đen,] trên mặt đất nhày nhụa mỡ [bị đốt cháy] và [không gian tràn ngập] khói. [Để lại đằng sau] một đầu lâu đen, nát bét, bị thui cháy, không ra hình thù gì nữa, nhǎn nhó một cách đáng sợ và hình như muốn hỏi vầng dương đang lặn rằng: “Đó là [hành động] vǎn minh ư?”.[86]

Trong thời gian viết báo và tham gia các hoạt động của Quốc tế Cộng sản, Quốc cũng đã được đào tạo tại trường Đại học dành cho Người cần lao của phương Đông.[87] Chính phủ Xô-viết thành lập trường đại học này vào năm 1921 để đào tạo các thanh niên nước ngoài về chủ nghĩa cộng sản và khoa học cách mạng. Quốc đã đặc biệt ấn tượng với sự đa dạng về quốc tịch của sinh viên trong trường, phần lớn trong số đó đến từ tầng lớp lao động. [88] Trong lớp học, ông mô tả: “các thanh niên của 62 quốc gia ngồi cạnh nhau như những người anh em ”. Họ không chỉ học tập mà còn giúp đỡ công việc ở các nông trại. Họ sống thoải mái khi nhà trường trả tiền phòng, tiền ăn, quần áo và thậm chí còn cho họ một ít tiền tiêu vặt. Họ được hưởng một cuộc sống tri thức phong phú với việc tự do sử dụng thư viện và rạp chiếu phim. Mặc dù họ bị từ chối các quyền tự do chính trị ở nước mình, họ vẫn được mời tham gia quản lý trường học và thậm chí bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử địa phương, giống như các công dân Xô-viết. Quốc say sưa kêu gọi “những người anh em ở các nước bị đô hộ” so sánh “nền dân chủ tư sản” với “nền dân chủ vô sản”. [89]

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng cuộc sống ở Liên Xô luôn dễ chịu đối với Quốc. Thư khố của Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva vẫn còn lưu giữ một bức thư mà ông viết cho Bí thư Cục Phương Đông của Quốc tế Cộng sản sau khi sống chín tháng ở Moscow.[90] Bức thư yêu cầu giúp đỡ trong việc giải quyết với phòng quản lý nhà ở, nơi đe dọa sẽ đưa ông ra tòa nếu ông không trả số tiền 40 rúp và 35 kopeck mà ông bị cho là đang nợ. Quốc giải thích rằng không phải ông lơ đễnh, mà ông chỉ trả 5 rúp mỗi tháng cho tiền thuê nhà (thay vì toàn bộ tiền thuê, có lẽ như một cử chỉ phản đối?), bởi ngôi nhà ông sống quá ồn ào với bốn hoặc năm người thuê và giường ngủ đầy rệp khiến ông mất ngủ nhiều đêm.

Tuy nhiên, lũ sâu bọ đầy khó chịu, các căn hộ chật chội, và các quy tắc cứng rắn không làm giảm sự ngưỡng mộ của Quốc đối với Liên Xô. Như ông hồi tưởng lại khoảng 20 năm sau:

“Có những kẻ cho nước Nga là một địa ngục. Có những người thì bảo nước Nga là một thiên đường. Đối với [tôi], nước Nga nhất định không phải là một địa ngục, nhưng lúc bấy giờ cũng chưa phải là một thiên đường mà là một nước đang xây dựng có nhiều ưu điểm, nhưng tất nhiên chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Đây đó, người ta còn thấy những vết thương do chiến tranh để lại như những cảnh trẻ mồ côi, thiếu nhà ở, thiếu lương thực, v.v. Song những vết thương đang được hàn gắn dần dần. Khắp nơi, người ta phấn khởi, hy sinh, hăng hái làm việc… [tôi] không quên đây là một nước đã trải bốn năm chiến tranh thế giới và một năm nội chiến… [Tôi] không quên so sánh nước Nga mà cuộc cách mạng đang tiến tới với nước Việt Nam bị nô lệ đã mấy mươi năm”.[94]

Nếu chúng ta có thể tin Quốc, ông không bị ấn tượng bởi mức độ giàu có của Liên Xô cũng như điều kiện xã hội của nó. Đúng hơn, chính lòng nhiệt thành của người dân Xô-viết và những hứa hẹn của cuộc cách mạng đã khiến ông say mê.

Khi Quốc đến miền Nam Trung Quốc vào cuối năm 1924 để làm đặc vụ cho Quốc tế Cộng sản tại Đông Nam Á, hiểu biết lý thuyết của ông đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế. Trong ba năm tiếp theo, Quốc lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (sau đây gọi tắt là ‘Thanh Niên’), một nhóm cách mạng do ông thành lập. Hợp tác chặt chẽ với các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Thanh Niên đã tuyển chọn những hội viên đầu tiên trong số những người Việt Nam lưu vong và tổ chức đưa thanh niên từ trong nước sang Quảng Châu để đào tạo cách mạng.

Với tư cách là người huấn luyện, Quốc đã biên tập báo ‘Thanh Niên’ và là tác giả của cuốn sách nhỏ có tựa đề ‘Đường Kách mệnh’. Cuốn sách nhỏ này là bài phân tích lý thuyết đầu tiên và công phu nhất của Quốc cho đến thời điểm đó. Nó mở đầu bằng câu châm ngôn nổi tiếng của Lenin rằng “không có lý thuyết cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. [92] Quốc giải thích “cách mạng” nghĩa là gì và kêu gọi người Việt Nam theo mô hình của cách mạng Nga.[93] Phân tích cách Quốc giải thích khái niệm cách mạng trong cuốn sách nhỏ này là chìa khóa để hiểu thế giới quan về chủ nghĩa Lenin vừa hình thành của ông.

Quốc sử dụng lý thuyết Marx-Lenin – như ông hiểu – để đề xuất một phương pháp phân loại bao gồm ba loại cuộc cách mạng – đó là, các cuộc cách mạng ”tư bản”, “dân tộc” và “trên cơ sở giai cấp”.[94] Theo Quốc, các cuộc cách mạng tư sản là do mâu thuẫn giữa tư bản và địa chủ; các cuộc cách mạng dân tộc là do xung đột giữa một quốc gia bị áp bức và một quốc gia áp bức; và các cuộc cách mạng trên cơ sở giai cấp là do xung đột giữa các nhà tư bản và công nhân-nông dân. Đặt cạnh nhau ba cuộc cách mạng tư sản, dân tộc và dựa trên giai cấp, Quốc tiếp tục phân biệt giữa cuộc cách mạng dân tộc và thế giới. ”Cách mạng thế giới” được định nghĩa như là sự đoàn kết của nông dân và công nhân thuộc mọi quốc gia và chủng tộc trên thế giới “để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, làm cho tất cả các quốc gia hạnh phúc, [và] tạo ra một thế giới đại đồng”.[93] Cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới khác nhau vì tất cả các tầng lớp xã hội đoàn kết chống lại chính quyền quốc gia đã tạo nên sự kiện trước đây, trong khi giai cấp vô sản của tất cả các quốc gia lãnh đạo sự kiện sau. Quốc tiếp tục:

“Nhưng hai cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau. Thí dụ: An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và [ngược lại nếu] công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do. Vậy nên cách mệnh An Nam với cách mệnh Pháp phải liên lạc với nhau". [96]

Một số bài báo của Quốc viết trước đó trên báo ‘Thanh Niên’ một cách máy móc coi tiến hành cách mạng dân tộc là nhiệm vụ đầu tiên của phong trào cộng sản Việt Nam và tiến hành cách mạng thế giới là nhiệm vụ thứ hai khác với nhiệm vụ thứ nhất.[97] Trong “Đường Kách Mệnh”, những gợi ý đã xuất hiện một quan điểm năng động và tinh vi hơn, hợp nhất cách mạng dân tộc với cách mạng dựa trên giai cấp và với cách mạng thế giới. Mạch tư duy vẫn trôi chảy; có lúc Quốc vẫn cố gắng phân biệt các cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng dựa trên giai cấp với cách mạng thế giới, nhưng ở những điểm khác, cách mạng thế giới được coi là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều thành phần cả về bản chất (vấn đề dân tộc và giai cấp) và địa lý (An Nam và Pháp).

Quá trình phát triển tư tưởng này rất có ý nghĩa vì ban đầu Quốc chỉ quan tâm đến mối quan hệ thuộc địa giữa Việt Nam và Pháp, nhưng giờ đây đã tiến gần hơn đến một thế giới quan trong đó mối quan hệ đó là một phần của những mối quan hệ khác, cơ bản hơn. Sự tách biệt hoặc ngăn cách giữa các loại cách mạng khác nhau trong tâm trí ông là bằng chứng cho thấy sự chấp nhận hoàn toàn hoặc triệt để đối với thế giới quan của chủ nghĩa Marx-Lenin, trong khi sự hợp nhất của các cuộc cách mạng đó đánh dấu một bước nhảy vọt về mặt khái niệm đối với nhận thức về sự phục tùng hoàn toàn về mặt tinh thần đối với thế giới quan đó. Trong thập niên 1940, Quốc vẫn chủ trương ủng hộ tính ưu việt của cách mạng dân tộc so với cách mạng dựa trên giai cấp ở Việt Nam, nhưng lập luận đó chỉ được hình thành trên phương diện chiến thuật. Về mặt khái niệm, Quốc không còn phân biệt giữa chúng. Như sẽ thấy trong phần tiếp theo, những nhà cách mạng trẻ hơn và được giáo dục tốt hơn sẽ thực hiện các bước tiếp theo để trình bày rõ ràng sự hợp nhất khái niệm đó một cách mạnh mẽ hơn.

“CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT THÀNH TỐ CỦA CÁCH MẠNG THẾ GIỚI”

Nguyễn Ái Quốc đến miền Nam Trung Quốc vào thời điểm thuận lợi. Một loạt các sự kiện đã khiến nền chính trị Việt Nam trở nên cấp tiến sâu sắc và chuẩn bị cho việc chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Trước đó vài năm, chính quyền thực dân đã thả nhiều chính trị phạm nổi tiếng như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, những người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống sưu thuế năm 1908 ở miền Trung Việt Nam. Những nhà lãnh đạo lớn tuổi này đã nhanh chóng phục hồi mạng lưới chống thực dân đang nằm im của họ, và sự trở lại của họ đã truyền cảm hứng cho nhiều thanh niên đang hoạt động chính trị.[98] Cơ hội cho những hoạt động như vậy mở rộng với tốc độ phát triển nhanh chóng của báo chí ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 và với các cuộc bầu cử được tổ chức cho các Viên Dân Biểu. Cuộc cải cách được thực hiện bởi Alexander Varenne – Toàn quyền Đông Dương mới (1925-1928), mặc dù hạn chế, cũng đã góp phần hình thành nên bối cảnh chính trị cởi mở hơn.[99] Là một lãnh tụ của Đảng Xã hội Pháp, Varenne đã tìm cách kiềm chế sự bạo ngược của chế độ thực dân ở Đông Dương.

Ngay khi môi trường chính trị nóng lên, nó đã bị xáo trộn bởi hai sự kiện cụ thể: một là việc Phan Bội Châu bị bắt ở Trung Quốc và vụ án xử ông ở Hà Nội năm 1925, và hai là việc Phan Châu Trinh từ Pháp trở về Việt Nam và qua đời sau đó vào năm 1926. Hai sự kiện này đã làm dấy lên sự phẫn nộ lớn của quần chúng và gây ra nhiều cuộc biểu tình tự phát của sinh viên chống lại chế độ thực dân. Hàng trăm học sinh bị đuổi học vì tham gia biểu tình; nhiều người sẽ sớm tham gia các nhóm chính trị bí mật.[100]

Nhờ một môi trường tốt đẹp như vậy, ‘Thanh Niên’ đã thu hút được nhiều hội viên ở trong nước, thông qua việc truyền bá vào Việt Nam hoặc thông qua việc đào tạo trực tiếp cho những thanh niên di cư bất hợp pháp ra khỏi Việt Nam. Nhưng ‘Thanh Niên’ không phải là nguồn duy nhất của những tư tưởng cấp tiến cho các thanh niên Việt Nam. Khi Tôn Dật Tiên tổ chức lại Quốc dân Đảng Trung Quốc (Guomindang hoặc GMD) và chuẩn bị để khởi động một chiến dịch quân sự để thống nhất Trung Quốc, chủ nghĩa tam dân của ông (vốn chịu ảnh hưởng phần nào bởi các tư tưởng cộng sản) cũng đã được phổ biến tại Việt Nam. Sách báo nhập từ Pháp và Trung Quốc hoặc xuất bản ở Sài Gòn cung cấp cho người Việt Nam có trình độ ngoại ngữ những cuộc thảo luận về Marx và Lenin có hệ thống hơn nhiều so với tài liệu của ‘Thanh Niên’.[101]

Các nguồn gốc cuối cùng hình thành niên sự cấp tiến đến từ Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch ra lệnh thảm sát những người cộng sản Trung Quốc ở Thượng Hải, giải tán Mặt trận Thống nhất giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sự “phản bội” của Tưởng đã góp phần hình thành chính sách mới, cấp tiến hơn được quyết định tại Đại hội Thế giới lần thứ sáu và Hội nghị toàn thể lần thứ mười của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, lần lượt vào các năm 1928 và 1929. Tại những sự kiện này, các nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản đã đưa ra lời kêu gọi những người cộng sản trên toàn thế giới tăng cường tính chất vô sản của các đảng của họ và tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản.[102] Việc Tưởng quay lưng lại với những người cộng sản Trung Quốc cũng gây bất an cho các hội viên của ‘Thanh Niên’ ở miền Nam Trung Quốc. Đến giữa năm 1928, Nguyễn Ái Quốc đã sang Trung Quốc khi mà ‘Thanh Niên’ ở Quảng Châu đã suy yếu.

Các điều kiện được mô tả ở trên tại Việt Nam và nước ngoài đã kết hợp lại để dịch chuyển trọng tâm của chủ nghĩa cấp tiến từ miền Nam Trung Quốc vào Việt Nam. Đến cuối năm 1928, ở cả ba miền Việt Nam đã xuất hiện những nhóm cách mạng nhỏ. Một nhóm chính là Việt Nam Quốc dân Đảng (VNP) lấy chủ nghĩa tam dân làm nền tảng tư tưởng. Các hội viên của ‘Thanh Niên’ đã tạo ra các nhóm khác, những người hăng hái đưa phong trào lên một tầm cao mới. Sự chuyển dịch này là trái ngược giữa nhóm Tân Việt chủ yếu ở miền Trung Việt Nam và nhóm Đông Dương ở miền Bắc Việt Nam.

Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Tân Việt) có nguồn gốc từ Phục Việt Hội, được tổ chức vài năm trước đó bởi các chính trị phạm được thả ra từ Côn Đảo. Các nhà lãnh đạo trẻ của Phục Việt được đào tạo từ ‘Thanh Niên’ nhưng cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Tôn Dật Tiên.[103] Theo bản tuyên ngôn của Tân Việt được soạn thảo năm 1928, nhiệm vụ của nó là “đoàn kết các đồng chí trong và ngoài [Việt Nam], lãnh đạo nông dân, công nhân và binh lính trong nước và liên kết với các nước bị áp bức khác để lật đổ chủ nghĩa đế quốc và xây dựng một nền bình đẳng mới và xã hội nhân từ.”[104] Một khi giành được quyền lực, đảng cam kết thực hiện nền chuyên chính vô sản, các quyền bình đẳng của con người cho mọi công dân, cung cấp phúc lợi cho trẻ em, người tàn tật và người già, và quyền sở hữu công cộng về đất đai và các tư liệu sản xuất khác. Đáng lưu ý hơn, bản tuyên ngôn không đề cập đến chủ nghĩa cộng sản như một mục tiêu cách mạng. Các đảng viên mới được kết nạp phải tuyên thệ trung thành “trước hồn thiêng đất Việt và quy luật tôn nghiêm của cách mạng thế giới”.[105] Rõ ràng, chương trình của Tân Việt mang tinh thần cộng sản nhưng ngôn ngữ của nó không thanh lọc hoàn toàn các khái niệm dân tộc chủ nghĩa như trường hợp của ‘Thanh Niên’.

Nhóm Đông Dương có trụ sở tại miền Bắc Việt Nam cung cấp một sự tương phản thú vị với Tân Việt. Được đào tạo bởi ‘Thanh Niên’, các đảng viên Đông Dương như Ngô Gia Tự và Trịnh Đình Cửu nhanh chóng bất đồng với sự lãnh đạo và chương trình chính trị của ‘Thanh Niên’.[106] Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của ‘Thanh Niên’ ở Hồng Kông năm 1929, những người này đã ra khỏi cuộc họp khi đa số những người có mặt từ chối yêu cầu giải tán ‘Thanh Niên’ để thành lập một đảng cộng sản mới.[107] Sau khi trở về từ Hồng Kông, các nhà lãnh đạo Đông Dương đã thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (sau đây gọi là ĐCSĐD).[108]

Tuyên ngôn của ĐCSĐD do Trịnh Đình Cửu soạn thảo cho thấy các nhà lãnh đạo của nó cấp tiến hơn và về mặt lý thuyết có nhiều tham vọng hơn những người đồng cấp của họ ở Tân Việt.[109] Tài liệu bắt đầu với một chương dài về lý thuyết của chủ nghĩa Marx-Lenin, mà nó khẳng định “không phải là một học thuyết bí ẩn hay sản phẩm của trí tưởng tượng của bất kỳ ai, mà là một hệ tư tưởng khoa học dựa trên các chân lý”.[110] Sau khi phân tích mâu thuẫn giai cấp trong các xã hội tư bản, các tác giả của bản tuyên ngôn cho rằng “khoảng cách giữa các giai cấp tư bản và vô sản ngày nay quá lớn nên cuộc đấu tranh giữa họ phải trở nên tàn khốc: một giai cấp phải thắng và tồn tại trong khi giai cấp kia thua và chết.”[111] Ai sẽ thắng? Nó tuyên bố tiếp: “các nước đế quốc đang xung đột và sẽ sớm gây chiến với nhau trong một cuộc chiến có sức tàn phá gấp nhiều lần cuộc chiến gần đây” (tức là Chiến tranh thế giới thứ Nhất). Đối lập với chủ nghĩa đế quốc là “phe vô sản bao gồm hàng triệu anh em vô sản ở các nước tư bản sẵn sàng giành chính quyền, hàng trăm triệu người dân thuộc địa đang kêu gọi làm cách mạng, cũng như hàng triệu anh em vô sản Xô-viết – tất cả đều liên kết trên một mặt trận do Đảng Cộng sản [Liên Xô] và Quốc tế Cộng sản lãnh đạo”. Bản tuyên ngôn kết luận, dựa trên sự cân bằng lực lượng hiện có, ngày tàn của các xã hội tư bản đã điểm.

Trong cùng bản tuyên ngôn này, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đã kết tội ‘Thanh Niên’ và ‘Tân Việt’ về hai tội danh. Đầu tiên, tư cách thành viên của Thanh Niên và Tân Việt là “dành cho tất cả người Việt Nam”. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD nhận thấy chính sách về dân tộc và đảng viên như vậy là “phi cộng sản”. Họ tin rằng chính sách đảng viên “cộng sản” chỉ nên dựa trên giai cấp. Thứ hai, nhớ lại rằng phương châm của ‘Thanh Niên’ trước hết là làm cách mạng dân tộc, sau đó mới làm cách mạng thế giới. ĐCSĐD lập luận rằng điều đó là sai lầm, bởi vì “cách mạng dân tộc [nhất thiết phải] là một thành tố của cách mạng thế giới”.[112] Thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc đòi hỏi một liên minh quốc gia của tất cả các giai cấp mà không phân biệt tư bản với vô sản, và địa chủ với nông dân. Không chỉ không chính xác, phương châm đó còn là “phi cộng sản”.

Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cũng tin rằng cách mạng Đông Dương phải trải qua hai giai đoạn, nhưng họ xác định các giai đoạn khác nhau, cho thấy họ quen thuộc hơn với các khái niệm của chủ nghĩa Lenin. Do chủ nghĩa tư bản chưa phát triển mạnh và các thế lực phong kiến vẫn còn mạnh ở Đông Dương, các giai đoạn đó bao gồm “cuộc cách mạng dân chủ tư sản” do những người vô sản và nông dân lãnh đạo để lật đổ chủ nghĩa đế quốc và phong kiến, và một cuộc “cách mạng xã hội” tiếp theo để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.[113] Công thức hai giai đoạn này xuất phát từ Lenin và hợp nhất các cuộc cách mạng dân tộc, giai cấp và thế giới trong một cơ cấu động duy nhất.[114] Tư duy nhạy bén hơn và ngôn ngữ trong bản tuyên ngôn của ĐCSĐD sáng suốt hơn so với bản “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. Cam kết với chủ nghĩa cộng sản rất chắc chắn và rõ ràng, không giống như cam kết của Tân Việt.

Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD rất tinh vi về mặt lý thuyết, sẽ là sai lầm nếu cho rằng họ giáo điều trong chiến thuật của mình. Trong giai đoạn “dân chủ tư sản”, họ tin rằng khẩu hiệu thích hợp nên giới hạn ở việc phân chia lại ruộng đất cho nông dân, mà chưa phải là quyền sở hữu công cộng đối với tất cả các ruộng đất.[115] Điều này dường như nhằm tối đa hóa lợi ích của nông dân trong cuộc cách mạng. Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD muốn Thanh Niên và Tân Việt giải tán ngay lập tức để mở đường cho một đảng cộng sản mới, nhưng họ sẵn sàng hợp tác với Việt Nam Quốc dân Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng.[116] Bất chấp những lời chỉ trích gay gắt đối với ‘Thanh Niên’, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD vẫn dành sự tôn trọng nhất định đối với Nguyễn Ái Quốc.[117]

Sau khi rời Trung Quốc vào giữa năm 1927, Quốc đã dành khoảng một năm ở Liên Xô và châu Âu trước khi sang Xiêm để tổ chức phong trào cộng sản ở đó.[118] Khi đang ở Xiêm, ông nhận được tin từ một thủ lĩnh của ‘Thanh Niên’ báo về những tranh chấp giữa ‘Thanh Niên’ và ĐCSĐD.[119] Tự xưng là đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Quốc đến Hồng Kông vào cuối năm 1929 và ngay lập tức triệu tập một cuộc họp để tạo điều kiện cho việc thống nhất tất cả các nhóm cộng sản Việt Nam có trụ sở tại Trung Quốc và Việt Nam. Tại cuộc họp diễn ra vào đầu năm 1930, các đại biểu của ĐCSĐD, Tân Việt, An Nam Cộng sản Đảng (chi bộ Thanh Niên ở miền Nam Việt Nam) và ‘Thanh Niên’ ở miền Nam Trung Quốc đã nhất trí thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).

Mặc dù “cuộc họp thống nhất” này đã được coi là một mốc lịch sử của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam trong lịch sử chính thống,[120] nó đã đạt được một chút ngoài thỏa thuận giữa các nhóm để gia nhập một tổ chức mới, ĐCSVN. Các tài liệu được công bố tại cuộc họp này là những bản viết tay ngắn ngủi: biên bản cuộc họp, chương trình hành động của Đảng, điều lệ Đảng, và tuyên bố chiến lược, tất cả khoảng khoảng 10 trang, so với “tuyên ngôn” của ĐCSĐD dài 42 trang. Sự ngắn gọn này có thể phản ánh khoảng cách rất lớn giữa các nhóm về nhiều vấn đề. Cuộc họp cũng không bầu được ban lãnh đạo mới, chỉ đồng ý về quy trình đề cử một Ủy ban Trung ương sẽ được thành lập sau đó.

Một câu hỏi mà các nhà sử học chưa đặt ra là tại sao Quốc không tự nhận mình làm người đứng đầu ĐCSVN tại cuộc họp này. Với quyền hạn của mình với tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản và với khả năng triệu tập cuộc họp và buộc đại diện của ĐCSĐD phải thừa nhận sai lầm của mình (xem phần sau), ông hẳn đã có thể đảm nhận vị trí cao nhất nếu ông muốn. Không rõ tại sao ông không làm như vậy, nhưng Quốc là một quan chức trong bộ máy hành chính của Quốc tế Cộng sản chịu trách nhiệm về toàn bộ Đông Nam Á và rất có thể ông không muốn chịu trách nhiệm cá nhân cho ĐCSVN trừ khi được Quốc tế Cộng sản bổ nhiệm vào vị trí này.[121] Bất kể động cơ của ông là gì, điểm mấu chốt là Quốc không tìm cách nắm quyền kiểm soát cá nhân đối với ĐCSVN mặc dù ông có quyền làm như vậy. [122] Tuy nhiên, bởi không có lãnh đạo, nên ĐCSVN chỉ tồn tại trên giấy.

Chương trình của ĐCSVN cam kết ngắn gọn, mà không cần chi tiết hơn, đó là: “thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng ruộng đất để tiến lên chủ nghĩa cộng sản”.[123] Công thức mới này ngắn gọn và thô sơ, nhưng về cơ bản nó không mâu thuẫn với khái niệm “cuộc cách mạng hai giai đoạn” mà ĐCSĐD đã ủng hộ từ trước đó. Theo biên bản cuộc họp, ĐCSĐD bị chỉ trích vì quá hạn chế trong chính sách kết nạp đảng viên, tổ chức “như một nhóm xa cách quần chúng”, và gây ra việc giải tán Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đảng (VNTNCMĐ) và Đảng Tân Việt theo chính sách của Quốc tế Cộng sản (QTCS).[124] Đáng chú ý là, những lời chỉ trích đó dựa trên chính sách của QTCS và chủ yếu nhắm vào hoạt động tổ chức của ĐCSĐD, chứ không phải tầm nhìn ý thức hệ của nó.[125]

Trong việc sửa chữa những sai sót của ĐCSĐD, ĐCSVN xác định kẻ thù chính của cách mạng hẹp hơn, chỉ gồm đế quốc và địa chủ lớn. Động thái này cho thấy một chiến lược linh hoạt, nhưng không phải là một sự thay đổi trong thế giới quan như bản tuyên bố chiến lược của ĐCSVN tại cuộc họp này nói rõ. [126] Trong văn kiện này, ĐCSVN tuyên bố sẽ nỗ lực hết sức để thiết lập các mối liên minh với những giai tầng khác, bao gồm cả giai cấp tư sản, nông dân, trí thức và trung nông, để thu hút sự ủng hộ của họ đối với giai cấp vô sản. ĐCSVN cũng sẽ cố gắng “lợi dụng” phú nông, tiểu địa chủ, trung địa chủ, và các nhà tư sản Việt Nam chưa bộc lộ “khuynh hướng phản cách mạng”. Nhưng rõ ràng có những giới hạn cho mọi liên minh giai cấp, mặc dù đã có sự linh hoạt mới:

“Trong khi liên minh với các giai cấp khác, [chúng ta] phải cẩn thận không làm tổn hại đến bất kỳ quyền lợi nào của công nhân và nông dân; trong khi ủng hộ nền độc lập của An Nam, [chúng ta cần] đồng thời chủ trương và duy trì liên minh với các quốc gia bị áp bức khác và với giai cấp vô sản trên thế giới, đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp”.[127]

Nói cách khác, ĐCSVN mới vẫn duy trì lòng trung thành giáo điều trong khi linh hoạt và thực dụng hơn trong các chiến lược liên minh giai cấp. Hợp tác với các tầng lớp khác ngoài công nhân và nông dân nghèo hoàn toàn là một mục đích chính trị, chứ không phải là sự đoàn kết dựa trên một bản sắc Việt Nam chung. Chương trình của ĐCSVN không đi ngược lại nghị quyết của Đại hội Thế giới lần VI của QTCS vào năm 1928, và Nguyễn Ái Quốc đang đóng vai trò là người trung thành thực hiện chính sách của ĐCSVN vào thời điểm này, ngay cả khi không có sự ủy quyền cụ thể của QTCS và không biết rằng các nhà lãnh đạo của QTCS đã trở nên tả khuynh hơn trong Hội nghị toàn thể lần thứ X của Ban Chấp hành QTCS vào tháng 7 năm 1929.[128] Với một chương trình rất ngắn gọn và không có lãnh đạo, ĐCSVN dường như đã được tạo ra hệt như một hiệp định đình chiến tạm thời mà các chi tiết vẫn còn để ngỏ cho các bên liên quan đàm phán thêm.

Tin tức về những tranh chấp giữa ĐCSVN và VNTNCMĐCH có thể đã đến Moscow cùng lúc với thời điểm Quốc ở Xiêm La. Cuối năm 1929, khi Quốc đang trên đường từ Xiêm La đến Hồng Kông, một cuộc họp của các quan chức QTCS tại Mátxcơva đã được tiến hành và ra lệnh cho các nhóm cộng sản Đông Dương đối địch thành lập một đảng cộng sản.[127] Quốc không biết gì về cuộc họp này. Trong các ghi chú của cuộc họp còn lưu trữ lại, Moscow ca ngợi VNTNCMĐCH đã theo kịp chính sách mới của QTCS nhưng cũng chỉ trích tổ chức này đã mắc nhiều sai lầm trong chiến lược và tổ chức. [128] Những lời khen và chê đều nhắm vào chủ trương của các nhà lãnh đạo VNTNCMĐCH vào tháng 5 năm 1929.[129] Không có lời chỉ trích cụ thể nào được đưa ra đối với Nguyễn Ái Quốc, người đã không lãnh đạo VNTNCMĐ từ giữa năm 1928. Đây là bằng chứng quan trọng cho thấy Quốc không bị mất địa vị tại QTCS.

Có hai sinh viên Việt Nam tham dự cuộc họp của Quốc tế Cộng sản tại Moscow. Đó là Trần Phú và Ngô Đức Trì, hai cựu đảng viên của VNTNCMĐCH do Quốc đào tạo và cử đi học ở Mátxcơva năm 1927. Sau cuộc họp, Phú và Trì rời Mátxcơva về Đông Dương với chỉ thị hợp nhất các nhóm cộng sản Việt Nam ở đó. Khi họ đến Hồng Kông, cuộc họp thống nhất mà Quốc triệu tập đã diễn ra.[130] Tuy nhiên, Phú và Trì dường như không được QTCS ủy quyền thay thế Quốc. Khi họ cuối cùng gặp nhau tại Hồng Kông vào tháng 3 năm 1930, Quốc có đủ thẩm quyền để gửi Trần Phú đi hoạt động tại Hà Nội và Ngô Đức Trì đi hoạt động tại Sài Gòn.[131] Sau đó, trong tháng 3 và tháng 4 năm 1930, Quốc đã được ủy quyền bởi Cục Phương Đông của QTCS có trụ sở tại Thượng Hải để chủ trì việc thành lập Đảng Cộng sản Xiêm tại Bangkok và các hội nghị Đảng Cộng sản Mã Lai tại Singapore. Theo quan điểm truyền thống, Phú được miêu tả là đang đặt ra thách thức đối với sự lãnh đạo của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam của Quốc. Điều này sẽ không có ý nghĩa nếu Quốc chỉ xem vai trò của mình như một đại diện của QTCS mà không phải là lãnh đạo của ĐCSVN. Những sự kiện này gợi ý rằng Phú và Trì chấp nhận thẩm quyền Quốc như là một đại diện của QTCS, trong khi Quốc công nhận họ là các lãnh tụ của ĐCSVN do QTCS ủy nhiệm. Nói cách khác, không có sự cạnh tranh quyền lực nào giữa họ, chỉ có sự phân chia vai trò và nhiệm vụ được chấp nhận lẫn nhau.

Cùng nhau, Quốc, Phú và Trì đã triệu tập cuộc họp mà sau này gọi là Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của ĐCSVN tại Hồng Kông vào tháng 10 năm 1930. Cuộc họp này, cũng có sự tham dự của một số đại diện từ Việt Nam, diễn ra trong bối cảnh vô cùng biến động của tình hình tại Việt Nam. Tháng 2 năm 1930, ngay sau cuộc họp thống nhất các đảng cộng sản, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ ở miền Bắc Việt Nam, do Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) lãnh đạo. Những người nổi dậy đã cố gắng giành quyền kiểm soát một số đồn trú của Pháp ở đồng bằng sông Hồng, và họ đã thành công trong một thời gian ngắn tại thị xã Yên Bái, trước khi bị nghiền nát một cách tàn bạo. Mười ba lãnh đạo của VNQDĐ bị xử chém vào tháng 6 năm 1930 và hàng nghìn đảng viên của họ bị bỏ tù. Sau đó, tình trạng bất ổn đã lan đến Nghệ An và Hà Tĩnh ở miền Trung Việt Nam – lần này do các đảng viên của VNTNCMĐCH hoặc ĐCSĐD tại địa phương lãnh đạo. Phong trào ở đó bắt đầu bằng một cuộc bãi công của công nhân thành phố Vinh vào ngày 1 tháng 5 và nhanh chóng tràn ngập các vùng nông thôn và các tỉnh lân cận.[132] Hàng nghìn nông dân tuần hành, tấn công các tòa nhà của chính quyền, và trong một số trường hợp, hành quyết các quan chức địa phương và quan chức Pháp. Ở một số huyện và làng xã, nông dân thậm chí còn thành lập “chính quyền Xô-viết” để giết địa chủ và chiếm đoạt đất đai của họ. Chính quyền thuộc địa đã đáp trả bằng vũ lực, nhưng phải mất gần một năm phong trào mới bị dập tắt.

Mặc dù ĐCSVN chưa có cơ quan lãnh đạo trung ương và không đóng vai trò trực tiếp nào đối với phong trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh, nhưng các sự kiện đã xuất hiện để khẳng định những phân tích mới của Đảng về tình hình thế giới kể từ năm 1928. “Luận cương chính trị” của Trần Phú trình bày tại Hội nghị lần thứ nhất vào tháng 10 năm 1930 hoàn toàn thông qua phân tích đó. Thế giới được cho là đã bước sang một thời kỳ mới vào năm 1928 với cuộc khủng hoảng kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, mối đe dọa của chiến tranh đế quốc và triển vọng tươi sáng của phong trào công nhân trên toàn thế giới.[133] Theo Phú, tình trạng bất ổn lớn ở Đông Dương trong tám tháng trước đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy cuộc cách mạng ở đó đã “tiến lên cùng một nhịp điệu rầm rộ” với cách mạng thế giới.[134] Phú vui mừng thấy rằng phong trào công nhân và nông dân Việt Nam giờ đã tự vươn lên và không còn bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc như trước.

Phú trình bày khái niệm “cuộc cách mạng hai giai đoạn” một cách cập nhật và công phu nhất cho đến thời điểm đó. Sự lạc hậu của Đông Dương sẽ không cho phép xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay lập tức, vì vậy cuộc cách mạng ở đó phải bắt đầu bằng giai đoạn dân chủ tư sản. Thành công của giai đoạn này sẽ thúc đẩy sự lớn mạnh và sức mạnh của giai cấp vô sản, chuẩn bị cho Đông Dương tiến tới giai đoạn tiếp theo của “cuộc cách mạng vô sản”. Như Phú tưởng tượng, lúc đó cách mạng vô sản sẽ có thể thực hiện được vì “[đó] là thời đại cách mạng vô sản toàn thế giới và thời đại xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Đông Dương sẽ nhận được sự trợ giúp của các chính phủ vô sản ở các nước khác để phát triển chủ nghĩa xã hội mà không cần phải trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa trước”.[135]

Theo Phú, giai đoạn dân chủ tư sản có hai nhiệm vụ phụ thuộc lẫn nhau là ‘phản phong’ và ‘phản đế’. Nhiệm vụ này không thể hoàn thành được nếu không thực hiện nhiệm vụ kia. Về chính sách ruộng đất, chương trình của Phú có lập trường giai cấp sắc nét hơn chương trình trước đó của Nguyễn Ái Quốc. Quốc hứa sẽ phân phối lại đất đai từ các chủ sở hữu người Pháp cho “nông dân nghèo”.[136] Luận điểm của Phú đề xuất lấy đất không chỉ của địa chủ nước ngoài mà còn của địa chủ bản xứ và từ nhà thờ, để phân phối lại cho “nông dân trung lưu và nghèo, với quyền sở hữu do chính phủ nắm”.[137] Sự khác biệt ở đây là về chiến lược vận động: Quốc muốn vận động địa chủ nhỏ bản xứ và giới tư sản bản xứ, trong khi Phú coi họ là kẻ thù của cách mạng ngay cả trong giai đoạn dân chủ tư sản.[138] Phú cũng nói rõ lần đầu tiên rằng đất phải được sở hữu toàn dân.

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần này tuyên bố bãi bỏ Chương trình, Tuyên bố Chiến lược và Điều lệ của ĐCSVN do Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc triệu tập tám tháng trước đó.[139] Hội nghị toàn thể cũng đổi tên Đảng từ Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, và bầu Phú làm tổng bí thư. Đáng chú ý là, mặc dù luận cương của Phú đề xuất một chương trình mới phù hợp hơn với chính sách mới nhất của QTCS, nó không trực tiếp chỉ trích chương trình của ĐCSVN. Những chỉ trích như vậy chỉ được nêu ra trong nghị quyết được ban hành sau cuộc họp. Nghị quyết này đã nghiên cứu sâu về những sai lầm về chiến lược và về tổ chức đã mắc phải trong chương trình đó [của Quốc]. Theo nghị quyết, những sai lầm chỉ ra rằng ĐCSVN đã “quá bận tâm với nhiệm vụ ‘phản đế’ mà bỏ quên các lợi ích giai cấp”.[140] Một lá thư của Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gửi cho các đảng viên vào tháng 12 năm 1930 giải thích rằng những sai lầm trong chương trình của ĐCSVN đã xảy ra do đồng chí triệu tập đại hội hợp nhất đã được cử đi [sang Hồng Kông] với sự phân công rộng rãi nhưng không nhận được bất kỳ kế hoạch cụ thể nào từ QTCS [để thống nhất]. Khi đồng chí ấy đến và biết về những tranh chấp…, đồng chí đã tự mình hành động. Nhiều sai lầm đã hình thành, và chính sách đã không tuân theo kế hoạch của QTCS. Kể từ đó, đồng chí đã thừa nhận những sai lầm đó và đồng ý với Ban Chấp hành Trung ương [của Đảng] để sửa chữa chúng”. [141]

Phần trích dẫn này ít tính mang tính phê bình mà chủ yếu là để giải thích cho các đảng viên không có mặt tại Hội nghị toàn thể đang bị bối rối. Quốc không bị nêu tên, và dường như ông không bị buộc phải sửa chữa những “sai lầm” của mình. Việc Trần Phú lên làm tổng bí thư cũng không có nghĩa là Quốc mất đi quyền lực đối với chủ nghĩa cộng sản Việt Nam hay “thẩm quyền giải thích chính sách của QTC đối với Việt Nam” như Huỳnh Kim Khánh và Quinn-Judge lập luận.[142] Có một thực tế là Quốc đã không cố gắng tự cho mình là người đứng đầu ĐCSVN tại cuộc họp thống nhất; không có sự cạnh tranh quyền lực nào xảy ra, và Quốc cũng không mất vị thế của mình tại QTCS. Chúng tôi không biết ông thực sự nghĩ gì về chính sách mới của QTCS, nhưng Quốc luôn luôn, kể cả tại cuộc họp thống nhất, sẵn sàng tuân theo hướng dẫn của QTCS, và không có lý do gì để mong đợi ông không làm như vậy trong hoàn cảnh này. Như phần trích dẫn này ngụ ý, các đồng chí của ông hiểu rõ tình huống mà “sai lầm” đã phạm phải. Cụ thể, chúng bị mắc phải bởi Quốc đã không còn liên lạc với Moscow, chứ không phải vì ông không tuân theo chính sách mới của QTCS mà ông vẫn chưa kịp tiếp thu.

“Luận Cương Chính Trị” của Trần Phú sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến tư duy của các nhà cộng sản Việt Nam, mặc dù ông sẽ sớm qua đời trong khi bị bắt. Trong Luận cương, khái niệm cách mạng của Lenin đã được phát triển đầy đủ và được diễn giải lần đầu tiên ‘bằng tiếng Việt’, với giai đoạn “dân chủ tư sản” gắn kết với giai đoạn “vô sản” trên bình diện cấu trúc, và cả hai giai đoạn này đan xen hữu cơ với phong trào vô sản trên toàn thế giới trong một “thời đại của các cuộc cách mạng vô sản ”. Bản lĩnh cách mạng của thời đại và sự lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản sẽ cho phép các nhà cộng sản Việt Nam vượt qua chủ nghĩa tư bản và xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa từ đầu với nền kinh tế vẫn còn lạc hậu.

Tuy nhiên, không chỉ đơn giản là tiến trình tư tưởng đã mang lại cho Phú và các đồng chí của ông một cảm nhận sâu sắc về thời đại mà họ đang sống. Đối với một số người trong số họ, trải nghiệm cá nhân của họ khi ở Liên Xô và tham gia cuộc cách mạng Stalin-nít đã góp phần quan trọng vào tiến trình tư tưởng đó. Từ những ghi chép họ để lại, người ta có thể hiểu về những gì của Liên Xô đã khiến họ say mê. Những trải nghiệm cá nhân như vậy là rất quan trọng không chỉ đối với tác động trực tiếp của chúng đối với các cá nhân cụ thể mà còn đối với các giá trị thông tin và biểu tượng của chúng đối với phong trào cộng sản nói chung.[143] Đối với những người cộng sản thuộc thế hệ của Phú, Liên Xô được coi là biểu tượng và hình mẫu của tương lai. Hầu hết các nhà cộng sản Việt Nam, kể cả những người sau này lãnh đạo chế độ cộng sản như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt và Lê Đức Thọ, đều chưa từng đặt chân đến Liên Xô trước khi bước lên các vị trí lãnh đạo. Những gì họ biết về quê hương của Lenin là qua lời kể của những người đã từng ở đó như Trần Đình Long, mà sẽ mô tả ở phần tiếp theo.

HƯƠNG VỊ CỦA THIÊN ĐƯỜNG

Cuối thập niên 1920, nhiều thanh niên Việt Nam đã theo Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô học tập. Một trong số đó là Trần Đình Long, có thời gian tại các người cùng học đại học trong năm những 1928-1931 với Trần Phú và Ngô Đức Trì. Long cũng từng chiến đấu trong lực lượng Hồng quân Liên Xô suốt bốn tháng. Sau khi trở về Đông Dương, ông trở thành một nhà báo. Trong nhưng năm 1936 -1939, khi Đông Dương được hưởng tự do báo chí lớn hơn nhờ chính phủ của Mặt trận Bình dân ở Pháp, Long công bố một hồi ký dài được đăng làm nhiềm kỳ trên hai tờ báo, kể lại trải nghiệm nghiệm của mình ở Liên Xô.[144] Rõ ràng nửa đầu của cuốn hồi ký này đã bị thất lạc, nhưng nửa còn lại gần 200 trang không đủ để đưa ra một ví dụ về những cách mà Liên Xô có thể đã lôi cuốn thanh niên Việt Nam vào thời điểm đó. [145] Mặc dù có thể Trần Đình Long đã phóng đại tình cảm của mình với Liên Xô trong hồi ký của mình, nhưng trên thực tế, rất nhiều công dân Xô-viết lúc đó đã chia sẻ nhiệt huyết của ông. [146]

Khác với Nguyễn Ái Quốc, Trần Đình Long ở Liên Xô vào thời kỳ cao trào của cách mạng: 1928 – 1933, là những năm đầu tiên định hình kỷ nguyên Stalin. Những năm này gần trùng hợp với Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (năm 1929-1933), trong đó liên quan đến sự tập trung toàn diện cho tiến trình công nghiệp hóa và tập thể hóa nông thôn.[147] Trong lĩnh vực văn hóa, một cuộc cách mạng văn hóa do Stalin tiến hành đã thành theo cách riêng, trở thành một phong trào quần chúng chống lại giới trí thức cũ như là những kẻ thù giai cấp. Như Sheila Fitzpatrick đã mô tả, cuộc cách mạng này có nhiều khía cạnh. ”Đó là một phong trào kích động người lao động liên kết với một chiến dịch chính trị làm mất uy tín của phe đối ‘hữu khuynh’ trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX). Đó là một phong trào mang tính biểu tượng của thanh niên nhằm chống lại giới cầm quyền ‘quan liêu’. Đó là một quá trình mà các nhóm cộng sản chủ chiến trong các lĩnh vực thiết lập các chế độ độc tài địa phương và cố gắng cách mạng hóa các kỷ luật của họ”. [148] Mặc dù Long không đề cập đến những sự kiện này trong phần còn lại của cuốn hồi ký của mình, nhưng người ta có thể cảm nhận được một môi trường chính trị cấp tiến hơn nhiều so với những sự kiện trước đó.

Các chủ đề của Long trải dài từ cuộc sống trong Hồng quân Liên Xô; giới tính và các mối quan hệ tình dục; các tổ chức chính trị và xã hội bao gồm tòa án, nhà tù, đoàn thanh niên, chăm sóc trẻ em và “cảnh sát vệ sinh”; các hoạt động văn hóa như nghệ thuật, thể thao, khiêu vũ, điện ảnh; và các “tệ nạn” xã hội và văn hóa như mại dâm, ma túy, uống rượu và tôn giáo. Giọng điệu phòng thủ thường xuyên của Long cho thấy nỗ lực của ông nhằm chống lại những quan điểm tiêu cực về Liên Xô xuất hiện từ các báo cáo về các phiên tòa xét xử công khai của Stalin được công bố trên báo chí thuộc địa cùng thời điểm đó.[149] Tuy nhiên, những hình ảnh sống động và những cuộc thảo luận thẳng thắn về cảm xúc cá nhân của ông đã thể hiện một cảm giác phấn khích thực sự và niềm tin tha thiết vào cuộc cách mạng Xô-viết.

Có hai chủ đề chính xuyên suốt cuốn hồi ký của ông. Chủ đề đầu tiên là sự tương phản giữa các xã hội “vô sản” ở Liên Xô với các xã hội “tư bản chủ nghĩa”, “đế quốc” và “phong kiến”. Trần Đình Long kể lại với chúng ta từ trải nghiệm của chính ông rằng “Hồng quân Liên Xô” rất khác biệt với “quân đội tư bản”. Mặc dù Hồng quân có kỷ luật sắt khiến nó trở thành một “đội quân hùng mạnh”, những người lính Hồng quân tuân theo kỷ luật không phải vì họ bị ép buộc, như trong “quân đội tư bản”, mà vì họ ý thức được thực tế rằng “kỷ luật là cần thiết để bảo vệ lợi ích cũng như lợi ích giai cấp của họ trên các chiến trường quốc gia và quốc tế”.[150] Long tin rằng ý thức giai cấp này giúp duy trì sự bình đẳng thực sự giữa sĩ quan và binh lính. Mặc dù những người lính phải tuân thủ các sĩ quan trong giờ làm việc, nhưng trong các cuộc họp “hội đồng” thường xuyên của toàn đơn vị, binh sĩ được tự do chỉ trích sĩ quan – người ra lệnh sai hoặc thể hiện thái độ không phù hợp với họ. Nếu cả đơn vị tỏ thái độ không đồng tình với một sĩ quan, anh ta có thể bị khiển trách và thuyên chuyển công tác. Long thừa nhận rằng hầu hết binh lính xuất thân từ nông dân và vẫn được coi là “rụt rè e sợ” sĩ quan, và một số sĩ quan vẫn thể hiện tâm lý “trưởng giả” trong hành vi của họ và đối xử với binh lính một cách “vênh váo”. Tuy nhiên, ông tin rằng Hồng quân là đội quân “dân chủ nhất” và “bình đẳng nhất” trên thế giới.

Một sự tương phản rõ nét khác mà Trần Đình Long nhận thấy giữa Hồng quân và các đội quân tư bản là đặc điểm ủng hộ công lý Hồng quân. Ông nhớ lại: “Mọi người lính Hồng quân mà tôi đã hỏi đã nói thẳng với tôi rằng họ nhập ngũ để bảo vệ Liên Xô và phục vụ giai cấp vô sản thế giới khi cần thiết”.[147] Không giống như các quân đội tư bản được tạo ra để trấn áp các cuộc bãi công và các cuộc biểu tình của nhân dân và để chinh phục các thuộc địa, Hồng quân đã tham gia vào việc xây dựng một xã hội không có giai cấp ở Liên Xô và hỗ trợ giai cấp vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư bản. Nhắc lại tuyên bố của nhà lãnh đạo Liên Xô Voroshilov, Long chỉ rõ rằng Hồng quân sẵn sàng giúp giai cấp vô sản trên thế giới lật đổ chủ nghĩa tư bản, nhưng điều này không có nghĩa là Hồng quân sẽ tìm cách xâm lược các nước khác. Hồng quân chỉ phục vụ giai cấp vô sản thế giới khi họ cần. Nó đã tham gia chiến đấu tại Ngoại Mông, Tây Ban Nha và Trung Quốc để giúp các quốc gia yếu đó chống lại những kẻ xâm lược nước ngoài”. Hồng quân [là] đội quân duy nhất trên thế giới [chiến đấu] chân thành vì công lý” [152]

Sự tương phản giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa và các hệ thống tiền thân của nó được mô tả sống động nhất trong các mối quan hệ về giới ở Liên Xô. Trần Đình Long đã báo trước cuộc thảo luận của mình bằng một lời chỉ trích bằng các bức tranh biếm họa về những người cộng sản ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trong phiên bản tiêu cực của những bức tranh biếm họa này, những người cộng sản đã chia sẻ mọi thứ, kể cả vợ của họ. Trong phiên bản tích cực, những người cộng sản được miêu tả là những nhà sư sùng bái hệ tư tưởng của họ đến nỗi họ không bao giờ biết đến “tình ái".[153] Những người cộng sản từ lâu đã được cho rằng họ chỉ là những con người với những tình cảm bình thường. Mặc dù tình cảm của họ đối với công lý mạnh hơn người thường, nhưng họ có khả năng bị rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và “tình cảm lãng mạn chân thật và tự do”. Trong các xã hội tư bản: “tình yêu” là kết quả của sự áp bức trong gia đình và ham muốn quyền lực, địa vị xã hội và tiền bạc. Ở Liên Xô, tình yêu là chân chính mà không có ý định lợi dụng nhau. Điều này là có thể bởi phụ nữ Liên Xô là độc lập về tài chính, trong khi phụ nữ trong các xã hội tư bản chủ nghĩa đã không có sự đọc lập đó. Phụ nữ Liên Xô được giải thoát thực sự và được hưởng tình yêu đích thực, ngược lại phụ nữ trong xã hội tư bản chỉ là nô lệ của chồng mình và phải bám riết lấy anh ta.

Trải qua các kỳ nghỉ ở Crimea và “Ughennana” (Ukraine?), Trần Đình Long mô tả những tiếp xúc thể xác giữa nam và nữ ở Liên Xô là cởi mở và “tự nhiên” – thậm chí là “suồng sã”, nhưng đồng thời vẫn duy trì ranh giới rõ ràng giữa tình yêu và tình bạn.[154] Hai nữ giáo viên mỹ thuật của ông là sinh viên đại học trẻ tuổi đã không ngại va chạm và ôm ông khi chơi với ông ấy. Trong khu nhà nghỉ dành cho công nhân ở Crimea, ông kết bạn với hàng trăm cô gái Nga. Một cô gái từng yêu cầu ông ngồi vào lòng cô; một cô gái khác đặt tay ông lên trên tay cô để chứng tỏ sức mạnh của cô; còn một gái nữa đi dạo với ông lúc ba giờ sáng trên bãi biển vắng. Long thú nhận ban đầu ông bị cám dỗ bởi những cô gái này nhưng sau đó nhanh chóng phát hiện ra rằng sự gần gũi thể xác như vậy không có nghĩa là tình yêu hay dục vọng. Nhắc lại quan hệ giới tính ở Việt Nam, ông lên án Khổng Tử vì đã dạy rằng phụ nữ phải giữ khoảng cách xa với nam giới. Các mối quan hệ về giới của Liên Xô chỉ ra rằng những hạn chế đối với sự gần gũi thể xác chỉ làm tăng sự tò mò của mọi người về tình dục và ham muốn của họ đối với nó. Sự tò mò và ham muốn bị kìm hãm sẽ dẫn đến các mối quan hệ bất chính. Từ lâu đã ghi nhận cuộc cách mạng Nga vì “đã khai sáng phụ nữ Nga và đặt họ bình đẳng với nam giới về mọi mặt”. Ông hùng hồn tuyên bố: “Phụ nữ Nga đã phá bỏ bức tường ngăn cách giữa đàn ông và đàn bà – bức tường được xây dựng bởi nền đạo đức ích kỷ chỉ phục vụ cho những ông chủ trong các xã hội phong kiến và tư bản, chia cắt xã hội thành hai nửa và ngăn cản con đường tiến hóa của loài người”.[155]

Khi Trần Đình Long kể hết chủ đề này đến chủ đề khác, sự tương phản rõ rệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xuất hiện nhiều lần. Luật gia đình của Liên Xô cho phép dễ dàng kết hôn và ly hôn dựa trên ý muốn của các cặp vợ chồng, khác với “luật tư bản” vốn thường ngăn cản các cặp đôi yêu nhau kết hôn và ngăn cản những người phụ nữ bị lạm được quyền dụng ly hôn.[156] Các tòa án Liên Xô tổ chức các phiên tòa (đặc biệt là đối với những kẻ phản cách mạng) tại các tòa án không thường xuyên so với các tòa án ở các nước tư bản. Thay vào đó, những sự kiện này được tổ chức ở những địa điểm công cộng lớn hơn nhiều như rạp hát để người dân bình thường có thể tham dự và quát mắng bị cáo để bày tỏ sự tức giận của họ. Các tòa án Liên Xô thường xuống các nhà máy, công sở, trường học và các trang trại tập thể để xét xử tại chỗ, không giống như các “tòa án tư bản” đã “kín đáo” với người dân. [157] Nền thể thao Xô-viết không đào tạo được các cầu thủ chuyên nghiệp – những người vốn thực sự là hàng hóa để mua bán ở các nước tư bản.[158] Nền thể thao Xô-viết nhằm nâng cao sức khỏe của người dân để họ có thể đấu tranh chấm dứt tình trạng người bóc lột người. Tương tự như vậy, nền nghệ thuật Xô-viết được định hướng phục vụ toàn xã hội, đặc biệt là người dân lao động, trong khi nghệ thuật tư bản chủ yếu được tạo ra vì tiền và chỉ phục vụ một thiểu số giàu có. Trong điều kiện kinh tế suy thoái và hệ thống chính trị suy đồi, nghệ thuật tư bản nhất thiết phải mang những hình thức “khiêu dâm, phóng đãng”, những vũ điệu “uốn éo, thô tục”, và những bộ phim về phụ nữ khỏa thân, dâm dục và tội ác”.[159]

Như một ví dụ về cách hệ thống Xô-viết thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật phục vụ quần chúng, Trần Đình Long đã thảo luận về chính sách của Liên Xô để bảo vệ và thúc đẩy văn hóa của các dân tộc thiểu số.[160] Trước cuộc Cách mạng, ông lưu ý rằng 90 phần trăm người thiểu số ở miền Đông Bắc nước Nga mù chữ. Những dân tộc này từng có nền văn học riêng nhưng nền văn hóa của họ đã bị hủy hoại dần sau khi bị Nga hoàng đô hộ suốt hai trăm năm. Kể từ khi “chế độ chuyên chính vô sản” nổi lên, chính phủ Xô-viết đã rất cố gắng sưu tầm và bảo tồn các bài hát và điệu múa dân gian của tất cả các dân tộc để bảo vệ truyền thống tốt đẹp nhất của họ.[161] Chính phủ này cũng đã cố gắng hết sức để cải thiện giáo dục và phát triển các nền văn học dân tộc dựa trên ngôn ngữ của từng nhóm thiểu số: “mang ánh sáng văn học tươi sáng chiếu đến những vùng xa xôi nhất” nơi người Mông Cổ, người Thổ và người Eskimo sinh sống. [162] “Cách tiếp cận theo khuynh hướng của chủ nghĩa vô sản để phát triển văn học” cụ thể là để nhằm mục đích nuôi dưỡng “khái niệm và các tinh thần văn học” cho mỗi nhóm dân tộc, dựa trên tiếng mẹ đẻ của họ và được hỗ trợ bởi tiếng Nga nếu cần thiết. Việc quảng bá tiếng mẹ đẻ làm nền tảng cho các nền văn học và nghệ thuật dân tộc đã cho phép chúng “phát triển tự do theo đặc điểm tự nhiên của chúng”.[163] Nhờ những nỗ lực của chính phủ Liên Xô: “tất cả các nhóm dân tộc ở Liên Xô ngày nay đều sở hữu các phương tiện in ấn của riêng họ để phát triển tài năng của riêng họ và thu thập kiến ‘tri thức cao siêu’ của tất cả các khối quần chúng vốn từ lâu đã bị chà đạp và lãng phí dưới ách tư bản chủ nghĩa”.

Ghi chép của Long về các chính sách “quyết liệt” của Liên Xô để bảo vệ nền văn hóa dân tộc ngụ ý rõ ràng nơi ông đặt lòng trung thành của mình. Mặc dù những chính sách như vậy chưa từng có trong lịch sử thế giới,[164] Long không mô tả chúng trong một phần riêng biệt mà gộp chúng vào các chính sách về văn học của Liên Xô.

Đối với Long, nguyên lý trung tâm của các chính sách này là phục vụ quần chúng thay vì giới tinh hoa. Chủ đề chính xuyên suốt mô tả của ông vẫn là sự tương phản giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, chứ không phải sự phân biệt giữa người Nga và các dân tộc thiểu số – mặc dù chủ đề về cơ bản là về các chính sách dân tộc. Người dân tộc thiểu số được coi là một phần của “quần chúng” hơn là những người có bản sắc đặc biệt. Không phần nào trong hồi ký của ông (ít nhất là phần có sẵn) mà ông đề cập đến các vấn đề như độc lập hay tự chủ của quốc gia, dân tộc. Điều khiến ông phấn khởi là sự giải phóng ‘quần chúng’ khỏi sự bóc lột của ‘tư bản’ và ‘phong kiến’ hơn là sự giải phóng các ‘dân tộc’ bị áp bức khỏi đế quốc Nga.

Trọng tâm thứ hai trong mô tả của Trần Đình Long về Liên Xô là các phương pháp cải tạo xã hội mang tính thâm nhập nhưng vẫn có tính “nhân đạo”, vốn đang làm biến đổi xã hội Xô-viết. Tương tự như Nguyễn Ái Quốc, Long không phủ nhận những vấn đề xã hội mà ông nhận thấy ở Liên Xô. Ông thẳng thắn thừa nhận rằng ở Liên Xô vẫn còn những tên trộm, cướp, giết người và tất nhiên, cả bọn phản cách mạng.[165] Trong số phần lớn người dân Liên Xô đều “giác ngộ ý thức hệ”, vẫn còn nhiều người nghiện rượu, những tên cướp từng là lính da trắng, và những tên ‘kulak’ tống tiền. Những người xấu đại diện cho di sản của hệ thống phong kiến và tư bản chủ nghĩa trong suốt “hai đến ba nghìn năm”. Chẳng hạn, về mại dâm, ông tin rằng tệ nạn xã hội này bắt đầu khi tình trạng người bóc lột người nổi lên trong xã hội loài người. Các vị vua chúa và những tên quý tộc đã có thời gian để thiêu chết và bắt phụ nữ phải phục vụ họ. ”Dưới xã hội tư bản chủ nghĩa là giống hệt như một xác chết thối rữa, chảy máu, và dơ dáy, nạn mại dâm phát triển giống như áp-xe trên da”.[166]

Đổ lỗi cho các tệ nạn xã hội (bao gồm cả tôn giáo) trong các xã hội có giai cấp, Long say mê với các phương pháp “nhân đạo” mà chính phủ Liên Xô sử dụng để cải cách xã hội. Về tệ nghiện rượu, ông lưu ý rằng chính quyền không bắt buộc mọi người phải bỏ rượu mà chỉ giáo dục họ để chính họ quyết định làm như vậy. “Phương pháp này [duy trì] sự tôn trọng, bảo vệ tự do cá nhân, và tránh sự phản kháng của những người [vẫn đang] nghiện rượu… Phương pháp của chính phủ vô sản [là] vẫn tiếp tục sản xuất rượu nhưng không để ai say”.[167] Điều này được thực hiện bằng cách giảm dần mức độ cồn trong đồ uống được sản xuất và bằng cách phát động các chiến dịch giáo dục chống rượu bia sử dụng cả khoa học và sự hài hước. Nội tạng được thu thập từ những người say rượu (đã chết?) và được trưng bày cùng với các vụ án giết người liên quan đến rượu. Những vở kịch hài hước được dàn dựng và xuất bản những cuốn sách nhỏ hài hước để mô tả những cơn say rượu. [168]

Một cách tiếp cận tương tự đã được sử dụng để làm suy yếu ảnh hưởng của các tôn giáo. Trích dẫn Karl Marx, Long cho rằng các tôn giáo thậm chí còn tệ hơn thuốc phiện. Mặc dù sau này tiêu diệt các cá nhân, các tôn giáo đã phá hủy toàn bộ cộng đồng. Tôn giáo bóc lột người; đánh cắp [‘rút tỉa’] đất đai, tiền bạc và nhà cửa của họ; gây ra tâm trí của họ để trở thành yếu ớt, chậm chạp, lộn xộn [‘ngẩn ngơ’, ‘ngây dại’], và u sầu [‘u ám’].[169] Các tôn giáo khiến con người mất đi cảm giác tự chủ và sẵn sàng đấu tranh trong cuộc sống này. Chính phủ Xô-viết lẽ ra đã đóng cửa tất cả các nhà thờ, bỏ tù tất cả các linh mục và cấm mọi người theo các tôn giáo bằng một sắc lệnh, nhưng nó đã không hành động như vậy. Vấn đề chỉ là các linh mục là một loại ký sinh trùng. Những người theo họ (trừ các nhà tư bản), xét cho cùng, là “những người anh em của giai cấp vô sản, những người bị bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần và bị các linh mục lừa đảo”. Phương pháp nhân đạo không phải là để cấm đoán, mà là để giáo dục mọi người bằng chứng cứ khoa học về nguồn gốc loài người và bằng chứng lịch sử về mối quan hệ chặt chẽ giữa các linh mục và Sa hoàng và về những tội ác trong quá khứ của các giáo sĩ. Bên cạnh các vở kịch và sách nhỏ, hai công cụ đặc biệt là các viện bảo tàng và các hiệp hội chống tôn giáo được thành lập ở tất cả các thành phố lớn ở Liên Xô.

Trần Đình Long tin rằng phương pháp này có hiệu quả, bằng chứng là trong những nhà thờ trống rỗng và vắng lặng, phải dùng nến vì hết tiền trả tiền điện. Một bằng chứng khác là những linh mục mà ông gặp trên đường phố Moscow đang ăn xin hoặc bán báo để kiếm sống. Long vui mừng vì hầu hết các nhà thờ ở thành phố đã đóng cửa. Các nhà thờ nông thôn vẫn tồn tại với số lượng lớn hơn vì các linh mục ở đó được hỗ trợ bởi các địa chủ. Ông dự đoán rằng, sau khi tập thể hóa tiêu diệt hết các địa chủ, vùng nông thôn sẽ bắt kịp các thành phố. Ngày tàn của tôn giáo ở Liên Xô đã điểm.[170]

Các chiến dịch cải cách xã hội đôi khi có những hình thức cưỡng chế, như trong trường hợp “đội vệ sinh ”. Những đội đặc biệt mặc quần áo trắng toát như y tá và tất cả đều mỉm cười trong khi đi xuống các khu phố đã được chọn trước.[171] Không giống như những cảnh sát thu thuế ở thành phố quê hương của ông ở Việt Nam, những người tạo ra sự sợ hãi và thù hận, Long lưu ý rằng những cảnh sát vệ sinh không mang theo vũ khí hoặc đánh đập người dân. Họ là những đội tình nguyện được tổ chức bởi các đoàn bác sĩ và y tá, họ đến từng nhà ở một số khu phố vào những ngày nghỉ và cuối tuần để kiểm tra vệ sinh gia đình. Những gia đình ngăn nắp và sạch sẽ được ca ngợi công khai, trong khi những gia đình bừa bộn và bẩn thỉu đó sẽ buộc phải dọn dẹp nhà cửa, đồ đạc, quần áo và con cái với sự trợ giúp của họ. Những người đàn ông để tóc dài và để râu bị đem ra làm trò cười và buộc phải ngồi xuống để cắt tóc. Long đã cho rằng in một nghìn cuốn sách không bằng một cuộc trình diễn về lối sống hợp vệ sinh được cung cấp bởi các đội cảnh sát vệ sinh này. Phương pháp này rất dễ hiểu, ngay cả đối với những người tối dạ. [172] Các đội cảnh sát vệ sinh không chỉ loại bỏ sự tối tăm [173] và ô uế mà cũng dạy mọi người cách sống sạch sẽ và hợp vệ sinh. Chúng là sợi dây liên kết giữa công nhân và nông dân, mang lại ánh sáng và sự sạch sẽ cho cuộc sống sau này.

Các cảnh sát vệ sinh phản ánh cuộc Cách mạng Văn hóa đang bùng nổ ở Liên Xô trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.[174] Trần Đình Long bị hấp dẫn mãnh liệt trước cuộc cách mạng này. Ông ngạc nhiên không chỉ ở sự tương phản tưởng tượng hay thực sự giữa các hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mà còn ở phương pháp cưỡng chế và mục tiêu cải cách xã hội và văn hóa dài hạn ở Liên Xô. Cũng như Nguyễn Ái Quốc trước đây, Long nhiệt tình với Liên Xô không phải vì ông thấy đây là một đất nước hay một hệ thống hoàn hảo. Thay vào đó, chính tầm nhìn mang tính thay đổi triệt để, các phương pháp cấp tiến và những lời hứa sâu sắc thể hiện trong cuộc cách mạng Stalin-nít đã khiến ông say mê.

KẾT LUẬN

Chủ nghĩa cộng sản hoàn mang tính “ngoại nhập” đối với Việt Nam. Khi các nhà cách mạng Việt Nam tiếp thu những lời dạy của Marx và Lenin, họ phải mất một thời gian, nếu họ quan tâm, để dung hòa những tư tưởng cộng sản cấp tiến với thế giới quan hiện có của họ. Trong giai đoạn chuyển tiếp đầu tiên từ Phan Bội Châu sang Nguyễn Ái Quốc, sự quan tâm đến cách mạng Nga đã từ từ phát triển thành một khối lượng kiến thức nghèo nào về ý thức hệ Marx-Lenin. Các nhà cách mạng Việt Nam phải mất nhiều thời gian và công sức mới hiểu được khái niệm cách mạng thế giới trong mối liên hệ của nó với cách mạng Việt Nam. Quá trình cấp tiến hóa tràn đầy sự nhầm lẫn đối với một số người và tạo ra sự phấn khích cho những người khác. Nó tạo ra sự căng thẳng trong phong trào vì một số nhà hoạt động tiếp thu những ý tưởng và khái niệm mới nhanh hơn những người khác. Tỷ lệ hấp thụ tự nhiên phụ thuộc vào năng khiếu cá nhân, khả năng ngôn ngữ, trình độ giáo dục chính quy và tiếp xúc quốc tế. Nó khác nhau giữa những người tham gia vào các nhóm xã hội chủ nghĩa ở Paris, những người học ở Mátxcơva, những người chưa từng ra nước ngoài nhưng được giáo dục đầy đủ để đọc và hiểu các văn bản của chủ nghĩa Mác và Lênin bằng tiếng Pháp, và những người có ít học chính thức và những người được đào tạo tư tưởng lại từ các nhà cộng sản Việt Nam khác. Những xung đột giữa họ trở nên sâu sắc hơn bởi sự thay đổi chính sách của QTC và các vấn đề về truyền thông.

Qua các tài liệu do VNTNCMĐCH biên soạn, có thể thấy quá trình trong đó thế giới quan của các nhà cách mạng Việt Nam đã được quốc tế hóa dần dần nhưng hầu như vẫn bị ngăn cách. Suy nghhĩ của Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng ông đơn giản là một người theo chủ nghĩa quốc tế đang trong quá trình tiến hóa. Từ “Đường Kách Mệnh” đến chương trình ông đề ra cho ĐCSVN, ông đã tìm cách dịch các khái niệm của chủ nghĩa cộng sản quốc tế sang tiếng Việt và theo sát lối tư duy gần nhất của QTCS khi nó được truyền đạt cho ông.

Trong quá trình chuyển đổi thứ hai, từ TVCMĐ sang Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn thành ĐCSĐD với sự tham gia của nhiều đồng chí trẻ hơn và có trình độ học vấn tốt hơn Quốc, thế giới quan của chủ nghĩa Marx-Lenin đã có được một phẩm chất hữu cơ và năng động nhờ sự tổng hợp các khía cạnh cụ thể của nền chính trị Việt Nam với nền chính trị toàn cầu. Kết quả cuối cùng là sự rõ ràng và vững chắc của tầm nhìn và chiến lược, với tầm nhìn tách ra hoàn toàn từ và chiến lược gây ảnh hưởng được làm mạnh thêm. Chắc chắn rằng cả tầm nhìn và chiến lược sẽ được điều chỉnh liên tục để phản ánh thực tế đang thay đổi, nhưng chúng ta sẽ xem trong các chương tiếp theo làm thế nào để các khía cạnh cốt lõi vẫn nhất quán trong nửa thế kỷ tới khi những các nhà cộng sản Việt Nam thuộc thế hệ Trần Phú lãnh đạo cuộc cách mạng.

Các nghiên cứu hiện tại chỉ ra sự thay đổi trong chính sách liên minh giai cấp từ Nguyễn Ái Quốc đến Trần Phú là bằng chứng về việc một phe “quốc tế chủ nghĩa” và “giáo điều” do Matxcơva đào tạo đã đánh bại phe “dân tộc chủ nghĩa” và “thực dụng” vốn chủ yếu quan tâm đến độc lập dân tộc. Tuy nhiên, các hồ sơ có sẵn cho thấy tất cả họ đều trung thành với sự lãnh đạo và chính sách của QTCS. Các cuộc xung đột giữa các nhóm khác nhau và cá tính trong phong trào trong năm 1928- 1930 chủ yếu về lãnh đạo, tổ chức và chiến lược, chứ không phải về niềm tin cách mạng. Niềm tin đó đã không chia rẽ các phe phái này; nó đã giúp đoàn kết họ. Đối với họ, chủ nghĩa Marx-Lenin không phải là một giáo điều trừu tượng mà là một lý thuyết khoa học sinh động và thành công. Bằng chứng nằm ngay ở Liên Xô, nơi họ tìm thấy một tầm nhìn thuyết phục về sự thay đổi căn bản bất chấp những khiếm khuyết của xã hội Xô-viết. Các phương pháp cưỡng chế của chủ nghĩa Stalin đã giành được sự ngưỡng mộ của họ, và họ tỏ ra không mấy thiện cảm và khoan dung đối với nền văn hóa và xã hội truyền thống nơi họ đến.

Trong thời kỳ này, ý thức hệ đã giúp các nhà cách mạng Việt Nam trên ba phương diện. Thứ nhất, nó xác định lại sứ mệnh của họ, đó không chỉ là giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của Pháp mà còn là tạo ra một xã hội cách mạng mới và đóng góp cho cách mạng thế giới. Ý thức hệ đã tạo cho họ một tầm nhìn và kế hoạch chi tiết cho sự thay đổi, trong trường hợp này là mô hình của Liên Xô, sẽ hướng dẫn cuộc cách mạng của họ thông qua những biến cố đầy thăng trầm. Thứ hai, ý thức hệ cung cấp chất keo kết dính cho các nam nữ thanh niên trẻ như Phú và Long để để tạo ra một đảng chính trị mang với sứ mệnh – Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối cùng, ý thức hệ đã liên kết các nhà cách mạng Việt Nam với một mạng lưới xuyên quốc gia gồm các nhà nước (Liên Xô) và các phong trào (chủ nghĩa cộng sản Pháp và Trung Quốc) cung cấp kinh phí, đào tạo và những sự bảo vệ trước sự đàn áp của Pháp.

Ý thức hệ sẽ tiếp tục phục vụ cách mạng Việt Nam trong thập kỷ tới. Tiếp theo, Chương 2 sẽ thảo luận về tầm nhìn của Trần Phú về cách mạng Việt Nam tồn tại suốt thập niên 1930 dù đã qua hai lần thay đổi lãnh đạo hoàn toàn. Cuộc đàn áp tại thuộc địa, với mức độ hiệu quả của nó, quả, chỉ tiêu diệt được những người truyền tin chứ không tiêu diệt được thông điệp.

VỀ TÁC GIẢ

Vũ Tường là Trưởng Khoa Chính trị học của Đại học Oregon (Hoa Kỳ) từ năm 2008. Ông cũng thỉnh giảng tại Đại học Princeton và Đại học Quốc gia Singapore. Nghiên cứu của ông tập trung vào các đề tài: chính trị học so sánh về sự hình thành nhà nước, các vấn đề về phát triển, chủ nghĩa dân tộc, và các cuộc cách mạng, đặc biệt là tại vùng Đông Á. Ông cũng là tác giả của cuốn ‘Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia’ [Các con đường phát triển ở châu Á: Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia] (Cambridge University Press, 2010).

Comments are closed.