Milan Kundera, ngôi sao văn học Czech và bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, qua đời ở tuổi 94

Daniel Lewis The New York Times, 12/7/2023

Anh Hồng dịch

Kundera, tác giả của “The Unbearable Lightness of Being” (Đời nhẹ khôn kham), được biết đến với những tiểu thuyết đậm chất tính dục ghi lại sự phi lý đến nghẹt thở của cuộc sống ở quê hương Tiệp Khắc của ông.

clip_image001_thumb

Milan Kundera năm 1984, khi cuốn tiểu thuyết “The Unbearable Lightness of Being” của ông đã thành công ngay lập tức và sau này trở thành nền tảng cho một bộ phim. Ảnh: Francois Lochon/Gamma-Rapho, trên Getty Images

Milan Kundera, một đảng viên bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, người đã trở thành một ngôi sao văn học toàn cầu với những cuốn tiểu thuyết nhức nhối, đầy tính dục thể hiện sự phi lý đến nghẹt thở của cuộc sống tại thiên đường của người lao động ở quê hương Tiệp Khắc của ông, đã qua đời hôm thứ Ba tại Paris ở tuổi 94.

Một phát ngôn viên cho Gallimard, nhà xuất bản của Kundera ở Pháp, vào hôm thứ Tư cho biết rằng ông Kundera đã qua đời “sau một thời gian ốm đau kéo dài”.

Dòng sách nổi tiếng của Kundera bắt đầu với “The Joke” (Trò đùa) được xuất bản và được hoan nghênh vào năm 1967, vào khoảng thời gian diễn ra Mùa xuân Praha, sau đó bị cấm cùng với sự trả thù sau khi quân đội do Liên Xô lãnh đạo nghiền nát cuộc thử nghiệm “Chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người” [Socialism with a human face] một vài tháng sau đó. Ông đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng của mình, “The Festival of Insignificance” (Lễ hội của vô nghĩa) (2015), khi ông đã ngoài 80 tuổi và đang sống thoải mái ở Paris.

Cuốn tiểu thuyết là tác phẩm hư cấu mới đầu tiên của ông kể từ năm 2000, nhưng sự đón nhận nó lại khá nhạt nhẽo, khác xa với phản ứng đối với cuốn tiểu thuyết nổi tiếng lâu dài nhất của ông, “Đời nhẹ khôn kham”.

Thành công ngay lập tức khi được xuất bản vào năm 1984, “Đời nhẹ khôn kham” đã được tái bản trong nhiều năm qua ít nhất với hai chục thứ tiếng. Cuốn tiểu thuyết thậm chí còn thu hút sự chú ý rộng rãi hơn khi được chuyển thể thành phim năm 1988 với sự tham gia của Daniel Day Lewis trong vai một trong những nhân vật trung tâm, Tomas, một bác sĩ phẫu thuật người Czech, người chỉ trích giới lãnh đạo Cộng sản và do đó buộc phải lau cửa sổ để kiếm sống.

Khi các vụ trừng phạt diễn ra, lau cửa sổ là một công việc khá tốt đối với Tomas: Là một kẻ tán gái không ngừng, anh ta luôn sẵn sàng gặp gỡ những người phụ nữ mới, kể cả những bà nội trợ buồn chán. Nhưng tính dục, cũng như bản thân Tomas và ba nhân vật chính khác – vợ anh ta, một họa sĩ quyến rũ và người tình của họa sĩ – ở đó vì một mục đích lớn hơn. Khi đưa cuốn tiểu thuyết vào danh sách những cuốn sách hay nhất năm 1984, The New York Times Book Review đã nhận xét rằng “công việc thực sự của nhà văn này là tìm kiếm những hình ảnh về lịch sử thảm khốc của đất nước ông trong suốt cuộc đời ông”.

“Ông ấy khai thác bốn nhân vật này một cách tàn nhẫn, đặt thành từng cặp chống lại nhau như những mặt đối lập về mọi mặt, để mô tả một thế giới trong đó sự lựa chọn đã cạn kiệt và mọi người chỉ đơn giản là không thể tìm ra cách thể hiện nhân tính của mình”.

“Ông ấy có thể đặc biệt tàn nhẫn khi sử dụng các nhân vật nữ; đến mức nhà nữ quyền người Anh Joan Smith, trong cuốn “Misogynies” xuất bản năm 1989 của bà, cho rằng “sự thù địch là yếu tố phổ biến trong tất cả các tác phẩm của Kundera viết về phụ nữ”.

image_thumb[1]

Cuốn tiểu thuyết năm 1984 của Kundera được xuất bản ít nhất hai chục thứ tiếng.

Các nhà phê bình khác thì cho rằng việc vạch trần hành vi khủng khiếp của đàn ông ít nhất là một phần trong ý định của nhà văn. Tuy nhiên, ngay cả những người phụ nữ mạnh mẽ hơn trong sách của Kundera cũng có xu hướng bị vật hóa, và những người kém may mắn hơn đôi khi trở thành nạn nhân với những chi tiết đáng lo ngại. (Người kể chuyện trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, “Trò đùa” đã quyến rũ vợ của kẻ thù cũ để báo thù, tát cô ta trong lúc ân ái, rồi nói rằng anh ta không muốn cô. Chồng của người phụ nữ không quan tâm; anh ta yêu một sinh viên tốt nghiệp trầm tính. Lần sỉ nhục cuối cùng, là người phụ nữ quẫn trí đã cố gắng tự sát bằng một nắm thuốc, hóa ra là thuốc nhuận tràng).

Nỗi sợ hãi của Kundera là văn hóa Czech có thể bị chủ nghĩa Stalin xóa bỏ – giống như các nhà lãnh đạo thất sủng bị xóa khỏi các bức ảnh chính thức – là trọng tâm của “The Book of Laughter and Forgetting” (Sách cười và lãng quên) được xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 1979.

Đó không hẳn là điều mà hầu hết độc giả phương Tây mong đợi về một cuốn “tiểu thuyết”: một chuỗi gồm bảy câu chuyện, được kể dưới dạng hư cấu, tự truyện, suy đoán triết học và nhiều thứ khác. Nhưng Kundera dù sao cũng gọi nó là tiểu thuyết, và ví nó như một tập hợp các biến tấu của Beethoven.

Viết trên tờ The Times Book Review năm 1980, John Updike cho biết cuốn sách “rất xuất sắc và độc đáo, được viết với sự thuần khiết và hóm hỉnh mời gọi chúng ta trực tiếp tham gia vào; nó cũng kỳ lạ, với một sự kỳ lạ khóa chặt chúng ta ở bên ngoài”.

Kundera có mối quan hệ sâu sắc với các nhà tư tưởng và nghệ sĩ Trung Âu – Nietzsche, Kafka, tiểu thuyết gia người Vienna Robert Musil và Hermann Broch, nhà soạn nhạc người Czech Leos Janacek. Ông nói, giống như Broch, ông cố gắng khám phá “điều mà chỉ tiểu thuyết mới có thể khám phá”, bao gồm cả điều mà ông gọi là “sự thật của cái không chắc chắn”.

image_thumb[3]

Daniel Day-Lewis và Juliette Binoche trong một cảnh trong phim “The Unbearable Lightness of Being,” chuyển thể từ tiểu thuyết của Kundera năm 1988. Ảnh: Orion, qua Getty Images

Những cuốn sách của ông phần lớn được cứu khỏi sức nặng của di sản này bằng một trò đùa thường là sử dụng giọng nói của chính ông để bình luận về diễn tiến tác phẩm. Đây là cách ông bắt đầu tạo ra Tamina, một nhân vật bi kịch trong “Sách cười và lãng quên”, người ban đầu là một góa phụ tuyệt vọng người Czech ở Pháp và bằng cách nào đó cuối cùng lại chết dưới tay những đứa trẻ độc ác trong một câu chuyện cổ tích:

“Tôi tính toán rằng cứ mỗi giây lại có hai hoặc ba nhân vật hư cấu mới được rửa tội ở đây trên trái đất. Đó là lý do tại sao tôi luôn do dự về việc tham gia vào đám đông khổng lồ của Gio-an Tẩy Giả. Nhưng tôi có thể làm gì chứ? Xét cho cùng, các nhân vật của tôi cần phải có tên”.

Kundera nói với tờ The Paris Review năm 1983: “Tham vọng cả đời tôi là kết hợp tính nghiêm túc tối đa của vấn đề với sự nhẹ nhàng tối đa của hình thức. Sự kết hợp giữa một hình thức phù phiếm và một chủ đề nghiêm túc ngay lập tức phơi bày sự thật về những vở kịch của chúng ta (những vở kịch xảy ra trên giường của chúng ta cũng như những vở kịch mà chúng ta diễn trên sân khấu lớn của Lịch sử) và sự vô nghĩa khủng khiếp của chúng. Chúng ta trải nghiệm cái nhẹ nhàng không thể chịu đựng được của tồn tại”.

Ông thừa nhận rằng tên các cuốn sách của ông có thể dễ dàng đổi chỗ cho nhau. Ông nói: “Mỗi cuốn tiểu thuyết của tôi đều có thể được đặt tên là “Đời nhẹ khôn kham” hay “Trò đùa” hay “Những mối tình nực cười”. Chúng phản ánh một số lượng nhỏ các chủ đề ám ảnh tôi, định nghĩa tôi và thật không may, hạn chế tôi. Ngoài những chủ đề này, tôi không có gì khác để nói hoặc viết”.

Mặc dù được viết bằng tiếng Czech, cả “Sách cười và lãng quên” và “Đời nhẹ khôn kham” đều được sáng tác dưới ánh sáng trong lành của nước Pháp, nơi Kundera định cư vào năm 1975 sau khi từ bỏ hy vọng về tự do chính trị và tự do sáng tác tại quê nhà.

Quyết định di cư của ông đã đậm tô những lựa chọn khả dĩ dành cho giới trí thức Czech vào thời điểm đó. Hàng ngàn người còn ở lại. Trong số những người ở lại và phản kháng có nhà viết kịch Vaclav Havel, người đã phải ngồi tù nhiều lần, trong đó có một lần gần ba năm. Ông đã sống sót để giúp lãnh đạo cuộc Cách mạng Nhung thành công vào năm 1989, và sau đó giữ chức tổng thống, đầu tiên là của Tiệp Khắc, và sau là Cộng hòa Czech sau khi người Slovak quyết định đi theo con đường riêng của họ.

Với bước ngoặt vĩ đại đó, lần đầu tiên sau 20 năm, sách của Kundera trở nên hợp pháp tại quê hương ông. Nhưng có rất ít nhu cầu đọc chúng hoặc sự cảm thông dành cho ông ở đó: Theo một ước tính, chỉ có 10.000 bản “Đời nhẹ khôn kham” được bán ra.

image_thumb[5]

Cuốn sách của Kundera được xuất bản năm 1967 và được hoan nghênh nhưng sau đó bị chính quyền Xô viết cấm.

Nhiều người Czech coi ông như một người đã bỏ rơi đồng bào mình và chọn một lối thoát dễ dàng. Và họ có xu hướng tin vào cáo buộc của một tạp chí Czech vào năm 2008 rằng ông từng là người cung cấp thông tin [cho cảnh sát – ND] thời còn là sinh viên và đã phản bội một điệp viên phương Tây. Đặc vụ, Miroslav Dvoracek, đã ngồi tù 14 năm. Kundera phủ nhận cáo buộc này.

Lịch sử khắc nghiệt của cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Kundera, “Trò đùa”, là một minh họa tốt cho những rắc rối mà ông gặp phải khi vẫn cố gắng thúc đẩy cải cách từ bên trong.

Khi Mùa xuân Praha kết thúc, cuốn sách bị lên án là yếm thế, khiêu dâm và chống chủ nghĩa xã hội; và nếu bằng cách nào đó bạn có thể tiếp nhận tư duy của những người kiểm duyệt, bạn sẽ hiểu quan điểm của họ.

Ludvik, người kể chuyện chính của “Trò đùa” là một sinh viên đại học Praha vào những năm 1950, đang bị các đảng viên nghi ngờ vì nhận thức cá nhân chủ nghĩa của mình. Anh ta nói: “Bạn cười như thể bạn đang nghĩ đến chính mình”. Sau đó, anh nhận được một lá thư từ một người bạn gái cả tin khen ngợi “bầu không khí lành mạnh” tại trại huấn luyện mùa hè mà cô được gửi đến. Bực bội vì cô hạnh phúc trong khi mình thì nhớ cô, Ludvik trẻ tuổi đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp:

“Vậy là tôi đã mua một tấm bưu thiếp,” anh nói, “và (để làm cô ấy tổn thương, sốc và bối rối) đã viết: “Lạc quan là thuốc phiện của nhân dân! Một bầu không khí lành mạnh bốc mùi ngu xuẩn! Trotsky muôn năm!””.

Đã có một toà án. Vì trò đùa nhỏ của mình, Ludvik bị đuổi khỏi đảng và bị kết án làm công nhân khai thác than trong một đơn vị trừng giới của quân đội.

image_thumb[8]

Kundera vào khoảng năm 1950. Khi còn trẻ, ông đã hai lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, lần thứ hai vì ủng hộ cải cách. Ảnh: Abraham Pisarek / ullstein bild qua Getty Images

Kundera không phải chịu số phận hoàn toàn như vậy, nhưng ông đã hai lần bị khai trừ khỏi đảng mà ông đã ủng hộ từ năm 18 tuổi, khi những người cộng sản lên nắm quyền vào năm 1948.

Lần khai trừ đầu tiên của ông, vì cái mà ông gọi là một nhận xét không đáng kể, được áp đặt vào năm 1950 và truyền cảm hứng cho cốt truyện trung tâm của “Trò đùa”. Tuy nhiên, ông vẫn được phép tiếp tục việc học của mình; ông tốt nghiệp Học viện Mỹ thuật ở Praha năm 1952 và sau đó được bổ nhiệm vào phân khoa ở đó với tư cách là giảng viên về văn học thế giới, trong số các sinh viên của ông có đạo diễn phim Milos Forman.

Kundera được vào đảng trở lại năm 1956 nhưng lại bị khai trừ vào năm 1970 vì ủng hộ cải cách. Lần này là vĩnh viễn, xóa bỏ ông một cách hiệu quả với tư cách cá nhân. Ông bị đuổi việc và, như ông nói: “Không ai được phép trao cho tôi một công việc khác”.

Trong vài năm tiếp theo, ông kiếm tiền với tư cách là một nhạc sĩ nhạc jazz (ông chơi piano) và lao động công nhật. Và bạn bè đôi khi sắp xếp để ông viết những thứ dưới tên hoặc bút danh của họ. Đó là cách ông trở thành một người phụ trách chuyên mục chiêm tinh.

Đúng vậy. Ông thực sự có kinh nghiệm đọc cung hoàng đạo. Vì vậy, khi một biên tập viên tạp chí tên R. đề xuất một chuyên mục chiêm tinh hàng tuần, ông đã đồng ý và khuyên cô “hãy nói với ban biên tập rằng người viết là một nhà vật lý hạt nhân lỗi lạc, người không muốn tiết lộ tên của mình vì sợ bị đồng nghiệp đem ra làm trò cười”.

Ông thậm chí còn xem chiêm tinh cho tổng biên tập của R., một đảng viên, người sẽ bị thất sủng nếu bất kỳ ai biết về thói mê tín của ông ta. R. sau đó thuật lại rằng sếp “đã bắt đầu đề phòng những khó khăn mà lá số đã cảnh báo cho ông, ông ấy đang tạo dựng một kho tích trữ lớn bằng chút sự tử tế mà ông ấy có thể làm được, và trong ánh mắt thường trống rỗng của ông ấy, bạn có thể nhìn thấy nỗi buồn của một người đàn ông nhận ra rằng các vì sao chỉ hứa hẹn với ông ấy sự đau khổ”.

image_thumb[7]

Kundera ở Pháp năm 1979. Ông định cư ở Paris năm 1975. Ảnh: Jean-Pierre Couderc/Roger-Viollet

Hai người họ đã có một trận cười sảng khoái. Tuy nhiên, chắc chắn là những nhà chức trách sẽ biết được danh tính thực sự của nhà chiêm tinh – vật lý hạt nhân lỗi lạc, và Kundera chắc chắn nhận ra rằng không có cách nào để bảo vệ những người bạn muốn giúp đỡ ông.

Ở London, bản dịch tiếng Anh đầu tiên của “Trò đùa” bị làm hỏng đến mức không biết phải làm thế nào. Các chương đã bị sắp xếp lại hoặc đơn giản là bị lược bỏ. Mỉa mai thành trào phúng. Bị cô lập ở Praha, ông hầu như không thể làm gì với nó. (Mãi đến năm 1992 mới có một ấn bản khiến ông hài lòng. Ông đã viết một ghi chú của tác giả với câu mở đầu: “Nếu nó không liên quan đến tôi, nó chắc chắn sẽ khiến tôi bật cười: đây là phiên bản tiếng Anh thứ năm của “Trò đùa”).

Trong bài phê bình trên tờ Times năm 1980, Updike nhận xét rằng cuộc đấu tranh của Kundera “làm cho lịch sử cuộc đời của hầu hết các nhà văn Mỹ trông có vẻ giậm chân tại chỗ như quá trình phát triển của một cây cà chua, và không có gì ngạc nhiên khi Kundera có thể hợp nhất các ý nghĩa cá nhân và chính trị với sự bình thản của một Camus”.

Milan Kundera sinh ra ở Brno vào ngày 1 tháng 4 năm 1929, là con của Milada Janosikova và Ludvik Kundera, một nghệ sĩ piano và nhà âm nhạc học nổi tiếng. Cha ông dạy ông piano, và ông đã cân nhắc theo nghiệp âm nhạc, nhưng dần dần sở thích của ông chuyển sang văn học, đặc biệt là văn học Pháp.

“Ngay từ khi còn nhỏ”, ông nói với một người phỏng vấn cho tạp chí văn học Salmagundi vào năm 1987, “tôi đã đọc Baudelaire, Rimbaud, Apollinaire, Breton, Cocteau, Bataille, Ionesco và ngưỡng mộ chủ nghĩa siêu thực của Pháp”.

Lớn lên ở một đất nước bị quân Đức chiếm đóng từ năm 1939 đến năm 1945, chàng trai trẻ Kundera là một trong số hàng triệu người theo chủ nghĩa cộng sản sau chiến tranh. Đó là một thời gian khó khăn, với danh sách mới mẻ của những người chiến thắng và kẻ thua cuộc.

“Những bất công cũ đã được giải quyết, những bất công mới đã được thực hiện”, ông viết trong “Sách cười và lãng quên”, “Các nhà máy bị quốc hữu hóa, hàng nghìn người bị đi tù, chăm sóc y tế miễn phí, những người bán thuốc lá thấy cửa hàng của họ bị tịch thu, những người lao động lớn tuổi lần đầu tiên được đi nghỉ trong những biệt thự sung công, và trên khuôn mặt chúng tôi nở nụ cười hạnh phúc”.

Ông nói, quá muộn khi ông nhận ra rằng cái ác được thực hiện dưới danh nghĩa chủ nghĩa xã hội không phải là sự phản bội cách mạng, mà là một chất độc vốn có trong nó ngay từ đầu.

image_thumb[9]

Kundera ở Paris năm 1984. “Tham vọng cả đời của tôi là kết hợp tính nghiêm túc tối đa của vấn đề với sự nhẹ nhàng tối đa của hình thức”, ông nói với The Paris Review năm 1983. Ảnh: Francois Lochon/Gamma-Rapho qua Getty Images

Khi chủ nghĩa cộng sản kết thúc vào năm 1989, Kundera đã sống ở Pháp 14 năm cùng vợ, Vera Hrabankova, lúc đầu là giảng viên đại học ở Rennes và sau đó ở Paris. Tiệp Khắc tước quyền công dân của ông vào năm 1979, và ông trở thành công dân Pháp hai năm sau đó. (Năm 2019, chính phủ Cộng hòa Czech đã khôi phục quyền công dân cho Kundera tại quê hương của ông).

Cuốn sách cuối cùng ông viết bằng tiếng Czech trước khi chuyển sang tiếng Pháp là “Immortality” (Sự bất tử) vào năm 1990. Bắt đầu từ đó, các tiểu thuyết ít mang tính chính trị hơn và nhiều tính triết học công khai hơn: “Slowness” (Chậm) (1995), “Idenity” (Căn cước) (1998) và “Ignorance” (Ngu dốt) (2000).

Trong số đó, “Sự bất tử”, với những phát minh sáng giá như tình bạn của Hemingway và Goethe khi họ gặp nhau trên thiên đường, được đón nhận nồng nhiệt nhất. Tác phẩm có vài tuần nằm trong danh sách bán chạy nhất của Times.

Với “Chậm”, Kundera đã làm một số độc giả thất kinh bằng cách không cung cấp đoạn kết và vượt quá giới hạn an toàn của diễn ngôn ngôi thứ nhất: “Và tôi tự hỏi mình: ai đang mơ? Ai đã mơ thấy câu chuyện này? Ai đã tưởng tượng ra nó? Cô ta? Anh ta? Cả hai?”, v.v.

Bên cạnh những tác phẩm hư cấu dài, ông còn viết truyện ngắn và một vở kịch, “Jacques and His Master” (Jacques và ông chủ). Ông cũng là tác giả của các bài tiểu luận, trong đó có một số tiểu luận làm sáng tỏ tác phẩm của ông và của các nhà văn khác, được tập hợp dưới tiêu đề “The Art of the Novel” (Nghệ thuật của tiểu thuyết).

Ông thường được đề cử nhưng không được chọn cho giải Nobel Văn học.

Bí ẩn và riêng tư, và hơi gắt gỏng về sự ồn ào và lộn xộn của xã hội phương Tây hiện đại, Kundera hầu như không xuất hiện trước công chúng từ năm 2000 cho đến khi có thông báo vào năm 2014 rằng ông đã viết một cuốn tiểu thuyết khác, “Lễ hội của vô nghĩa”, nguyên bản bằng tiếng Pháp.

image3_thumb

  Kundera, phải, và vợ ông, Vera, thứ hai từ trái sang, bên ngoài một nhà hàng ở Paris năm 2010. Ảnh: Bertrand Rindoff Petroff/Getty Images

Lấy bối cảnh ở Paris và chỉ dày hơn 100 trang – nhà phê bình Michiko Kakutani đã bác bỏ nó trên tờ The Times là “mỏng manh” – tác phẩm kể về những cuộc dạo chơi của năm người bạn mà qua đó Kundera coi là những chủ đề quen thuộc của tiếng cười, những trò đùa thực dụng [practical jokes], nỗi tuyệt vọng, tính dục và cái chết.

Tiểu thuyết gia Diane Johnson, viết trên tờ The Times Book Review, về tầm quan trọng cốt yếu của tiếng cười đối với Kundera:

“Có thể khi Kundera viết về tiếng cười, ông quan niệm nó không phải là một biểu hiện chủ quan của sự đánh giá hay sự ngạc nhiên, theo cách chúng ta thường hiểu, mà là một hình thức gây hấn hữu hình, một hành động thực tế của sự tự vệ, thậm chí là một nghĩa vụ”.

Như chính Kundera viết trong “Lễ hội của vô nghĩa”: “Chúng ta đã biết từ lâu rằng không còn có thể lật ngược thế giới này, cũng như định hình lại nó, cũng như ngăn chặn sự vội vã nguy hiểm của nó. Chỉ có một khả năng kháng cự duy nhất: không coi trọng nó”.

Ông có một ghi chú tương tự vào năm 1985, khi nhận Giải thưởng Jerusalem, một trong số những vinh dự ông nhận được: “Có một câu ngạn ngữ Do Thái rất hay”, ông nói trong bài phát biểu nhận giải của mình, “Con người thì suy nghĩ, còn Chúa thì cười”. Và sau đó là một lối diễn đạt văn hoa tuyệt vời kiểu Kundera:

“Nhưng tại sao Chúa lại cười? Bởi vì con người suy nghĩ, và sự thật thoát khỏi anh ta. Bởi vì con người càng suy nghĩ nhiều thì suy nghĩ của người này càng khác với suy nghĩ của người khác. Và cuối cùng, bởi vì con người không bao giờ như những gì anh ta nghĩ”.

Bài báo có sự đóng góp của Constant Méheut.

Updated 10:47 a.m. ET"

Comments are closed.