Người và chuột

Vũ Thư Hiên

– Ông bạn mới ờ… ời!

Một giọng khàn khàn nghe rất xa, vào nửa đêm, sau khi người ta giải tôi vào xà lim.

Trong cái hành lang tối hù chỉ có một ngọn đèn 15 oát lờ mờ soi tỏ hai dãy cửa sơn đen, giọng nói âm vang như trong động đá.

– Tôi gọi ông bạn mới vào – giọng nói nhắc lại.

Thì ra người ta gọi tôi.

– Chào bạn! – tôi đáp khẽ.

– Tử hình hay chung thân?

Tôi không biết phải trả lời thế nào. Tôi không biết tôi tử hình hay chung thân? Tôi chưa có một án hình nào hết.

– Cứ nói chuyện, đừng ngại – giọng nói từ xa vẳng lại – Giờ là phiên Trư Bát Giới. Tay này không thích cùm, cũng không ưa rình mò… Tôi ở đây bốn năm rồi, tôi biết.

Có tiếng lao xao ở các xà lim khác. Vẳng đến tai tôi những lời chào.

– Đây là đâu hở ông bạn? – tôi hỏi.

– Là Hoả Lò.

– Tôi hỏi: nó là đâu trong Hoả Lò?

– Là khu Xà Lim 1. Thời Tây gọi là Xà Lim Án Chém.

Tôi hiểu thân phận mình. Đây không phải là chỗ người ta giam tạm tôi ít ngày rồi thả.

Xà Lim Án Chém là khu giam tù trọng án, mỗi người một xà lim. Thảng hoặc cũng có xà lim hai người. Xà Lim Án Chém có một phòng vệ sinh, buổi sáng tù được quản giáo mở cửa cho đi đổ bô. Phòng vệ sinh không dành riêng cho tù. Quản giáo, lính gác cũng vào đấy xoành xoạch.

Quản giáo có người hiền, có người không hiền, nhìn chung, họ làm việc theo cách công chức, hết giờ là ba chân bốn cẳng về nhà.

Lính canh trại thì khác. Là công an, nhưng không phải công an, tên gọi là Công an Nhân dân vũ trang. Nhiệm vụ của thứ lính này là canh gác,không quản lý tù. Phần nhiều trẻ măng, chưa hết tuổi học trò, nhưng do thích nghịch ngợm, hoặc do buồn tình, nhân tiện đi vệ sinh họ cũng khoái rình bắt tù vi phạm nội quy để cùm nó cái chơi. Nội quy chỉ gồm các điều cấm: cấm tù liên lạc với nhau là chính, từ đó mà ra cấm hát, cấm nói, cấm ho hắng làm hiệu…

Những chuyện linh tinh ấy sau này tôi mới biết, chứ khi mới vào đây mọi cảm giác đều tê liệt. Khu xà lim có mùi khăn khẳn của nhà vệ sinh công cộng.

Giọng nói lại cất lên sau mấy giây cân nhắc:

– Đây là trại cải tạo, ông bạn mới ạ. Hãy cẩn thận. Với cán bộ thì phải kính cẩn gọi họ bằng ông bằng bà.

– Thế thì cứ gọi luôn các vị ấy bằng “ngài” có phải lịch sự hơn không? – tôi vào giọng với người đối thoại.

– Hà hà! Ông bạn vui tính đấy.

– Tôi đâu có ý đùa bỡn. Tôi thật.

– Ở vài ngày khắc biết.

Từ khi cái máy chém bị xếp xó, Xà lim Án chém chỉ được nhắc đến trong những hồi ký cách mạng để người đọc đã biết ơn rồi phải biết ơn thêm nữa các vị lãnh tụ cách mạng. Người ta chỉ gọi tên mới của nó – Xà Lim 1.

Giọng nói tắt ngấm.

Tôi hình dung người đối thoại là người hơn tuổi tôi, chững chạc cũng hơn tôi.

Ngày hôm sau, cũng phiên Trư Bát Giới, anh ta lại gọi:

– Này ông bạn!

Tôi đáp:

– Có tôi.

– Đã sa chân đây thì cố mà giữ sức khỏe. Phòng khi trời thương còn trở về được với gia đình. Mà cũng đừng hi vọng nhiều. Ở đầu đường hi vọng thường có thất vọng đứng chờ.

– Cảm ơn ông bạn.

– Ơn huệ khỉ gì. Là kinh nghiệm của ma cũ truyền cho ma mới thôi.

Anh ta tiếp:

– Vào đây rồi thì phải biết một số nguyên tắc.

– Những nguyên tắc gì?

– Nguyên tắc số một: không tin bất cứ ai.

– Còn những nguyên tắc nào khác?

– Cái đó tuỳ theo nhiều thứ.

– Là những thứ gì?

– Anh là ai. Người ta bắt anh vì tội gì?

– Tôi hiểu.

– Vợ con rồi hả?

– Rồi.

Tiếng thở dài vẳng lại.

– Tôi tứ cố vô thân. Có phải đi khỏi cuộc đời này cũng nhẹ nhàng.

Đêm tiếp theo, chúng tôi nói chuyện dài hơn.

– Ông gặp may: không phải ở chung – anh bạn tù nói.

– Ở một mình thì sướng nỗi gì?

Anh ta lửng lơ:

– Ở một mình buồn thì dễ tâm sự với người ở cùng những điều không nên nói. Chấp pháp thì lại thích nghe người này nói về người kia.

Đó là nguyên tắc sơ đẳng của cuộc sống trong xà lim, tôi đã biết qua chuyện kể của cha tôi và những người bạn cách mạng của ông.

– Tôi tên Cận -người tù xưng danh – Bạn tên gì?

Tôi xưng một cái tên chợt đến trong đầu. Bộc lộ về mình trong môi trường tù chẳng có tích sự gì.

Tôi và Cận quen nhau trong hoàn cảnh như thế.

Cửa thông gió ở xà lim tôi ở trông ra bức tường đá bao quanh nhà tù, không trông ra sân, nơi tù ra nhận cơm Tù nhân có thể thấy thấp thoáng bóng nhau vào buổi sáng khi được giải đi đổ bô và rửa ráy. Một lần tôi đã thấy Cận qua khe hở tí tẹo phía dưới ô kiểm tra mà người Pháp gọi là le judas, tên môn đồ phản Chúa Jesus. Thấy là thấy mỗn đôi cẳng chân gày và khô thò ra ngoài hai ống quần cũn cỡn. Tôi đoán Cận khá cao. Và gày rạc.

Le judas ở cửa phòng tôi một khi đã khép lại thì kín như bưng.

Về sau này, khi đã qua nhiều trại. chưa ở đâu tôi gặp một người tù béo. Phù thì có, béo thì không. Tôi từng thấy những cái chết vì đói. Nói cho đúng, chết như vậy cũng không hẳn vì đói theo nghĩa đen, phần nhiều là do người không chịu được đói ăn bậy ăn bạ rồi bị kiết lỵ hoặc ngộ độc.

Tất nhiên, không thể nào hình dung con người chỉ căn cứ ở cẳng chân. Cận có giọng nói trầm và khàn, rất đặc biệt. Tôi mường tượng Cận có gương mặt xương xẩu, gò má cao, miệng rộng.

Khu Xà Lim 1 vắng người. Số tử hình lưu cữu đã bị bắn, số mới chưa được giải đến. Theo lời Cận thì tù tử hình thường vào cuối năm mới đông. Có thể phỏng đoán rằng với các quan toà thời gian dài hơn nó có thực, nên đầu năm họ làm việc túc tắc, năm hết tết đến mới giật mình, xử hối hả.

Trong ba tử tù còn lại, Cận có thâm niên xà lim cao hơn cả. Anh thuộc diện chống án, chờ xử lại.

Anh người Nùng ở xà lim bên cạnh tôi là đảng trưởng một đảng ở vùng biên giới. Quan toà gọi nhóm người vài chục mống họp lại với nhau là đảng thì họ là đảng. Không cương lĩnh, không điều lệ, người nọ rủ người kia, thế là thành cái gọi là đảng. Những người quen sống với thiên nhiên trên không chằng dưới không rễ, không biết đọc, chẳng biết viết, nay khốn khổ với các thứ hộ khẩu, tạm trú tạm vắng, các thứ thuế và các loại phí giời ơi đất hỡi vào một ngày nào đó bỗng nhiên nổi sùng dùng súng kíp bắn chết hai cán bộ nòng cốt của huyện. Cả đảng bị tóm, đảng trưởng lĩnh án tử hình.

Anh tử hình thứ hai là lính đặc công trở về từ chiến trường, phạm tội băm tình địch bằng rựa khi phát hiện cô người yêu không chung thuỷ. Vụ giết người đẫm máu ầm ĩ một thời. Anh thương binh phạm tội trong tình trạng tâm thần bất định, không đến nỗi bị xử tử hình nếu như kẻ bị giết không phải là con một ông lớn. Ông này gần như phát điên, một mực đòi sát nhân giả tử. Anh ta nằm đây đã hai năm chờ xử lại.

Anh tử hình thứ ba bị tuyên tội chết vì dùng rìu giết bốn mạng trong một vụ giành lại đất của gia đình bị chính quyền cướp trắng. Anh ta lúc hét toáng lên chửi Đảng, chửi chính phủ, cho các lãnh tụ đáng kính ăn những thứ không có bán ở chợ, lúc oang oang gọi sang các xà lim khác gợi chuyện. Đáp lại là sự im lặng. Chẳng ai dại gì dây với tên đã giết người còn ăn nói phản động.

Số còn lại ít khi lên tiếng. Họ là những người mang án chung thân, cam chịu cuộc sống xà lim, hi vọng sớm được chuyển lên các trại chung.

Trong phiên gác của Trư Bát Giới các phòng còn thì thầm nói với nhau đôi câu, chứ khi gặp phiên trực của các quản giáo khác thì cả khu xà lim là một nấm mồ lớn.

* *

*

Cận nghiện thuốc lá nặng. Biết tôi đồng cảnh, lợi dụng lúc đi làm vệ sinh sáng thỉnh thoảng anh lẳng vào chân cửa phòng tôi chút thuốc lá trong một viên giấy.

Tôi hỏi sao anh kiếm được thuốc lá khi biết anh không có tiếp tế, thì anh không nói.

Anh hỏi tôi:

– Có lửa đấy chứ?

– Có bùi nhùi anh đảng trưởng Nùng cho.

– Hút đã không?

– Đã. Một hơi là đứ đừ.

– Tốt.

– Kiếm đâu ra thế?

– Từ các đầu mẩu.

Tôi ngạc nhiên. Suốt mấy tháng trời ở đây tôi có thấy anh bị gọi “đi cung” (hỏi cung) lần nào đâu. Chỉ có “đi cung” mới được ra khỏi khu xà lim, mới có thể lượm được những đầu mẩu thuốc lá ở dọc đường. Cho dù có đi cung hằng ngày Cận cũng không thể kiếm được nhiều đầu mẩu đến mức còn thừa để cho tôi.

Sau thời gian gần một năm cùng sống trong Xà Lim Án Chém, Cận đã bật mí cho tôi biết vì sao trong xà lim mà anh lại kiếm được thuốc để hút.

Đó là chuyện lạ, rất lạ. Tôi chưa từng nghe ai kể, chưa từng đọc trong cuốn sách nào.

* *

*

Trong xà lim, tù nhân không phải sinh vật duy nhất. Còn có nhiều sinh vật khác: muỗi, rệp, gián, kiến, kể cả dĩn… Chuột là nhân vật nổi bật. Chuyện chuột là đề tài muôn thuở của người tù. Bỏ ngoài tai những con chuột huyền thoại to bằng con mèo nhờ ăn thịt người trong nhà xác là chuyện tào lao thiên tôn được những chuyên gia bốc phét kể lại cho những người chưa từng ở tù nghe, kỳ dư đều là chuyện thật.

Ở Hỏa Lò, chuột là đại họa. Những con chuột cống béo núc, tròn lẳn, to bằng cố tay, nhâng nhâng nháo nháo chạy đi chạy lại trước mặt những người tù bất lực là một hình phạt được cộng thêm vào hình phạt của nhà nước. Mà không phải chỉ ở Hỏa Lò. Ở các khu biệt giam của những nhà tù khác tình hình cũng y như vậy, như sau này tôi được biết.

Nhà bếp gánh cơm vào khu xà lim của chúng tôi thường để tơ hơ trên bệ xi măng ngoài trời, không che không đậy. Khi quản giáo chưa tới giờ mở cửa cho từng xà lim ra nhận, chuột cống kéo cả bầy ra leo lổm ngổm trên những bát cơm, giành nhau ăn, đánh nhau chí choé. Tù nhận phần cơm về phòng gạt nước mắt nhặt những viên cứt chuột vứt đi rồi ăn.

Trong thời gian tôi ở Xà Lim Án Chém chỉ có một viên quản giáo lúc nào cũng đi theo gánh cơm để mở cửa cho tù ra nhận nga cho họ khỏi phải ăn cơm chuột vầy. Tù gọi anh này là “sứ giả hoà bình”. Người tốt ở đâu cũng có.

Đồ tiếp tế của tù giấu cách nào chuột cũng moi bằng được. Có gói kẹo gói bánh để trong chăn bông, bên trong còn bọc mấy lần quần áo mà chúng cũng biết, cũng lần đến, cắn nát mọi vỏ bọc để chén. Chúng ăn một phá mười. Người tù rớt nước mắt nhặt lại cái kẹo cái bánh bị chuột gặm dở vương vãi trong phòng đế mút mát, kiếm tí chất ngọt. Có người thức mấy đêm liền để canh chừng, cho tới khi kiệt sức, không thể thức thêm được nữa, đành cố nhồi nhét vào bụng cho bằng hết đồ ăn gia đình gửi vào. Ăn vội ăn vàng, ăn đến bội thực, đến phát bệnh.

Tù trọng án ít được nhận tiếp tế. Mỗi lần có tiếp tế là mỗi lần lo thắt ruột. Người khéo léo lừa được chuột thì lại không lừa được kiến. Kiến đen khi có động bỏ chạy rất nhanh, nhưng kiến hôi nhỏ xíu thì đủng đỉnh, nhai phải chúng, mùi hăng xì xông lên tận óc.

Ở xà lim, chuột cống ra vào theo lỗ thoát nước. Cái lỗ duy nhất ở chân tường hậu mỗi phòng chỉ lớn hơn thân con chuột chút ít. Tưởng chừng chỉ cần bịt cái lỗ ấy đi thì chuột hết đường vào, vậy mà vẫn không ngăn được chúng. Người tù thường lấy cán chổi sể bịt cái lỗ ấy. Nhưng chỉ được vài đêm lũ chuột tinh ranh đã phá tan cái chướng ngại vật không bền vững nọ. Thoạt đầu chúng còn dùng đầu để húc cán chổi vào trong để lấy lốì đi. Nếu cách đó không xong thì chúng gặm cho bằng nát cái chổi rồi tha đi từng cọng một cho tới khi không còn gì cản đường. Cái chổi là tài sản xã hội chủ nghĩa mà người tù phải giữ gìn. Nếu để nó hư hỏng, anh ta không có quyền đòi cái thứ hai.

Cận căm ghét thậm tệ lũ chuột cống. Nhưng khi thấy chúng không thèm lai vãng xà lim của anh chỉ vì anh không có tiếp tế, anh cũng cảm thấy tủi tủi trong lòng.

Khi số tù đông lên đột ngột, không còn đủ chỗ, người ta ghép Cận ở với tôi.

* *

*

Một ngày kia, trong xà lim của Cận xuất hiện một đôi chuột nhắt.

Anh không xua đuổi chúng, mà còn tỏ ra xuề xoà với chúng. Chẳng gì chúng cũng là những người khách duy nhất anh có trong cảnh biệt giam. Thậm chí bữa ăn nào anh cũng dành lại một miếng cơm cho vợ chồng nhà chuột, giả bộ để rơi xuống nền nhà.

Có lẽ vì vậy mà đôi vợ chồng chuột nhắt quyết định tá túc ở xà lim của Cận. Trong khu xà lim thường không có chuột nhắt – lũ chuột cống không cho phép chúng bén mảng lãnh địa của mình, hẳn thế. Đôi vợ chồng chuột nhắt đến ở đây có lẽ do bọn chuột cống không thèm bước chân vào cái xà lim không bao giờ có tiếp tế.

Ít lâu sau vợ chồng nhà chuột tha rác về làm ổ trong một góc khuất ngay dưới phản xi măng của Cận.

Một ngày kia, chuột vợ có mang. Cận thấy nó mang bầu khệ nệ. Anh chồng chạy lăng xăng bên cạnh, ra chiều lo lắng. Một mình nó lo việc xây dựng nơi ở mới, cô vợ chỉ ngồi một chỗ, thỉnh thoảng mới tha thêm một cọng rác phụ cho chồng.

Rồi cô vợ ở cữ. Chẳng bao lâu sau, Cận đã nghe tiếng chuột con léo nhéo dưới phản. Chắc chúng vòi mẹ cho bú tí hoặc chành chọe nhau. Trẻ con nào cũng là trẻ con, vật hay người thì cũng thế.

Mình thì chẳng bao giờ có con, Cận buồn rầu nghĩ. Trở thành ma rồi thì làm sao có con? Chẳng có chuyện ma nào kể ma đàn ông lấy vợ đẻ con. Ma là hình bóng cuộc sống trần thế. Chúng không được làm thêm điều gì chưa kịp làm trong kiếp người.

Những lúc đôi vợ chồng chuột đi vắng, Cận mới rón rén bước xuống phản ngó trộm mấy con chuột con.

Anh ngồi chồm hổm ngó sâu vào góc tối, nơi có những sinh vật nhỏ bé trời cho. Mặc dầu rất muốn vuốt ve chúng, anh không dám chạm tay vào chúng. Anh sợ vợ chồng chuột ngửi thấy hơi người ở lũ chuột con sẽ sợ hãi tha chúng đi nơi khác. Ba con chuột đỏ hỏn, mắt nhắm nghiền chen chúc nhau trong cái ổ bằng rác và vải vụn.

Cuộc sống của gia đình nhà chuột đang bình thường thì xảy ra biến cố.

Một hôm đôi vợ chồng chuột biến mất. Thấy im ắng trong phòng, Cận chăm chú theo dõi lối vào của chúng, nhưng không thấy chúng trở về. Hôm sau cũng vậy. Lũ chuột con đói sữa bò lổm ngổm ra ngoài. Cận bỏ chúng vào ổ được một lát chúng lại trườn ra.

Anh đứng ngồi không yên. Anh ngóng trông đôi vợ chồng chuột. Anh lo lắng cho mấy đứa nhỏ.

Sau khi tin chắc rằng bố mẹ chúng vĩnh viễn không trở về, bị sa bẫy hoặc ăn phải bả, anh hoàn toàn tuyệt vọng.

Để ba con chuột con khỏi chết rét, anh nâng niu đỡ chúng lên, đặt bên gói quần áo anh gấp lại làm gối. Gần hơi người, chúng sẽ ấm hơn. Bữa cơm, Cận để dành lại mấy miếng, nhai thật kỹ, cho tới khi không còn hạt nào không nhừ, rồi mới vụng về mớm vào những cái mõm tí xíu của chúng. Lúc đầu những con chuột con không chịu ăn, chúng tránh miệng anh. Những miếng cơm anh cố mớm làm mấy cái đầu tí hon nhoe nhoét nước bọt màu trắng đục. Khi anh thôi mớm, chúng mới liếm láp mặt nhau. Nhờ những miếng cơm nhừ lẫn nước bọt, chúng không chết.

Sau nhiều ngày kiên nhẫn mớm cơm cho chúng, Cận mừng thấy ba con chuột vẫn sống. Con thứ ba yếu hơn, nó thở thoi thóp, da nhăn nhúm, rồi nằm yên, không nhúc nhích. Vài ngày sau, nó chết.

Anh tự trách mình vụng về. Vốn không khéo tay, anh nghĩ con chuột không sống được là vì anh không biết cách nuôi nó. Cái chết của con chuột con làm anh rơi vào một nỗi buồn xám.

Rồi anh tự an ủi: nó quá yếu từ khi lọt lòng mẹ chứ không phải lỗi tại anh. Anh muốn chôn nó như hồi còn bé anh đã khóc ròng mang đi chôn con chó con chưa mở mắt trong bầy chó mới sinh. Anh đã cùng mấy đứa trẻ bạn anh làm đám ma cho con chó bất hạnh, đặt nó trong một quan tài bằng giấy rồi chôn ở vườn sau. Anh còn đắp cho nó một nấm mộ, trên đó cắm một cây thập giá bằng hai nhánh cây khô. Anh còn nhớ buổi sáng mùa đông ấy, có gió mùa đông bắc và sương muối, những búi cỏ mần trầu vang hoe xơ xác và những cây cau ủ rũ chết lặng trong vườn. Giờ đây anh ở trong xà lim, lấy đâu ra đất mà chôn? Khi bỏ con chuột vào cái bô lẫn với phân và nước tiểu, anh thấy mũi mình cay cay. Anh có cảm giác đang làm một điều không phải, một hành động tồi tệ với một số phận không may.

Để đề phòng những cuộc khám xét xà lim đột xuất, Cận kiếm được một chỗ kín để giấu hai sinh vật bé bỏng. Ở dưới tấm phản xi măng, đầu một trụ có một lỗ hổng nhỏ. Anh nhẹ nhàng để hai con chuột con vào đó, đến bữa mới mang chúng lên, cho chúng ăn cùng.

Hai con chuột con lớn dần. Càng lớn chúng càng tỏ ra khôn ngoan.

– Giống chuột khôn hơn chúng ta nghĩ – Cận nói – Người là một thứ sinh vật kiêu hãnh vô lối.

Trong số quản giáo phụ trách Xà lim án chém có một tên vừa xấu tính vừa ác, biệt danh Hắc Đởm.

Bình thường hai con chuột chỉ chạy loăng quăng dưới nền nhà, nhưng hễ nghe tiếng giầy lộp cộp của Hắc Đởm từ xa là chúng leo tuốt lên cái hốc của chúng. Chả là chúng thấy người nuôi chúng luống cuống mỗi khi nghe tiếng giầy đi vào khu xà lim, và bằng cách nào đó, chúng hiểu tiếng giầy nọ là cái mang tới tai họa.

Cận không ưa tay quản giáo này. Và sợ hắn. Nếu Hắc Đởm biết Cận nuôi hai con chuột, hắn sẽ giết chúng.

Cận xót xa nhìn hai sinh vật bé bỏng. Khi Cận ăn cơm, chúng leo lên lòng anh, ngước cặp mắt đen láy nhìn anh, chờ đến lượt mình được anh cho mấy hạt.

Hồi anh mới vào tù, một người bạn thân từ hồi còn để chỏm thỉnh thoảng gửi cho mấy bao thuốc lá, vài phong thuốc lào. Anh này sau đi vào chiến trường thì không còn ai tiếp tế cho anh nữa.

– Tôi nhịn thuốc cũng vất vả lắm – anh kể – Hết thuốc lá thì hút cả thuốc cà độc dược với anh bạn bị hen cùng xà lim.

Một hôm, Cận tỉnh dậy thì thấy ở đầu phản có mấy đầu mẩu thuốc lá. Ở đâu ra những mẫu thuốc này? Anh ngạc nhiên. Thét rồi anh cũng vỡ lẽ -chính hai con chuột đã tha về cho anh.

Thì ra khi hút thuốc, anh thường đùa nghịch phà khói vào cho mặt hai con chuột con. Lâu rồi thành quen, chúng đâm nghiện. Khi Cận hết thuốc hút, không phải chỉ mình anh vật vã, hai con chuột cũng bứt rứt không kém. Thế là trong hai cái đầu tí xíu của chúng nảy ra sáng kiến – đi kiếm những thứ có mùi vị quen đem về cho chủ.

Kết quả là ba thầy trò đều thỏa mãn.

Hai con chuột không chỉ đi kiếm đầu mẩu. Càng lớn chúng càng dạn. Đêm đến, chúng mò vào cả chỗ ngủ của quản giáo và lính canh ăn cắp những điếu thuốc nguyên vẹn. Chúng tha điếu thuốc chạy thoăn thoắt từ khu nhà này qua khu nhà khác mang về cho anh những điếu thuốc khô ráo, sạch sẽ.

– Anh biết người ta huấn luyện chó tìm ma túy cách bằng cách nào không? – Cận nói – Người ta làm cho chúng nghiện, để chúng đói thuốc mới cho chúng đánh hơi tìm chỗ có ma tuý cất giấu.

Giờ thì tôi hiểu vì sao Cận có thuốc lá quăng cho tôi trong những ngày đầu tiên tôi ở khu xà lim.

Hoạ với phúc luôn đi cặp kè.

Sau những ngày thoải mái được sống cùng Cận, tôi có thuốc hút, thì tai hoạ ập đến.

Mũi của Hắc Đởm rất thính. Tuy Cận đã hết sức cẩn thận, nhưng một hôm Hắc Đởm mở cửa cho phòng chúng tôi đi đổ bô thì y ngửi thấy phảng phất mùi thuốc lá:

– Quái cái phòng này, chẳng có tiếp tế tiếp bái gì mà vẫn có thuốc hút – hắn đứng giữa hành lang nói to cho các phòng đều nghe.

– Anh nào tiếp tế cho nhà anh này thì khai ra? Anh nào?

Mấy phòng nhao nhao:

– Ầy dà, cái cán bộ nói không có đúng, không có ai tếp tế! Không có vi phạm nội quy! – đảng trưởng người Nùng vặc lại – Không có cùm được ta đâu vớ.

– Khốn nạn, chính mình còn chưa có thuốc hút, thưa ông cán bộ- đào đâu ra của thừa mà tiếp tế với tiếp bái? – anh thương binh băm tình địch phân trần

– Đây mà có ấy à, đây cho ngay – anh chàng giết kẻ chiếm đất nói – Bạn cùng cảnh thương nhau, chứ ngoài cuộc đứa đéo nào thương?

Hắc Đởm quát:

– Có đậy ngay cái mồm thối của nhà anh lại hay không? Coi chừng đến khi dựa cột người ta không cho chết ngay từ loạt đạn đầu thì tha hồ ngắc ngoải!

Anh tù cười to:

– Ha ha! Lại còn dọa thằng này cơ đấy! Thằng này đéo sợ. Sợ cả đời rồi. Giờ thằng này chấp hết.

Cận từng bình luận về Hắc Đởm:

– Thằng này được huấn luyện cực tốt, ông ạ. Nó được dạy dỗ đến nơi đến chốn để coi người tù nào cũng là kẻ thù giai cấp, bất kể tội gì. Có dịp là nó hành.

Thế rồi một hôm đột nhiên phòng chúng tôi bị khám. Giữa trưa, sau bữa ăn, tôi nghe tiếng giày nện cồm cộp trên nền xi măng. Then cửa phòng chúng tôi kêu lạch xạch. Một giọng hách dịch quát:

– Hai anh khai ra: đứa nào tiếp tế thuốc lá cho các anh?

Đứng giữa khung cửa là người chúng tôi chưa từng gặp. Nhìn dáng khúm núm của cả Trư Bát Giới với Hắc Đởm sau lưng anh ta, chắc đây là một sĩ quan cấp bậc cao. Về sau tôi mới biết y chính là phó giám thị.

– Chẳng ai tiếp tế cho chúng tôi hết – Cận đáp, giọng lạnh tanh.

– Báo cáo anh, có một gói ni-lông thuốc vụn – Hắc Đởm lục lọi một hồi rồi bẩm – Mùi lạ lắm. Hình như thuốc đầu mẩu.

– Anh còn chối nữa thôi? – phó giám thị hất hàm.

Cận lạnh lùng:

– Tôi nói rồi: chẳng ai tiếp tế cho tôi hết.

– Thế thì thuốc đâu ra?

– Tôi không biết. Chắc của người ở trước giấu.

– Nói láo. Thuốc để lâu thì phải mốc xanh lè chứ.

– Thưa cán bộ, thuốc đầu mẩu quá nhiều ni-cô-tin, mốc không sống được.

– Lại còn định lòe tôi hử? Nói cho anh biết: tôi không cần có học tôi cũng là cán bộ. Anh có học mà anh là thằng tù. Đừng có lên mặt.

Đầu cúi, hai tay chắp trước bụng, Cần làm giọng khiêm tốn:

– Đâu dám. Tôi thất học. Nếu tôi có học, dù có được làm quan tôi cũng chẳng thèm ở chốn này.

– Anh nói thế là nghĩa gì? Xỏ xiên, hả?

– Vì tôi thất học nên Đảng và Nhà nước mới phải giam tôi lại để giáo dục. Trước đây đường quang tôi không đi, lại đâm quàng đường rậm…

Giọng Cận mỗi lúc một cất cao. Giọng của người bực bội cố nén.

– Báo cáo anh, trong hốc này có một điếu Tam Đảo nguyên – Hắc Đởm reo lên, chìa điếu thuốc lá cho phó giám thị.

– Cùm nó lại Bao giờ khai ra đứa tiếp tế mới tha.

Hắc Đởm đứng nghiêm:

– Dạ, rõ! Cả hai?

– Một thằng này thôi – phó giám thị lệnh.

Suốt cuộc khám xét Trư Bát Giới mặt xị như biết lỗi, không nói câu nào.

Cận bình thản nằm lên sàn xi-măng. Hắc Đởm thành thạo tra hai cái khoen vào chân anh, đóng xuốt. Cận chỉ hơi nhăn mặt vì đau. Chắc anh đã quen với cùm.

Đám người nhà nước lục tục kéo đi.

Cận nhìn lên trần, tư lự:

– Thằng phó giám thị này ít khi thân chinh đi khám các phòng. Không biết đứa nào báo cáo? Nó không tàn bạo, nhưng thâm hiểm. Nó không dừng lại, chừng nào chưa biết làm sao ta có thuốc hút. Chuyện nhỏ, nhưng để trưng ra cái quyền uy của nhà tù, chúng sẽ tăng cường rình rập, khai thác những người tù yếu bóng vía, bọn ăng-ten…

Tôi an ủi Cận:

– Chúng nó không thể tìm ra. Ngoài anh. chỉ có mình tôi biết.

* *

*

Thon thả, rắn chắc và mỡ màng, ban đêm hai con chuột của Cận chạy thoăn thoắt trong hành lang, khi cả khu xà lim hoàn toàn im ắng.

Khi trở về phòng, chúng giương cặp mắt đen láy, ngọ nguậy cái đầu tí xíu nhìn tôi. Tôi ngồi yên, không cử động cho chúng khỏi giật mình. Tôi còn mỉm cười với chúng nữa, nhưng chắc chúng không hiểu nụ cười làm thân của tôi.

Khi tin chắc người ở cùng với chủ của chúng không có ý xấu, chúng thận trọng bò đến gần tôi rồi lại cảnh giác phóng đi.

Để tỏ lòng cảm ơn hai đứa đã kiếm thuốc hút cho hai chúng tôi, bữa cơm nào tôi cũng để lại chút xíu cho chúng dưới nền nhà, nhưng chúng chỉ ăn vài hạt gọi là, như kiểu khách sáo. Tôi đồ rằng chúng còn kiếm thêm được thức ăn ở ngoài.

Chỉ có chúng tôi đói thì chịu vậy.

Tôi đánh giá cao sự nhường cơm xẻ áo của Cận đối với hai con chuột. Ở trong xà lim chúng tôi không bao giờ đánh vãi dù một hạt cơm.

Như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện miêu tả cảnh tù xà lim:

Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương.

Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng thơ vướng,

Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương.

Khi ăn, chúng tôi cố nhai cho thật nhuyễn để tiêu hóa tối đa khẩu phần tù. Nhai kỹ như thế, chúng tôi nghĩ, thì không một ca-lo nào bị bỏ phí. Số lượng ca-lo là chuyện khoa học. Cảm giác mà cái dạ dầy trống rỗng gây ra là chuyện khác. Có bữa ăn xong, chợp mắt một tí, tỉnh dậy lại ngong ngóng kẻng báo cơm.

Tôi chỉ được no vài ngày vào lần đầu tiên gia đình tôi được phép tiếp tế cho tôi, gần một năm sau, tính từ ngày tôi bị bắt.

Theo tục lệ, tôi có quà cho mọi phòng. Việc này phải làm mấy ngày mới xong. Cách dễ nhất là xin quản giáo cho ra sân phơi quần áo rồi giấu quà trong đồ phơi. Thường các quản giáo ngại bẩn, không sục sạo đồ vật của tù.

– Đã lâu lắm mới được ăn những món do các bà nấu – Cận xuýt xoa – Ngon tuyệt.

– Thịt kho mẹ tôi làm, ruốc là của vợ tôi. Trên đời này, đó là hai người thương yêu tôi nhất.

– Anh thật hạnh phúc – Tôi thì hoàn toàn bất hạnh. Có người yêu, rồi đùng một cái, không có nữa. Lại bị vu giết người yêu để phải sa chân vào chốn này.

– Cô ấy bị giết?

– Phải.

– Vì sao?

– Có thể là một vụ trộm. Cô ấy chống lại.

– Rồi người ta đổ cho anh?

– Trong phòng cô ấy dấu vết của tôi để lại nhiều nhất.

Cận thở dài.

Tôi an ủi anh:

– Con người ta có số cả, nghĩ ngợi mà làm gì.

– Tôi cũng muốn nghĩ vậy.

Anh lại rơi vào sầu não. Anh lo cho số phận hai con chuột.

– Chúng nó là trẻ con, không biết nghĩ. Rồi đây, khi tôi không còn, đời chúng sẽ ra sao?

Cuộc sống ở xà lim mấy năm hẳn đã làm anh nghĩ quẩn – chuột chứ có phải người đâu mà biết lo xa. Bốn năm trong xà lim đủ để con người mất tỉnh táo.

Ở phố tôi có một ông già đi tù mười năm, tội tuyên truyền phản cách mạng. Không biết ông ở tù bao lâu, nhưng khi được về, ông lẩn thẩn nhặt nhạnh các bao ni-lông các loại, đem ra máy nước giặt cho thật sạch, rồi phơi khô, xếp lại từng tệp. Chẳng ai cần đến những thứ bỏ đi ấy.

Một tháng trước khi chúng tôi xa nhau để chẳng bao giờ gặp lại, khu Xà Lim Án Chém không còn phòng nào trống. Anh tù mới cho chúng tôi biết anh phải ở với một tên ăng-ten. Sau một trận ẩu đả ầm ĩ khu xà lim vốn vắng lặng, tên ăng-ten được chuyển đi nơi khác. Anh tù bị cùm một tháng.

Ở các phòng giam khác có thể vẫn còn ăng-ten mà người ở cùng không hay, Cận nhận định.

– Xã hội ta là một xã hội tồn tại dựa vào tính ganh ghét, nghi kỵ và nghề bẩm báo. Đó là một xã hội lý tưởng cho nhà cầm quyền – anh kết luận.

Trật tự khu xà lim bị đảo lộn. Anh đảng trưởng người Nùng thình lình bị chuyển đi. Thay vào chỗ của anh là hai tên cướp của giết người.

Một anh có giọng nói ồm ồm tự xưng “dũng sĩ đường 5” phạm tội giết tài xế, cướp xe chở hàng. Anh chàng kia không khoe tội,cười hô hố nghe bạn tù khoe thành tích. Cả hai chắc chắn thuộc giới anh chị giang hồ, cả ngày bô bô những chuyện tục tĩu, bằng tiếng lóng. Cả hai đều bị cùm miết. Đó là những con người tự hào về cuộc sống dưới đáy. Cả hai biết cái gì đang chờ đợi họ. Họ chẳng hi vọng vào bất cứ cái gì, vì thế mà chẳng sợ cái gì.

Anh giết người vì bị cướp đất một đêm gọi to cho các bạn cùng xà lim:

– Chào anh em. Mai tôi đi rồi. Chúc anh em ở lại vui vẻ.

Tôi hỏi Cận:

– Làm sao anh ta biết được mai sẽ bị bắn?

– Theo nguyên tắc, không ai nói cho tù tử hình biết ngày nào anh ta bị bắn – Cận nói – Người ở ngoài thì biết. Bằng nhiều cách. Mua tin là cách thường dùng. Chắc người nhà đã tìm cách báo cho anh ta.

– Báo để làm gì? Có ích gì?

Cận im lặng.

– Một tâm lý khó hiểu – lát sau, anh trầm ngâm – Có thể họ muốn anh ta không bị đột ngột chăng?Đàng nào thì vào ngày ra pháp trường anh ta cũng sẽ biết khi tự dưng được một bữa tươi, có thịt quay, giò chả, hoặc gà luộc. Cơm thì ê hề. Lệ là thế.

Anh tù đã tự chọn cái chết cho mình. Khi lính gác vào xà lim để đưa tử tù ra trường bắn thì anh ta đã chết bằng cách cắt mạch máu ở cổ tay. Dao để cắt là một mảnh sắt đai thùng. Máu thấm đẫm tấm chăn mà không người lính trực nào biết, tưởng anh ta ngủ.

Một hôm khác, Cận đột nhiên nói với tôi:

– Mình phải bỏ thuốc thôi.

– Tại sao?

– Sự cố tình tạo ra một phản xạ có điều kiện ở người khác để sai khiến là việc làm có tính chất lừa đảo – Cận nói – Tôi là thằng lừa đảo.

– Anh lừa đảo ai?

– Trong quan hệ với các sinh vật cũng vậy, cũng là một thứ lừa đảo.

Tôi hiểu. Cận nói về những con chuột.

Tôi an ủi Cận:

– Anh đã yêu thương chúng cơ mà. Anh đã chẳng mớm cơm nuôi chúng từ khi chúng còn đỏ hỏn cho tới khi lớn đó sao?

Anh cúi đầu, tránh mắt tôi:

– Tôi đã ràng buộc chúng bằng cách không lương thiện. Tôi bỏ thuốc thì chúng sẽ đi. Để được sống cuộc sống tự nhiên của giống nòi chúng.

Tôi khuyên anh không nên bỏ thuốc đột ngột, mà bỏ từ từ. Như vậy, hai con chuột mới không bị sốc. Cho đến khi anh bỏ hẳn được, chúng cũng sẽ khỏi nghiện.

– Có lý – anh nói.

Tôi cai thuốc theo anh, miệng đắng ngắt.

* *

*

Đáng lẽ có thể viết thêm về chuyện vì sao Cận bị án tử. Nó là một chuyện đáng để viết.Vụ án giết người yêu của Cận rất ly kỳ, nhiều tình tiết rắc rối, khó biết được sự thật nằm ở chỗ nào. Chính nhờ những điều khó hiểu làm cho những người xử án phân vân mà Cận được sống thêm.

Câu chuyện này không có đoạn kết. Có thể bịa cho nó một cái gì gây ấn tượng, nhưng như thế câu chuyện sẽ hỏng, nó không giống sự thật. Mà sự thật trong cuộc đời vốn không có những kết thúc khác thường. Cuộc đời là cái chẳng có gì đặc biệt, nhưng lại chứa trong nó rất nhiều hỉ, nộ, ai, ái, ố, lạc… Không thiếu một thứ gì.

Tôi bất ngờ bị chuyển lên một trại tù nằm trong thung lũng, giữa những ngọn núi và trùng điệp rừng nguyên sinh. Ở đây vắng lặng, không có chim kêu vượn hú như trong văn tả cảnh của những nhà văn viết chuyện đường rừng. Những người tù lâu năm nói rằng vùng này là vùng nước độc. Đến cả giống chim gần người nhất như chim sẻ cũng xa lánh nó.

Tôi có ý ngóng Cận. Tuy là trại dành cho tù tập trung cải tạo, nhưng vẫn có một số tù có án. Rất có thể anh sẽ được xử lại, được giảm án, rồi được đưa đi khỏi Xà Lim Án Chém. Biết đâu rồi anh sẽ được chuyển lên đây, tới trại này?

Không bao giờ tôi còn gặp lại Cận.

Hỏi thăm những người tù từ các trại khác chuyển đến cũng không ai biết về người tù có tên như thế, có tội danh như thế. Tôi không muốn, không dám nghĩ tới một kết cục xấu cho Cận.

Phỉ phui, nghĩ thế thì tệ quá, bởi vì, xét cho cùng, anh có tội tình gì đâu.

Cách trại không xa là một sườn đồi lúp xúp mả lớn mả bé – nơi cư ngụ cuối cùng của nhiều người tù có án và không có án.

Nhà nước đã đưa họ tới đây để cải tạo họ thành những công dân tốt.

Không công dân nào có thể tốt hơn công dân đã nằm dưới mộ.

2016

Có thể là hình ảnh về chuột cống

Ảnh:  Kiến Thiết Gia

Comments are closed.