Từ điển tiếng Việt mở: Hợp/hiệp, chúng/chủng, và…

T.Đ.                                         

Không

Tôi vẫn phục chúng ta từ vài nghin năm trước, khi dân số đất nước mới chừng vài chục nghìn  đã tài khều tiếng Trung về rồi “thổi hồn” Việt vào để nó ngon lành thành con cái. Thí dụ chữ không (trống rỗng), chữ  thường thường mỗi ngày chúng ta dùng ít ra cũng tới năm lần – bà bán hàng ở chợ thì phải cả trăm. Chữ “không” này trong thơ Đường  là yếu tố làm đẹp quan trọng: “bạch vân thiên tải không du du”, “cô phàm viễn ảnh bích không tận”. Hay không gian: vùng trống không. Thế nhưng lấy nó về,  ông cha ta đã  biến nó ra thành phủ định từ (không) đối lại với “có”. Ngạc nhiên ghê ở chỗ này:  tiếng Việt  thời cổ  chúng ta đi khập khiễng một chân à? Có từ chỉ khẳng định, chấp nhận, bằng lòng – – mà lại không có từ chỉ phủ định để phải mượn từ không của hàng xóm về rồi “xuyên tạc” nó đi – thu nhỏ vùng tỏa nghĩa của nó là xuyên tạc chứ còn là gì? Hay vốn là có từ phủ định chân truyền Việt hẳn hoi nhưng rồi vì lý do gì gì đó nó biến mất? Váng mình sốt mẩy con  ra ngoài đường… Hay mấy cụ thầy đồ thấy mới nới cũ!

Chúng/chủng

Có từ khẳng định sở hữu () thế nhưng cũng lại lạ quá thật: ông cha  đã phải đưa các từ chỉ số nhiều – chúng, các – của Trung Quốc về. Chả lẽ xưa ông cha ta nghèo không sở hữu nổi vật nào nhiều quá ba ư? Tất nhiên có các từ nhiều, lắm… nhưng qua thực tiễn ngôn ngữ, phải nhận rằng nếu thiếu chúngcác thì tiếng Việt kém phong phú, kém năng lượng diễn tả. Ngôn ngữ có quy luật tiết kiệm. Nó không vẽ vời bày biện ra  nếu nó không cần.

Đến đây xin chỉ nói chữ chúng (từ chỉ số nhiều). Gốc của nó là Trung Quốc, chẳng hạn chúng sinh, dân chúng, chúng quốc, v.v. Sở hữu nó,  chúng ta có được tục ngữ này quá hay “chúng khẩu đồng từ ông sư cũng chết” (ông sư không hủ hóa nhưng nhiều miệng cùng nói như nhau là sư khốn nạn). Ai cũng nói câu này nhưng không phải ai cũng biết chúng là nhiều và chúng khẩu là nhiều miệng. Lắm người còn hiểu chúng khẩu là miệng nói “trúng” phắp. (Xin chú ý thêm một chút điểm này: tục ngữ trên nghe thuần Việt ở phần hồn thế nhưng trong tám chữ xếp quá tuyệt vời vào bên nhau kia thì sáu là gốc Trung Quốc—trừ cũng chết là tiếng lô (lô lại là gốc Pháp – local, bản xứ, bản địa.)                                                  

Chữ chúng xuất hiện hàng ngày, hàng giờ trong đời sống. Đây, có ai không đụng đến các chữ chúng ta, chúng tôi, chúng mày…? Ta, tôi, mày là ở số ít, chỉ một. Cài chúng vào thì ta hóa thành tập thể. Đến đây lại ngứa ngáy. Ừ nhỉ,  trước khi có đại từ nhân xưng chúng tao, người đại diện cho bộ tộc Âu Lạc nói thế nào để đối phương lăm le chiếm nương, lấn suối nể cái tập thể tao lớn mạnh? Phải nhận là không thể không tò mò muốn ngược lên đến tận nguồn xem thực sự đã là thế nào…

 

Trong phạm trù xưng hô bằng chữ chúng này lại có sự lạ. Chúng tao, chúng mày, chúng con, chúng em… đều là nửa Việt, nửa Hoa thế nhưng cạnh chúng (đấy, xem chữ chúng lợi hại chưa?) lại có chúng ông, chúng bà toàn Hoa? Xưa ông cha chắc chắn có ông bà nhưng ông cha gọi ông bà là gì mà phải mượn ngoại? Phải chăng chữ ông bà của Trung Quốc nghe cao sang hơn? (Chứng minh: ông bà không chỉ dùng để chỉ quan hệ thứ bậc gia tộc, chúng còn nhảy vào quan hệ giao lưu xã hội. Dạ, xin rước ông bà lại nhà…). Ôi, giá như đi ngược thời gian được!

Ở chữ chúng, nói thêm. Hiểu lầm chúng khẩu thành trúng phắp thì dùng queo chữ chúng là chuyện thường. Dạo Tổng thống Obama đến Việt Nam, báo chí, từ báo tỉnh tới báo đảng trung ương hay nói đến Hợp chủng quốc. Tôi hỏi một bạn làm báo: – Sao lại Hợp chủng quốc? – À, anh ơi, nước Mỹ nó nhiều chủng người đến định cư mà…  – Thế sao họ lại viết là United States chứ không United Races…?

Tôi không nói với bạn ấy rằng thời Mạt Thanh, triều đình cổ hủ, bảo thủ, lạc hậu, rệu rã, trí thức Trung Quốc quay ra chán hàng lô mà mê tít phương Tây. Nên họ đã dịch đầy trìu mến tên các nước Âu Mỹ sang tiếng Trung Quốc. Chữ me trong America (Mỹ quốc) có thể dịch bằng năm sáu từ đồng âm sau: Mỹ (đẹp), Mai (hoa mai), (mê mệt), Mỗi (mỗi một), Môi (than đá) nhưng họ chọn Mỹ, chữ đẹp nhất. Nếu như lúc ấy trí thức Trung Quốc đã thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lê thì chắc họ đã được chỉ thị phải dịch ra thành Mê quốc (Nước u mê)… May quá, trí thức Trung Quốc lúc ấy nặng tư tưởng “thoát Á” nên đã âu yếm dịch thành Hợp chúng quốc, nghĩa là nhiều bang hợp nhất. Có lẽ vì Mỹ là nước đầu tiên trên thế giới hợp nhất nhiều bang – một dấu hiệu dân chủ, bình đẳng, đoàn kết – nên được ưa chuộng và nhóm dịch giả liền tặng cho Mỹ chữ Hợp chúng quốc cũng lần đầu tiên xuất hiện nghe hit top, quá tân  kỳ, quá hấp dẫn.

Song báo chí ta, thậm chí cả cơ quan công quyền chóp bu vẫn cứ Hợp chủng quốc mà xài. Đinh ninh đã mô tả khoa học khía cạnh nhiều chủng tộc… (Chú thích một chút: chúng ta biết Trung Quốc có Đông Chu liệt quốc, quốc ở tiếng Trung Quốc có cả nghĩa tiểu bang).

Hợp/hiệp

Nhân chữ hợp trong Hợp chúng quốc, lại nói đến Liên hợp quốc mà gần như hầu hết báo chí ta đều nhất trí đổi đánh vèo thành Liên hiệp quốc. (Chúng ta trọng quốc tế lắm nhưng chúng ta  chúa là hay réo sai tên cúng cơm của ông bà, bố mẹ, dòng họ người ta. Nhưng kỳ quặc là chưa hề gọi lầm hợp tác xã nông nghiệp ra thành hiệp tác xã nông nghiệp bao giờ. Có lẽ do bụt chùa nhà mới thiêng, sợ nói sai nó bóp cổ.)

Hợp trong Liên hợp quốc có nghĩa như hợp trong Hợp chúng quốc, cùng là united chỉ khác nhau ở statesnations. Là hợp nhất, thống nhất làm một. Còn hiệp trong liên  hiệp hay hiệp ước, hiệp định, hiệp thương thì có nghĩa cùng góp sức, góp ý, góp của. Hay hiệp trợ là cùng giúp nhau chứ không được phép hiểu nó ra  là mấy bên giúp nhau như một. Cũng như không được phép nói hợp trợ. Bởi với quy luật nôm na là cha mách qué, e có ngày nó biến ra thành họp chợ mất. 

Một thí dụ nhỏ: trong Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, mỗi hội đều có điều lệ riêng, thậm chí chế độ nhuận bút bắt buộc phải khác nhau… Và với hội viên thì  ông chủ tịch Hội liên hiệp không oai bằng ông chủ tịch của từng hội với tư cách pháp nhân có quyền ký chi tiền nghỉ mát, đi tham quan học hỏi (?) Hàn, Sing…)

Hai chữ hiệphợp có nơi dùng như một. Mách bạn cách này để  kiểm tra  xem khi nào hiệp với hợp là một (khi này rất ít bởi nó là phương ngôn), khi nào là hai. Cách thế này: hôm nào đó, bạn nói với bạn gái vừa làm xong đầu mới: – “Ôi, kiểu highlight này hiệp với tóc em ghê góa!”. Hay bạn gái bạn  hát Gọi nắng trên vai em gầy thì bạn khen: “Ôi em hát Trịnh hiệp vô cùng, hiệp vô cùng!”. Sợ bạn bị bai lập tức mất. Ở đây cũng có thể hiểu bai theo nghĩa tiếng Việt: quan hệ hai người xem ra đã bị bai.

Hỗ

Nhân chữ hiệp trợ, lại  nói đến  một chữ chúng ta mượn rồi dùng sai văng mạng của người ta đi. Chữ hỗ trợ. Nghĩa là giúp nhau có qua có lại. (Chữ hỗ Trung Quốc viết rõ ra thành hai cánh tay níu nhau vững chắc và thân ái. Nhưng báo Nhân Dân  toàn viết: “Chính phủ đã hỗ trợ cho dân vùng nạn mỗi hộ năm ki lô gạo”. Dân vùng nạn giúp lại chính phủ năm cân gì mà hỗ nhỉ? Hay là có nhưng bị tham nhũng nên ỉm đi không khai ra?

Thật ra việc nói phứa phựa chữ nước ngoài, tên nước ngoài cũng phản ánh khối vấn đề trong tiềm thức. Nhưng ta đã sang lĩnh vực khác.

Một téo teo nữa để chứng minh hồn Việt có sức chuyển hóa thế nào. Trên kia tôi có viết đánh vèo. À, chữ vèo là từ chữ phiêu Trung Quốc. Nhưng vèo hay phèo nghe có rợn người hơn chữ phiêu không?

Comments are closed.