Khế Iêm
SALVAGE
Imagine you have built a house on sand,
and all our houses yet are built on sand:
and the evening comes
and the night comes
when the great storm casts the sea against the land;
an island is the tilted living room,
a brief cape is the brine-sopped sleeping room:
leavings of your lives
all your past lives
shifted by small currents in the sea’s clear womb;
and you had nought to do but let it go,
let go the wardrobe, let the bookshelves go,
plates, cups fall away,
honors fall away,
records void, ink made once again to flow.
And as young lovers in an ancient storm
you walked in lamplight in a dying storm
under blowing leaves
green-smelling leaves
and all you had was sweet love to keep you warm;
So now as ancient creatures jewelled with stone,
swift and incalculable, living stone,
you begin again,
the sin again,
tenderly clothing the tempestuous bone.
* Frederick Turner (born 1943 Northamptonshire, England) is an English–American poet affiliated with the literary movement known as New Formalism. He is the author of two full-length science fiction epic poems, The New World and Genesis; several books of his poetry and literary translations; and a number of other works. He has been called “a major poet of our time”.
CỨU NẠN
Tưởng tượng bạn xây ngôi nhà trên cát,
và những ngôi nhà của chúng ta cho tới nay được xây trên cát:
và chiều đến
và đêm đến
khi cơn bão lớn ném nước biển vào đất liền;
đảo là căn phòng khách chao nghiêng,
mũi đất là phòng ngủ đầy nước mặn:
còn lại những sinh mệnh của bạn
tất cả những sinh mệnh quá khứ của bạn
chuyển dịch bởi những luồng nước nhỏ trong lòng biển vắng;
và bạn không có gì để làm ngòai việc cứ thây kệ,
để tủ áo trôi đi, để kệ sách trôi đi,
đĩa, tách biến mất,
những danh tiếng biến bất,
những thành tích vô hiệu lực, mực một lần nữa sắp tuôn chảy.
Và như những người yêu còn trẻ trong cơn bão cổ xưa
các bạn bước đi trong ánh đèn lúc cơn bão đang lụi tàn
dưới những chiếc lá cuốn
những chiếc lá tươi
và tất cả các bạn có là tình yêu dịu dàng sưởi ấm;
Như thế bây giờ các bạn như những sinh vật cổ xưa nạm với đá,
vụt qua như cuộc đời, chịu đựng vô số kể như đá,
các bạn bắt đầu lần nữa,
phạm tội lần nữa,
mặc bộ áo da thịt và xương cốt tạo nên giông bão.
* Chú thích
Cứ tưởng tượng, một cặp tình nhân, yêu nhau khi còn trẻ, họ cần một ngôi nhà cho đời sống hạnh phúc. Rồi từ từ họ tích lũy được nhiều thứ, tiền tài danh vọng. Nhưng phút chốc, tất cả bị cuốn bởi cơn lũ (của thời gian?) May mắn sống sót, họ phải sống cuộc đời như những người cổ xưa, không còn gì sau cơn giông bão. Họ đánh giá nhanh nhạy về những gì quan trọng, và không thể tiên đóan bất cứ gì mà con người hay sức mạnh có thể đè bẹp họ. Họ phải chịu đựng quá nhiều trong kiếp sống phù du. Và bây giờ họ, bắt đầu một kiếp đời khác, lại phạm tội tổ tông của những kẻ yêu nhau, mặc bộ áo da thịt, khát khao xương cốt để trở thành người – xương cốt tự bên trong có khả năng tạo thành giông bão.
* Frederick Turner (sinh năm 1943 tại Northamptonshire, nước Anh) nhà thơ người Mỹ gốc Anh liên kết với phong trào văn học được gọi là Chủ nghĩa Tân hình thức. Ông là tác giả của hai bài thơ sử thi khoa học viễn tưởng, có độ dài đầy đủ, Thế giới Mới và Sáng thế ký; một số cuốn sách dịch thơ và văn học của ông; và một số tác phẩm khác. Ông được gọi là “một nhà thơ lớn của thời đại chúng ta”.
ADVICE TO A POET
Then should you tell them what they want to hear?
They want it so badly, they yearn for it,
It would so ease the pain there is in living;
And they have begged you through their intermediaries,
Not rudely, but with a sad, moving tact;
For once be gentle with them, say the words,
Put it on record, give the great permission.
And who are you to be the judge of things?
What vote made you the guardian of their souls?
– A lesser poet in a century
That has got tired of poets, and with reason:
There were so many, and then after all
Turned out no better than the rest of us –
And you bring no solution to the problem,
No innovation in the craft or theme,
Are an apostle of the ancient forms
And only sing the old discarded dream.
For after all if there is no solution,
No fresh alternative to work and love
And clear intelligence and careful knowing,
No better source of wisdom but ourselves,
No secret way to hand on our decisions
To some director, natural or divine,
Perhaps collective – gender, race, or class –
Then life would be unbearable, we’d see
Reflected in the mirror just a face,
The common vector of some six desires.
And moral perfectness feels so like death!
And you who tell them this have no pretension
Of scoring better on that test than they:
You are as sensual, slothful, as dishonest,
As vain of your good judgment as are they:
And even this is one more form of boasting,
Which does not make it any the less true.
But they would so reward you if you said it,
And after all what harm now would it do?
Say it then, make the required confession:
You will feel so much better when you’re through.
LỜI KHUYÊN MỘT NHÀ THƠ
Sau đó bạn nên nói với bạn đọc những gì họ muốn nghe?
Họ muốn lắm, họ nóng lòng muốn biết,
Bài thơ làm quên đi nỗi đau trong cuộc sống;
Và họ cầu xin bạn qua trung gian đó của họ,
Không thô bạo, nhưng với cách xử trí gây xúc cảm, buồn bã;
Hãy hòa nhã với họ một lần, nói vài lời,
Ghi nhận điều đó, cho phép họ thỉnh cầu điều đó.
Và bạn là ai mà trở thành người phán xét mọi sự việc?
Cuộc biểu quyết nào làm bạn là người canh giữ linh hồn họ?
– Một nhà thơ tồi của thế kỷ
Một thế kỷ chán ngấy những nhà thơ, và với lý do:
Có quá nhiều những nhà thơ, rồi sau cùng tất cả
Tỏ ra không có gì hơn trong số chúng ta –
Và không mang giải pháp nào cho vấn đề,
Không có khám phá mới nào về kỹ năng hay chủ đề,
Là nhà truyền giáo của những thể thơ cũ
Và chỉ lập lại giấc mơ cũ kỹ đã bị phế thải.
Vì cuối cùng nếu không có giải pháp,
Không có chọn lựa khác để có hiệu quả và để yêu
Và trí tuệ thông suốt và cái biết cẩn trọng,
Không có nguồn khôn ngoan nào ngoài chính chúng ta,
Không có đường lối bí mật nào truyền tải những quyết định Tới người đạo diễn, tự nhiên hay thánh thiện,
Hoặc tập đoàn – giới tính, chủng loại, hay giai cấp –
Rốt cuộc rồi cuộc đời trở nên không thể chịu nổi,
Phản ảnh trong gương chỉ là khuôn mặt,
Với góc độ tầm thường của những giác quan ham muốn.
Và sự hoàn chỉnh phẩm hạnh tạo cảm giác nhiều như cái chết!
Và bạn nói với họ điều này không kỳ vọng
Qua trắc nghiệm về số điểm tốt hơn những gì họ đạt được.
Bạn ham nhục dục, vô công rỗi nghề, không thật thà và
Hão huyền trong phán đoán đúng đắn của bạn như họ vậy:
Và ngay cả cho đó là sự cường điệu,
Thì cũng không phải không đúng sự thực.
Nhưng họ ngợi khen bạn như vậy nếu bạn nói lên,
Và sau cùng sự tổn hại nào bây giờ nó gây ra?
Nói đi rồi hãy thú tội:
Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi bạn vượt qua.
COLUMBIA RUNS A TEMPERATURE
Those monster-states that held the world in fear,
Sloughing the dead nations they had sucked dry,
Have found a place to lay their eggs in: here.
And now I am so weak that I could cry.
I am defeated. All my strength was spent
Wrestling in darkness with their nine-faced lie;
And when their wall and blood-drenched battlement
Had fallen, then I thought my work was done,
And I once more could seek enlightenment;
And take the old path of the evening sun
Along the forest-edge, the meadow-mazes,
To where I knew the river had to run.
But now I see the sickness in their faces,
The cold envy of any sexual gift,
The shamed self-righteous screaming of the races;
My body’s torn with each new-fangled rift,
Chiefly within the head, that is its school,
Where the disease is feverish and swift.
This land’s the body, and I am the soul.
I am sent here to fill the hills with nerves,
To take the pulse of every molecule.
My people are those quick electric nerves:
They are my ganglia and sensorium.
It is the flesh that cries, the god that serves.
Yeats feared that innocence was drowned, and some
Thought him an old fussbudget to complain:
The rough beast, as he said it would, did come.
The best lack all conviction, now as then.
My poets cower and will not tell the truth.
Within my guts the beast has grown again.
I will remember the fresh strength of my youth,
When I struck through the snows of Germany,
And dared the monster’s claw, the monster’s tooth,
And laid the chambers bare for all to see,
And in the cold air of the soldier’s myth,
Made history a work of poetry.
COLUMBIA LÊN CƠN SỐT
Những nhà nước phát xít đã kiềm hãm thế giới trong sợ hãi,
Vứt bỏ những đất nước tê liệt sau khi đã bòn rút cạn kiệt,
Chúng tìm được một nơi để gieo mầm: ở đây.
Và bây giờ tôi quá yếu khiến khóc được.
Tôi bị đánh bại. Mọi sức lực của tôi đã hao tổn
Do phải vật lộn trong bóng tối với khả năng dối trá lớn lao;
Và khi bức tường thành và những chiến trường đẫm máu
Sụp đổ, thì lúc đó tôi nghĩ việc của tôi đã xong,
Và thêm lần nữa tôi có thể tìm thấy ánh sáng khai minh;
Và tôi đi trên con đường xưa dưới nắng chiều
Dọc theo bìa rừng, dọc theo mảng cỏ,
Tới nơi tôi biết có dòng sông chảy.
Nhưng giờ đây tôi nhìn ra sự đau yếu trên khuôn mặt của chúng,
Bản năng sinh tồn giữa áp chế và lẽ tự nhiên,
Sự kêu gào tự thị đáng xấu hổ của những chủng lọai;
Thân xác tôi bị xé ra với từng phân hóa mới phát sinh,
Chủ yếu bên trong đầu, đó là môi trường,
Nơi bệnh tật lây lan và cấp tính.
Miền đất này là thân xác và tôi là linh hồn.
Tôi được gửi tới đây để làm đầy thân thể với cảm xúc,
Để bắt nhịp đập của mỗi phân tử.
Dân tộc tôi những sợi thần kinh nhạy bén đó:
Họ là trung khu thần kinh và là cảm quan của tôi.
Chính xác thịt đang kêu đòi, là thần linh phụng sự.
Nhà thơ Yeats sợ rằng sự vô tội đã tiêu trầm và vài người
Nghĩ ông là ông già hay càm ràm khi kêu than:
Thú dữ hung tàn, như ông nói, đã tới.
Những người tốt mất đi mọi niềm xác tín, bao giờ cũng vậy.
Những nhà thơ của tôi co rúm lại và sẽ không nói sự thật.
Bên trong tôi con thú dữ lại một lần lớn dậy.
Tôi sẽ nhớ lại sức mạnh tươi rói của thời trai trẻ,
Khi tôi chiến đấu khó khăn trong tuyết ở Đức,
Và dám đương đầu móng vuốt và răng nanh của lòai quái vật,
Và lột trần sự thật về những nhà nước tồi tệ cho mọi người thấy,
Và trong không khí lạnh của huyền thọai ngừơi chiến binh,
Biến lịch sử thành một tác phẩm thơ.
(Tặng các bạn thanh niên Việt Nam trước hiểm họa xâm lăng,
20 tháng 6 – 2011)189
* Chú thích
“Columbia” là District of Columbia, một thành phố ở Mỹ, tiểu bang Washington, thường được viết là Washington DC, để ám chỉ, thành phố không ở trong tiểu bang mà ở trong nước Mỹ, và có thể ở trong một cái gì đó, một khu vực mà chúng ta đặt tên là Columbia, liên hệ tới Chistopher Columbus, người khám phá ra châu Mỹ. “Columbia” cũng là một cái tên ái quốc xưa kia để chỉ nước Mỹ, tương tự như chúng ta nói “America” hay “Uncle Sam” (Chú Sam) ngày nay.
MIGHT AS WELL FACE UP TO IT
Today my words died in the air.
One cold negater in an audience
Cuts off the flow of meaning there
And turns to platitudes what once was sense.
Now all my own ignorings come to taunt me;
My students yawn, my own dead teachers haunt me.
TỐT HƠN HẾT LÀ TRỰC DIỆN ĐƯƠNG ĐẦU
Hôm nay lời lẽ tôi chết sững trong không trung.
Khước bác lạnh lùng của cử tọa
Chặt đứt dòng ý nghĩa tuôn trào
Và biến điều từng hữu lí thành vô vị.
Giờ đây mọi điều tôi dốt nát tới mắng nhiếc tôi;
Sinh viên ngáp dài, những thày dạy xưa đã khuất nay ám ảnh tôi.
THE GHOST (CONFUTATIS MALEDICTIS)
All day I have been ridden by a ghost:
I think, the spirit of Michel Foucault.
He’s in such agony, hating and lost; –
Like the oiled seabirds in the the undertow
That pulls along the Saudi littoral,
Where now another acolyte of Power
Oozes the sumps of the political
Into the blue petals of the worldflower;
I see his knees and elbows skinned and raw,
He hugs them to himself, his bulging eyes
Stare to and fro, a frightened minotaur,
His buttocks like a running cicatrice;
The huge sarcoma-blotches on his skin
Display the final phase of that disease
Which is the body’s death of discipline,
Decision not to punish, but appease;
Its great refusal to define the Other
As other than itself, its hate for fixity –
And all I feel is pain for this my brother,
A ghastly leaden grief, a sickened pity.
And what is terrible about this shade
Is that he’s from the future, not the past.
For now it comes to me, the hell he made
Is one of many shadows that are cast
Like branches into all the time to come,
And has its own reality, and sends
This phantom into my delirium
To kill all voices that frustrate its ends;
And thus in this poor ghost a whole world screams
That it may have some space to gnaw its being;
And seeks to colonize my thoughts and dreams,
And set its spies within my very seeing.
But who is there to exorcise this thing,
This knot of nausea behind my shoulder,
Who will release my voice that aches to sing
Of beauty that survives its own beholder?
And here the poem broke; but now today
Another ghost, dearest of my dead friends,
My sweet and foul-mouthed Mozart, came to stay,
And get a birthday-present at my hands;
And any future blessed and led by him
Cannot be absolutely dark and cold;
He wrote the music which the cherubim
Shall play, newborn, on their kazoos of gold.
And even if there is another present,
Realer and richer, like a shell of blue,
Where Mozart did not die, but convalescent
Wrote his Geist-Insel, lived to eighty-two,
And everybody laughed at Robespierre,
And Holocausts and Gulags were unknown,
But Vernean cosmonauts, upon a dare,
In 1920 landed on the Moon –
Yet even so, our branch of time is fed,
My darling Amadeus, with your blood;
And still puts out, despite the evil dead,
The white and dazzling flowers of the good.
NHỮNG HỒN MA (PHẢN BIỆN VU KHỐNG)
Cả ngày bị ma đè tôi nghĩ, đó là linh
Hồn Michel Foucault, ông đang đau khổ, căm
ghét và mất mát, – giống như những con chim bị
Vấy dầu trong con sóng ngầm kéo dọc theo bờ
Biển Saudi, nơi bây giờ quyền lực của một
Thầy tu khác làm chảy nhớt chính trị vào những
Cánh xanh của đóa hoa thế giới, tôi thấy da
trên đầu gối và khủy tay của ông; trầy sướt,
Ông ôm lấy chúng, trố mắt, nhìn qua lại như
Một con quái vật sợ hãi, mông của ông giống
Như vết thẹo đang vận hành; chỗ sưng tấy trên
Da phô bày giai đọan cuối của căn bệnh sức
Mạnh cơ thể suy nhược, quyết định không trừng phạt,
Chỉ làm nguôi ngoai, sự khước từ lớn lao để
Định rõ Kẻ Khác khác hơn chính nó, sự đáng
Ghét về tính cố định – và tất cả tôi cảm
Thấy đau khổ cho người anh em này, một nỗi
Ưu sầu nặng nề quá đỗi tồi tệ, lòng thương
Xót bệnh họan. Và điều gì kinh khủng về bóng
Tối của sự chết là ông ta từ tương lai,
Chứ không phải quá khứ. Vì bây giờ nó đến
Với tôi, cái địa ngục ông tạo ra một trong
Nhiều vùng tối được ném qua như những cành nhánh
Trong mọi thời đại tới, và địa ngục có thực
tại của chính nó, gửi hồn ma này trong cơn
Mê sảng của tôi để giết mọi tiếng nói ngăn
Cản mục đích của nó; vì vậy trong bóng ma
Đáng thương tòan thế giới gào thét có lẽ một
Vài khỏang hhông để gặm nhấm sự hiện hữu; và
Cố gắng nô lệ những ý tưởng và giấc mơ
Của tôi, điều chỉnh sự theo dõi bên trong cái
Thấy. Nhưng ai ở đó để đuổi hồn ma, cái
Nút thắt của sự ghê tởm đằng sau vai tôi,
Kẻ sẽ thả lỏng tiếng nói của tôi, tiếng nói
đau đớn để hát về cái đẹp thóat khỏi kẻ
quan sát tự chính mình? Và đến đây bài thơ
Hỏng; nhưng bây giờ hôm nay một bóng ma khác,
Thân quí nhất về những người bạn đã chết, Mozart
Đáng yêu và nói năng dở tệ của tôi, đến
Ở lại, và nhận món quà sinh nhật từ tay
Tôi; bất cứ tương lai nào được ban phước và
dẫn dắt bởi ông tuyệt đối không thể tối và
lạnh; ông đã viết lọai âm nhạc mà những thiên
Sứ có thể chơi, tái tạo, qua kèn vàng của
Họ. Ngay cả nếu có món quà khác, thực và
Giàu hơn, như một cái vỏ sò màu xanh, nơi
Mozart không chết, chỉ dưỡng sức đã viết nhân
Vật Geist-Insel của ông, sống tới tám mươi
Hai, và mỗi người cười Robespierre, và
Holocausts và Gulags không rõ, nhưng phi
Hành gia Jules Verne, thách thức, vào năm
1920 đã đáp lên mặt trăng – nhưng
Mà ngay cả như vậy, nhánh thời gian của chúng
Ta là nhân viên công lực, Amadeus thân
Yêu của tôi, với máu của ông; và vẫn sản
Sinh, mặc dầu cái chết độc ác, những đóa hoa
Trắng ngọan mục của sự thiện lành.
THE KITE
As if a little girl had come to you
Asking for help to fly her birthday kite,
And you stretched out the silk, set the struts true,
So the device was feathery, strung, and tight;
And on a hillside blown with the spring light,
It lifted from her hands into the blue,
And tugged so fiercely that you gave it flight
And up it went, wind-drawn (as if you knew
The whole skill of the kitemasters that flew
Those painted Chinese kites designed to fight
Before an emperor and his retinue);
Such is the book that I would want to write,
Whose power could haul a mile of line into
The dark purple, and strangely out of sight.
CÁNH DIỀU
Như thể một bé gái đến cầu xin
Bạn giúp thả cánh diều ngày sinh nhật,
Và bạn căng lụa, làm khung chuẩn, để
Cơ phận nhẹ tênh, nối dây, vừa vặn;
Ánh sáng mùa xuân thổi trên sườn đồi,
Và từ bàn tay cô bé cánh diều
Hướng lên trời xanh, và bạn giật mạnh
Cánh diều no gió bay mãi, bay mãi
(Như thể bạn biết, tài nghệ toàn bộ
Của những bậc thầy trung hoa là thả
Những cánh diều được trang trí, thiết kế,
Tranh đua trước hoàng đế và triều thần.)
Đó là cuốn sách tôi muốn viết về
Quyền lực của ai có thể kéo một
Sợi dây xa tắp vào vùng tím than,
Và một cách kỳ lạ, ngoài tầm nhìn.
WINTER EVENING IN TEXAS
On a field of velvet night
Float a sheet of violet glass;
Light that glass with rosy light
From beneath, like bronze or brass;
Carelessly then let a drop
From the white-hot pot of Being
Splash upon this tabletop
Brighter than the power of seeing;
Let it form a crescent moon
With a spilt point, for a star;
Then set crimson flames to swoon
Where the darkened woodlands are
CHIỀU ĐÔNG TEXAS
Trong cõi mênh mông của đêm nhung
Bồng bềnh một chân trời tím;
Ánh sáng chiếu màu hồng đậm
Từ bên dưới, như đồng hay đồng thau;
Cẩn thận không thì một giọt
Từ cái bình rất nóng của Sự Sống
Văng lên khoang trời này
Chói sáng hơn năng lực của giác quan;
Hãy để nó hình thành con trăng lưỡi liềm
Với một điểm loang thành vì sao;
Rồi cho màu lửa sẫm lung linh
Trong những khu rừng cây tối.
(Còn tiếp)