THƠ CA HOA KỲ TƯỞNG NIỆM 9.11

Nguyễn Đức Tùng

Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?

Tôi đến trình diện nhiệm sở mới ở Richmond. Cầm tấm thẻ căn cước vừa nhận chưa kịp gắn vào túi áo ngực, tôi đi qua một hành lang dài kê la liệt những chiếc băng-ca chuyển tới sau tai nạn xe hơi. Trên màn truyền hình ở cuối hành lang, tôi kịp nhìn thấy một tòa nhà cao tầng bốc cháy, đổ sập xuống, khói đen bốc mù mịt, đường phố nhiều người chạy ngược chiều, hốt hoảng.

Lại một bộ phim trinh thám của Hollywood, tôi thầm nghĩ, quay đi. Nhưng có một điều gì rất lạ, tồi tệ, tôi chưa bao giờ gặp thoáng qua trên mặt người xem. Tôi bước lại gần màn hình. Không khí chung quanh lặng lẽ, ngay cả những người bị thương sau tai nạn cũng ngừng rên la. Hồi đó tôi mới tham gia vào hai nhóm sinh hoạt trên email, một của bạn học cũ cùng trường người Canada, một của bạn bè văn nghệ người Việt mới quen ở hải ngoại. Những ngày, những tuần lễ tiếp theo, chúng tôi không ngớt sống trong bầu không khí gây ra bởi hình ảnh chuyến bay bị không tặc, hình ảnh tòa tháp đôi Nữu Ước bị đánh sập, những người lính cứu hỏa, những thây người cháy đen, những cột khói, gạch đá ngổn ngang. Trong thời kỳ ấy bên cạnh điện thoại, thư từ, trong những gặp gỡ riêng tư, xúc động, cãi vã, chúng tôi thỉnh thoảng đọc thơ. Có những bài thơ đã giúp chúng ta sống qua giây phút ấy, hoặc giúp gợi nhớ về một thời kỳ đau thương và khó khăn của người dân Hoa Kỳ, và của thế giới, và về những cuộc chiến tranh tiếp theo ngay sau đó, trên những đất nước khác.

Thơ Mỹ cùng thời cũng nở rộ.

Những bài thơ sau đây rút trong tuyển tập “Poetry After 9/11”, biên tập bởi các nhà thơ Dennis Loy Johnson và Valerie Merians, NXB Melville House, New York, năm 2002, gồm thơ của các thi sĩ ở New York, viết về sự kiện làm thay đổi thế giới này. The World Trade Center, David Lehman; The Window at The Moment of Flame, Alicia Ostriker; In The Burning Air, Jean Valentine; Missing Supper, Tim Suermondt.

(còn tiếp)

 

Nguyễn Đức Tùng

 

TOÀ THÁP ĐÔI

David Lehman

 

Tôi chưa bao giờ thích Trung tâm thương mãi

Nó càng vươn cao tôi càng chê bai cười cợt

Cũng như nhiều người Nữu Ước

Tòa tháp đôi quả là thứ kiến trúc cồng kềnh

Thiếu mỹ thuật, thiếu phong cách thanh tao

Của Empire cao ngất, cũng không bằng

Tòa nhà Chrysler, được mọi người yêu mến,

Với đỉnh nhọn mỹ miều, duyên dáng

Trung tâm thương mãi đúng là sai lầm

Điển hình cho kiến trúc kiểu Mỹ

Nó đứng chễm chệ như thế hai mươi lăm năm trời

Cho đến một ngày, vào buổi chiều thứ Sáu, tháng Hai

Bom nổ, tòa tháp đôi kia, đổ nát

Trở thành biểu tượng của chúng ta, của đất nước, như bức

Tượng Nữ thần Tự do. Tất cả thái độ của tôi 

Bắt đầu thay đổi. Tôi yêu cách nó hiện ra

Trong tầm mắt, khi bạn lái xe qua đường số Sáu

Từ bất cứ ngã rẽ nào, cái cách đỉnh cao

Của tháp đôi biến mất, trong bầu trời trắng xóa

Về phương Đông, khi bạn bắt đầu qua sông Hudson

Chạy vào thành phố, băng ngang cầu George Washington

 

(1996)

 

CỬA SỔ, KHI LỬA BÙNG LÊN

Alicia Ostriker

 

Tất cả xảy ra khi tôi đang ở giữa những món đồ chơi

Một xa lộ một căn nhà xếp hộp một xe hơi

 

Và tất cả những điều này xảy ra ở nơi thật xa mảnh đất

Hàng ngàn và hàng ngàn, hàng triệu và hàng triệu

 

Bạn biết không – bạn thấy bức hình kiểu này

Người đàn bà bồng đứa trẻ gầy trơ xương

 

Những người đàn ông khóc thương bên mộ chí

Những tòa nhà bị lửa thổi bùng lên

 

Đất bỏ hoang thêm, ngày đêm thối rữa

Và tất cả điều này xảy ra khi tôi vừa mua sắm, tôi

 

Hãy nói thế đi, đang tự do thảnh thơi

Có phải vì thế mà chúng ghét bỏ

 

Có phải vì thế chúng ghét bỏ tôi

 

 

TRONG BẦU KHÔNG KHÍ CHÁY BỎNG

Jean Valentine

 

Trong bầu không khí cháy bỏng

Chẳng còn gì

 

Nhưng trên mặt đất

Hãy để nỗi buồn lan rộng

 

Một người đàn bà và chiếc muỗng

Một chiếc muỗng gỗ

Và lồng ngực của bà, một cái bát rỗng không

Tan vỡ

 

BỮA ĂN KHÔNG BAO GIỜ ĐẾN

Tim Suermondt

 

Đừng than khóc quá lâu

Cho người không trở lại

Với chúng ta trong bữa ăn chiều

Hãy an tâm, nơi nào họ tới

 

Họ đều nấu ăn

Giản dị, tràn đầy dinh dưỡng, đi tới

Đi lui, mang tạp dề rộng rãi

In toàn chữ cái

 

NỒI NƯỚC CÓ SÔI, TÌNH BẠN MỚI DỒI DÀO

 

Họ để dành chỗ ngồi cho ta

Bên bàn ăn của họ, háo hức chờ tới lúc

Dẫn chúng ta vào thăm bếp núc

 

Kể cho ta nghe huyền thoại, trả lời

Trôi chảy từ đôi môi ngọt ngào như rượu đỏ

Thổi tắt nến hồng, bật lửa trên lò bếp

Ôi những ngọn nến hồng những bếp lò xinh đẹp, và chúng ta xinh đẹp biết dường nào.

 

Comments are closed.