Tiếng Việt muôn năm!

 Nguyễn Hải Hoành

 

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói / Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ. / Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa / Óng tre ngà và mềm mại như tơ…” (Thơ “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ).

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi, tiếng ru muôn đời …Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, ơi… (Bài hát “Tình ca” của Phạm Duy).

Chẳng rõ ngoài tiếng Việt ra, trên thế gian này còn có thứ tiếng dân tộc nào được cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ ca ngợi bằng những lời lẽ nghĩa lý sâu xa, tình cảm thắm thiết đến thế? Ắt hẳn tiếng Việt phải có khả năng tạo nên một sức hút kỳ diệu khiến trái tim các nhà nghệ sĩ rung lên phát ra thành lời thơ mượt mà, điệu nhạc du dương như trên. Là những người có giác quan nhạy cảm hơn ai hết trước mọi cái đẹp, cái vượt trội, các nghệ sĩ bẩm sinh có khả năng trời cho nhận ra những cái người thường khó nhận thấy. Mấy câu ca lời thơ trích dẫn ở trên chứng tỏ điều đó.

Hệt như một nhà ngôn ngữ học bậc thầy, Lưu Quang Vũ mở đầu bài thơ ca ngợi tiếng Việt bằng nhận xét chính xác “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Ở đây nhà thơ muốn nhắc lại một sự thật lịch sử quan trọng mà các sử gia ta ít để ý tới: Cho đến cách nay hơn 2000 năm, trước ngày chữ Hán theo chân đội quân của Triệu Đà chính thức vào Việt Nam, dân tộc ta chưa hề biết chữ viết là gì; trong khi người Hán[1] đã sử dụng chữ viết được hơn nghìn năm. Thế nhưng hồi ấy tổ tiên ta đã làm chủ một ngôn ngữ nói hoàn thiện, chín muồi tới mức “vẹn tròn”, có các ưu thế trời cho như ngữ âm cực kỳ phong phú, phát âm thống nhất trong cả nước, được toàn dân yêu quý nâng niu gìn giữ như một vật báu –– đó là tiếng Việt. Do cực giàu về ngữ âm nên tiếng Việt khác hẳn tiếng nói của các chủng tộc láng giềng phương Bắc và thủa ban đầu không có quan hệ gì với các ngôn ngữ của người Bách Việt[2]. Cho dù về sau nước ta từng bị người Hán tiến hành đồng hóa về ngôn ngữ suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc, nhưng tiếng Việt nhờ có những ưu thế kể trên vẫn không hề suy suyển, ngược lại còn phong phú thêm do hấp thu được nguồn từ ngữ trong kho tàng mênh mông của Hán ngữ.

Học giả Phạm Quỳnh nhận xét: “Tổ tiên ta có công trạng lớn là làm cho toàn dân suốt từ Bắc đến Nam đều cùng một tiếng nói, một phong tục; vì thế “cái tính tình, tư tưởng cũng không khác gì nhau… Dân Việt Nam ta thật được hơn các dân khác là chỉ có một thứ tiếng suốt trong bờ cõi… người Việt đi đến đâu cũng có thể nghe hiểu[3]. Lẽ tự nhiên, toàn dân nói cùng một ngôn ngữ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự thống nhất quốc dân, thống nhất đất nước. Chưa có chữ viết mà ngôn ngữ nói của người Việt đã hoàn thiện như thế, thật là một thành tựu đáng tự hào.

Tiếng Việt trở thành “Quốc hồn” của nước ta; suy ra hồn còn thì nước còn, tức “Tiếng ta còn (thì) nước ta còn[4]. Người Malay cũng nói “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc[5]. Để so sánh, xin nhắc lại một sự thật lịch sử: cho tới nay có những nước vẫn chưa thực hiện toàn dân nói cùng một thứ tiếng, mặc dầu họ đã có chữ viết từ hàng nghìn năm trước[6].

Có ý kiến cho rằng sở dĩ toàn dân ta nói một ngôn ngữ cơ bản thống nhất là do tiếng ta đơn giản dễ học dễ dùng và ngữ âm cực kỳ phong phú. Xin bàn qua về vấn đề này.

Tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ đơn lập (đơn âm tiết, monosyllabic), đơn giản hơn ngôn ngữ đa lập (đa âm tiết, multisyllabic, như tiếng Nga, Anh). Khi đặt câu tiếng Việt chỉ cần chắp chữ (tiếng) theo thứ tự trước sau. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Trạng ngữ thường đứng ở đầu câu. Động từ sau chủ ngữ. Tính từ hoặc cụm tính từ sau danh từ. Ngữ pháp tiếng Việt đơn giản, không có khái niệm “thì, số, giống, cách” cho nên tất cả các từ đều không biến đổi; thường dùng hư từ (ví dụ: đã, sẽ, rồi, cứ…) để lập mối quan hệ giữa các từ.

Đặc biệt, ngữ âm tiếng Việt rất phong phú: lượng âm tiết nhiều gấp chừng 10 lần tiếng Hán và 40 lần tiếng Nhật, tạo thuận tiện tăng vốn từ ngữ, nhất là ở ngôn ngữ bình dân, mọi người có thể tự đặt ra từ mới. Một số [7]từ có thể đảo ngược thứ tự mà không đổi ý nghĩa, ví dụ tha thiết – thiết tha, đày đọa – đọa đày. Một số từ có thể láy lại hoặc thêm đuôi để tăng hiệu quả lời nói, ví dụ ào ào, rầm rầm, láo nháo, nhảm nhí. Nguồn từ tả âm thanh hầu như không bị hạn chế, như tả tiếng gió có thể dùng ù ù, rì rào, vi vu. Ngữ âm phong phú làm cho tiếng Việt có tính quốc tế rất cao, có thể phiên âm được hầu hết các ngôn ngữ khác, tạo thuận lợi cho người Việt dễ tiếp xúc với ngôn ngữ, văn học và văn hoá nước ngoài, qua đó hấp thu được kho tàng từ vựng đầy ắp của tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếp thu được cấu trúc ngữ pháp trong sáng của tiếng Pháp… làm cho tiếng Việt luôn được cải tiến, phát triển, đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội thời hiện đại.

Tiếng Việt “vẹn tròn” ở chỗ có thể diễn đạt chính xác, rõ ràng, gãy gọn mọi ý nghĩ, tư duy của người Việt. Khi đọc các tác phẩm văn học chữ Nôm ra đời từ mấy trăm năm trước, ta thấy hầu như không tác phẩm nào có sai sót đáng kể về dùng từ và ngữ pháp, chứng tỏ tiếng Việt trước khi có chữ Nôm đã rất hoàn thiện. Lời nói hàng ngày của người dân quê mù chữ cũng vậy, ví dụ ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình, để quên chiếc áo trên cành hoa sen…”. Từ ngàn xưa, toàn bộ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ngạn ngữ tiếng Việt đều vừa dễ hiểu lại vừa đúng chuẩn ngữ pháp và từ vựng.

Tiếng Việt lại “óng mượt như tơ”, mềm mại như lụa, giàu âm điệu, giàu từ ngữ, dễ đặt câu, tạo điều kiện rất thuận tiện để sáng tác thơ ca, ca dao, tục ngữ, hát nói, tuồng chèo, dân ca… Các thể loại văn học này đều có vần điệu, rất dễ nhớ, dễ truyền miệng, nhờ thế tổ tiên ta khi chưa có chữ Nôm đã tạo lập được một kho tàng từ ngữ vô cùng phong phú.

Sau khi chữ Nôm ra đời, các tài năng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v. đã vận dụng vốn từ ngữ đó viết các tác phẩm văn thơ chữ Nôm nói lên được tư tưởng, tình cảm của đông đảo nhân dân, làm nên một thời kỳ văn học rực rỡ trong lịch sử nước nhà. Áng thơ Nôm “Truyện Kiều” là bộ sưu tập tuyệt vời về nghệ thuật sử dụng từ ngữ tiếng Việt bác học và dân gian, nhiều từ ngữ đạt trình độ tinh tế cao về ý nghĩa và âm điệu. Như câu: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”, “Chơi cho liễu chán hoa chê, cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời”. Rõ ràng, văn học chữ Nôm tức văn học tiếng Việt thời xưa tuy tồn tại không lâu nhưng đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt, xét về mọi mặt đều vượt xa văn học chữ Hán do người Việt sáng tác trong hai nghìn năm.

Chính vì chậm có chữ viết nên người Việt rất chuộng văn chương truyền khẩu, dùng ngôn ngữ bình dân truyền miệng khắp cả nước vô vàn ca dao, tục ngữ ý vị, chung đúc bao nhiêu luân lý đạo đức, học thức, nhân sinh quan của dân tộc. Nghệ thuật truyền miệng ấy đạt trình độ rất cao, nhờ thế kho tàng từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và nhiều tác phẩm văn học dân gian vẫn được lưu giữ lâu dài trong dân chúng, cho dù thời ấy nước ta chưa có chữ viết hoặc có rồi nhưng hầu hết dân mù chữ, cho dù quân đội nhà Minh trong mấy chục năm chiếm đóng nước ta đã tiêu hủy gần như toàn bộ thư tịch, văn bản do người Việt Nam viết.

Học giả Phạm Quỳnh nhận xét: “Tôi dám quyết rằng văn chương truyền khẩu là thứ rất phong phú, không nước nào có một cái văn chương truyền khẩu giàu như nước ta. Người nào hay chê tiếng Việt là nghèo hãy về nơi dân thôn hay ra chốn chợ búa, nghe bọn phụ nữ nói năng. Tôi tưởng các bậc tu mi [đàn ông] phải ghê cái tài hùng biện của các bạn quần trồi [đàn bà]… [điều đó] đủ chứng minh rằng tiếng Việt ta giàu biết bao nhiêu. Hãy thử nghe hai người đàn bà nhà quê nói chuyện hay cãi nhau, từ đầu chí cuối toàn là phương ngôn tục ngữ cả, cứ từng hồi, từng tràng, như một bài diễn thuyết trường thiên. Tiếng ta có nhiều tiếng rắp đôi hay lắm, hay vô cùng, tưởng không có tiếng nước nào bằng”.[8]

Tiếng Việt gắn kết kỳ diệu với vận mệnh dân tộc ta, như lời ca “Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi.” Sự thực lịch sử này càng làm tăng giá trị của tiếng Việt, chứng tỏ tiếng Việt đích thực là hồn cốt của dân tộc. Suốt mấy nghìn năm thời xưa, tầng lớp thống trị và nhà Nho cổ hủ ở ta luôn khinh rẻ hắt hủi tiếng Việt bình dân mà họ chê là nôm na mách qué, khiến cho ngôn ngữ và văn học dân gian bị kìm hãm khó phát triển. Sai lầm đó bắt nguồn từ tâm lý mù quáng sùng bái văn hóa Hán và chữ Hán. Ví dụ sĩ tử đi thi phải thuộc lòng Tứ thư Ngũ kinh, trong đó có 300 bài thơ Kinh Thi – đều là tác phẩm văn, sử học của người Hán, mà chẳng học văn học và lịch sử dân tộc mình. Kinh Thi là cái quái gì mà phải học nhỉ?

Kinh Thi chẳng qua là những lời ca dao trong dân gian Trung Quốc, được thánh nhân [cụ thể là Khổng Tử] biên tập, san định, truyền cho đời sau, tôn sùng làm một bộ kinh sách thánh thần có nghĩa huyền bí. Tôi thiết tưởng nhiều bài ca dao của ta lại còn hay hơn những bài trong Kinh Thi nhiều, chỉ vì không có lòng mê tín sùng thượng nên thường bị coi là nôm na”.[9] Phạm Quỳnh nói rất đúng. Kinh Thi lấy đâu ra những câu ca dao tuyệt vời cả về văn và về ý, toàn bộ dùng từ thuần Việt như “Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Thời Pháp thuộc, mới đầu thực dân Pháp chủ trương buộc dân ta học tiếng Pháp từ bậc tiểu học, nhằm tiến tới toàn dân chỉ nói tiếng Pháp, như chúng đã làm ở nhiều thuộc địa châu Phi. Thấy rõ chủ trương đồng hóa ngôn ngữ ấy sẽ giết chết tiếng Việt, giới trí thức tiến bộ nước ta đã lên tiếng phản đối. Năm 1922, học giả Phạm Quỳnh khi diễn thuyết trước Viện Hàn lâm Pháp ở Paris đã nói: Việc Chính phủ Pháp dự định dạy tiếng Pháp cho người An Nam (tức Việt Nam) từ nhỏ đến lớn, kết quả chỉ đủ làm cho dân nước chúng tôi mất tính cách An Nam, thành ra một giống lửng lơ thật nguy hiểm. Muốn tránh nguy hiểm ấy chỉ có một cách là dạy trẻ con An Nam học tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học.[10] Trước sự phản đối của dân ta và sau khi thấy chữ Quốc ngữ đủ khả năng thực hiện công cuộc khai hóa Việt Nam, Chính phủ Pháp đã bỏ chủ trương nói trên. Nhờ vậy dân tộc ta lần thứ hai tránh được thảm họa đồng hóa ngôn ngữ. Nhưng tiếng Việt vẫn chưa chiếm địa vị độc tôn, từ bậc trung học trở lên vẫn giảng dạy bằng tiếng Pháp, các chứng chỉ như giấy khai sinh, giấy chứng hôn, v.v. vẫn in ba thứ chữ: chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Nôm.

Sau ngày nước nhà độc lập, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất. Tất cả các bậc học đều giảng dạy bằng tiếng Việt. Điều 5 Hiến pháp 2013 xác định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”. Trong hơn 70 năm dưới chế độ dân chủ, tiếng Việt về cơ bản được gìn giữ vững chắc và được quan tâm, phát triển, hoàn toàn đáp ứng yêu cầu mới của thời đại: hiện đại hóa, tin học hóa, quốc tế hoá, toàn cầu hóa. Tuy vậy trên thực tế vẫn có tình trạng sử dụng tiếng Việt lệch chuẩn, nói và viết sai ngữ pháp, sai chính tả, dùng sai từ Hán-Việt, tùy tiện nhập từ ngữ nước ngoài… làm cho tiếng ta bị pha tạp, thiếu chính xác. Dường như tâm lý nô lệ và thói sùng ngoại từ chế độ cũ rớt lại (nhất là trong giới học giả) vẫn còn lẩn quất đâu đó, đe dọa địa vị độc tôn của tiếng Việt.

Tóm lại, dân tộc ta có một lịch sử ngôn ngữ vô cùng vẻ vang. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ (là ký hiệu đường nét ghi lại tiếng Việt một cách tốt nhất, lý tưởng nhất), đã góp phần quan trọng đưa nền văn minh Việt Nam lên tới tầm cao như hiện nay. Tiếng Việt cùng với chữ Quốc ngữ thực sự là một tài sản phi vật thể vô giá của toàn dân ta, mãi mãi đáng tự hào, đáng tôn vinh, và phải được bảo vệ, phát triển đúng hướng.


[1] Ở đây từ “Hán” được dùng với ý nghĩa một khái niệm chính trị, không phải chủng tộc.

[2] Tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), khác hẳn tiếng Hán và tiếng các tộc Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan) hoặc Tai-Kadai.

[3] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.

[4] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.

[5] Bahasa jiwa bangsa – Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc (https://www.arc.gov.au).

[6] Trung Quốc năm 2020 còn 20% dân không biết nói tiếng Phổ thông.

[7] Nguyễn Quang Hồng: “Âm tiết và loại hình ngôn ngữ”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1994. Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia sáng số 11 (8/6/2020).

[8] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.

[9] Phạm Quỳnh : “Luận giải văn học và triết học”. Nxb Văn học, Hà Nội, 2016.

[10] Phạm Quỳnh: “Tuyển tập du ký”, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012.

Comments are closed.