KHẾ IÊM VỚI CON ĐƯỜNG THƠ
Những ai từng đọc thơ Khế Iêm, từng dõi theo hành trình thơ của ông, hẳn sẽ “đồng thuận” với các nhà phê bình Trần Hoài Anh, Văn Giá, Đỗ Quyên, Nguyễn Vy Khanh.
Nếu như Trần Hoài Anh cho rằng Khế Iêm “khao khát cách mạng trong tư duy thơ” thì, Văn Giá gọi ông là “tín đồ tận tụy của tôn giáo thơ”.
Nếu như Đỗ Quyên đánh giá Khế Iêm là “một nhà lập thuyết thi ca Việt Nam đặc sắc giữa thế giới” thì với Nguyễn Vy Khanh, đọc Khế Iêm là “chứng giám cho cuộc dấn thân vào thi ca”.
Và, thật tự nhiên, khi Frederick Feirstein đặt hy vọng vào nhà thơ này: “Tôi trông chờ ở Khế Iêm, như một nhà thơ đầy tính sáng tạo độc đáo, sẽ có thể tìm ra một phương thức biểu đạt mới, và có lẽ sẽ mở rộng những gì mà ông và những người đi theo ông đang thể hiện”.
Khế Iêm đã kết thúc một chặng đường thơ dài dặc, đầy thách thức, đầy biến cố với Con đường thơ được in song ngữ, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Domino ấn hành vào mùa thu năm 2021 này.
Văn Việt xin giới thiệu cùng bạn đọc hai bài phê bình thơ Khế Iêm của Nguyễn Vy Khanh, Frederick Feirstein và một số bài thơ của ông trong ba phần Thanh xuân, Dấu quê và Thơ khác.
Xin chúc mừng nhà thơ Khế Iêm.
VĂN VIỆT
CON ĐƯỜNG THƠ
__________________
Nguyễn Vy Khanh
Con Đường Thơ là toàn tập thơ của Khế Iêm như chứng giám cho cuộc dấn thân vào thi-ca, của nhà thơ. Vẫn những con chữ tiếng Việt thân thương ấy, nhưng từ Thanh Xuân (1992) tới Dấu Quê (1996) rồi Thơ Khác (2011) đã là một hành-trình nội-tại không ngừng và mang nhiều ý nghĩa của trung-thành và cách-tân.
Nếu Thanh Xuân vang lên tiếng thơ có vần có điệu, nhà thơ đứng ở tuổi mình, thân mình, ngày còn ở quê nhà, thì Dấu Quê đã thênh thang đường thơ tự do rộng mở với nhiều thử nghiệm cấu trúc lẫn nội dung, gồm ba phân bộ Cấu trúc, Dấu quê và Ngục biếc. Hãy thưởng thức cái tự-do của Khoảnh Khắc:
“Đã thở
(Giọng tiếng bát vỡ)
Đã rợn người gọi
Trăng kiêu binh
Giữa ngóc ngách của biển đời mọc
Rực đồng xẫm
Mảnh gió môi, bình minh
(…)
Tảng lờ
Im. Thật im. Rực rỡ
Tóc bật chiều run cắn
Vết thương xa
Ôi giấc mơ, và mơ
Hoa điềm nhiên, từ độ
Tro ngàn
Đằng hắng
Cho đỡ nhớ rừng mật xanh”.
Cuối tập nhà thơ cho biết đây là những “nét vẽ nguệch ngoạc một nẻo đường, mang ý nghĩa chúng ta thúc đẩy phải ra đi bởi vì vẫn ám ảnh có một chỗ quay về”. Thật vậy, thơ Tự-do cách tân từng được Khế Iêm xem như một giả dụ, một “đi tìm cấu trúc mới” có thể thất bại, nhưng đã làm phận người sáng tạo là phải lên tiếng thử nghiệm.
Có thể giả dụ không đi đến đâu, ông chuyển qua Tân hình thức từ những năm 2000 và xuất bản Thơ Khác theo khuynh hướng Mỹ-quốc, kết hợp giữa hình thức có thể cũ nhưng mang trong lòng thơ tự do và nhịp điệu của thế giới hôm nay ở chỗ không nhất thiết phải vần.
Đất nước Việt-Nam thường trực nạn nhân-mãn phía nhà thơ. Phần Khế Iêm sáng tác đều đặn nhưng không thật sự nhiều, có thể vì ông đến với thi-ca với chân tình của một người làm thơ trước hết cho mình nhưng cuối hành trình đã mở ra với nhân-quần. Hành trình đó là một cuộc đi tìm thi-ca với con chữ qua những dạng thức và cung cách khả thi. Khế Iêm đã rời quê hương với nỗi lòng và đã trút tâm sự qua thơ, nhưng ông vẫn muốn quay trở về sau khi đã nhiều năm hội nhập đời và thơ nơi xứ người. Cuối cùng thì thơ ông mang nặng bản-ngã nhị-trùng khi đến với Tân hình-thức Việt. Vừa sáng tác theo cảm hứng và khuôn mới, xuất bản tuyển tập thơ của “giai đoạn khởi đầu” Thơ Khác (2011), ông còn cật lực với thể-loại Tân hình-thức và đã soạn tập lý thuyết và thực hành Vũ Điệu Không Vần: Tân hình-thức, Tứ Khúc và Những Tiểu Luận Khác (2003), Bước Ra: tiểu luận thơ Việt / Stepping out: essays on Vietnamese poetry (2012), Nghĩ Về Cách Làm Thơ (2016) và Vũ Điệu Không Vần Toàn Tập (2019).
Khế Iêm qua hai thập niên vẫn kiên trì sáng tác và đa dạng hóa thơ Tân hình-thức cũng như phổ biến, vận động khuynh hướng thơ này. Thơ ông dùng Tân hình-thức và sự vật, sự việc nào đó để bộc tỏ tâm tình, tư duy của con người hôm nay, như khuynh hướng “tiểu-thuyết mới” bên văn xuôi từ thập niên 1960.
Hai mươi năm đó đã là Ảnh Ảo:
"Người đàn ông hai mươi năm sau nói
với người đàn ông hai mươi năm trước
rằng, trên băng ghế này, dưới bầu trời
này, đã hai mươi năm, mà vở tuồng …".
Có thể nói Khế Iêm đến với Tân hình-thức như đã tìm ra lối thoát nào đó cho thi hứng của ông và vô tình đồng điệu với những tâm hồn bị bủa vây bởi thời đại vô hồn, kỹ thuật. Như bài Bậc Thang:
“Những bậc thang nối với nhiều tầng
lầu, những bậc thang dẫn tới nhiều
đường tầu, những bậc thang và những
bước chân; những bước chân trong tôi
có ngón giao chỉ, từ phố phường
đi ra biển đông; những bước chân
trong tôi rướm đời du mục, dù
rằng tôi chưa bao giờ sống đời
du mục; điều này ám chỉ rằng
tôi là mảnh vỡ tí ti của
quá khứ, bị cánh bướm đập, văng
ra thành kẻ lưu cư nơi miền
đất lạ; không khác nào những bậc
thang và những bước chân, tái hiện
rồi tái hiện, rơi trong hỗn mang;
bởi chẳng phải là những bậc thang
vẫn nối với nhiều tầng lầu, những
bậc thang vẫn dẫn tới nhiều đường
tầu, và những bước chân trong tôi
vẫn còn đang vang lên thanh âm
quyến rũ dị kỳ; thật ra, tôi
không muốn nói hơn một ly những
gì tôi nói — những bước chân và
những bậc thang đến đây là hết”
Toronto, 20-3-2021
THƠ KHẾ IÊM
1. Từ tập thơ Thanh xuân
MONG
Chống gậy trông đồi hoa
Hỏi thăm về quê nhà
Áng mây màu cước bạc
Cảnh trời muôn dặm xa.
GỬI LÃO TỬ
Thong dong về non xanh
Ngày hư hơi gió lành
Quán không lòng mong tưởng
Một chòm mây mai danh.
TỪ BIỆT
Có dòng sông
Ngủ mãi
Trong hầm mộ
Có biển rộng
Tắt
Nơi khe sâu
Con sư tử
Nằm vuốt
Sắc
Gió
Để ngày xanh rơi vào miệng vực
Một cành non
Mọc
Giữa rừng độc
Ta tàn hơi …
MÙA ĐÔNG QUÊ HƯƠNG
Cho gia đình
Gói nụ cười, áo tơi
Co ro ngàn, khói ngất
Bước xẩm. Há hốc mỏ
Da khô cành, mưa khô
Ta trói chân, rừng dữ
Mây thổi, lời thu trôi
Gió lệ ráo mi biếc
Cỏ non già. Hanh môi
Đau đáu đời sông đục
Mộng tiếp trán nhăn nhúm
Tiếng lạ, ngồi ngẩn ngơ
Bãi năn sầu. Đất mặn
Nhà trống. Mẹ trông ngóng
Con không tình, tù nhục
Chiều chưa lên bếp tro
Ngày chưa qua. Nắng mục.
TRƯA
Dốc
Nhà
Râu tóc
Xóm quê
Phố người tứ xứ
Lầm lũi nhớ mùa sóng hương nếp
Sông
Ơi chèo
Bến …
Nheo mắt trưa
Lòng mây.
GÓC TRỌ
Nơi gác vắng tiếng trăng nhạt
Cô độc gọi
Hiểm hóc nhớ
Lăn lóc cười mắt thâm quầng trôi
Khỏa thân đồng xanh
Khỏa thân lời
Khói ám
Ném mũi lao vào thinh không
Để nghe mùa đông đập cánh thở
Gieo quẻ bói
Tình yêu chói chan
Mặt trời hom hem trên môi ta
Chiếc ghế nói bằng ngôn ngữ điếc
Thuở hạt thóc nẩy mầm trong bọt mây
Ta thẩy đời theo con xúc xắc
Rực rỡ tóc chanh em ngày qua xưa
Quá khứ nở thành xương rồng
(Kẻ du mục không về lúc rạng đông
Để làm hề trên sàn tập
Em hóa trang chưa?)
Ta mở ngỏ trái tim
Những mối tình ương dở
Đóa hoa khóc
(Chim chóc chẳng bao giờ còn cất tiếng hót
Hay cứ cất tiếng hót
Hãy trồng lại giấc mơ, chứ em?)
Giọt nước mắt truyền ra mật ngôn tím
Những chiếc lá đi rong
Cắn miếng mưa
Ôi vì sao vì sao
Ta không thể nói với em về nụ hôn
Đã mất.
Bataan, June 23-89
PHIÊU KHÚC
Con chim biến hình
Ngoài gianh mưa
Tiếng hót
Xẩm đêm
Bẫy u mặc
Mở ra con đò xuôi mênh mang trôi
Ngủ
Khúc khích thở
Huyễn hoặc
Tha hương
Bão thân thế
Ngực biếc bát ngát lửa phiêu dạt
Tắt đi. Hoàng hôn trăng phế hưng
Thảng thốt
Cội rễ lời
Ta nghe dâu ngàn hóa bụi
Vô ngôn tự thuở nằm nôi
Có không chăng đời quỉ mị
Sao khuê vụt tắt đồi non
Trở dậy
Thấy lòng mình là đá
Thấy hồn mình là chỗ không may
Chân sa hố sinh biệt
Ngày nổi chìm
Trong
Đáy nắng xôn xao.
2. Từ tập thơ Dấu quê
NÍU LẠI
trút hơi thở
và ngồi duỗi ra
vào một nơi tưởng là đã tay trắng
khom
lưng bất động như thế cho đến khi giọt
chuông chiều kia làm tan đi người và vật
kiến tạo im ắng mà lâu nay bị
che lấp bởi cánh liếp của lời kinh
rảo bước ngoài mặt
đất và nhận ra có tiếng kêu
níu lại ở đầu ghềnh
NGẪM RA
con gió trắng
trói buộc
đừng tưởng rằng mọi chuyện đều êm đẹp
nỗi buồn gắt
hẳn nhiên
đánh rơi mất bực bội
khi đi rong
ngẫm ra là
chỉ tại cơn hắt hơi lúc rạng đông
ĐÊM
lang thang
đầu ghềnh cuối bãi
lảm nhảm
hôm qua hay hôm nay
cũng chẳng làm ai phiền hà gì
khi nào gió lên thì bảo
đi hái ít nụ hoa về
cho thơm đêm
VỚI GIÓ
trợt chân té sấp không gượng dậy nổi
bằng cách hối lộ với nhân gian
đừng để bị trời đầy
thở nhẹ
ngồi lênh đênh trên đồi tranh cởi nắng
buộc vào cành non
ngậm trắng một đò lời
với gió
NGỌN NGUỒN
vỗ sóng
làm nhịp chèo
gieo quẻ bói
về ngày đời sau
có rảnh rang thì nhớ
nói chõ
vào khoảng không
nghe vọng âm
hóa ra là chẳng tìm đâu thấy ngọn nguồn
LỜI
đốt cháy lời
để mai kia mốt nọ
không truyền rao
không sách sử
nhưng ở bên kia chốn không lời
đóa hoa nở
lúc khởi sinh
ngôn từ đã bắt đầu gầy mối hiểm nguy
lên núi hay xuống biển thì cũng chỉ là chuyện của nước non
HỎI
chân đất
lạ nhỉ
hút thuốc mãi
phà vào buổi chiều
cứ làm kẻ hát rong nghêu ngao cho đến bao giờ
chết đứng
quá lắm
phải chi đừng vẩn vơ về nụ hôn
trong bóng tối
hồi chưa sinh ra
vào lúc còn ở ngoài bầu trời
CHỐN KHÁC
Hạt mầm
Nẩy trên cánh đồng gió ám
Vàng vọt nỗi nhớ mong, chim muông gõ vào cánh chiều buồn
Ai, không ai trong ta, thấy được chỗ cuồng nước mắt
Ai, không ai trong ta, đi ngược lại đời người
Soi, từng vết bạc thời gian nơi mái rơm
Có bao giờ nụ hôn khát một mặt trời
Cho môi khô sương thành trái đắng
Hỏi ở ngoài đầu hôm sớm mai
(Nước, đã chiến trường từ muôn trước
Mãn ngày
Ai quang gánh cơn điên rồ kia)
Nghe rất nhẹ, rất xa ngực rừng thớ đất
Ai, bao lâu nay đứng ở ghềnh sông
Gọi mãi, theo về nắm sừng hư thực
Gọi mãi, trôi vèo cuốc nhẵn bình minh
Thà nói nhỏ cho xong, ta người không thực
Thì với lấy nghi tình quay tìm chốn khác
Ta chẳng đợi người, ta chẳng đợi ai.
KHOẢNH KHẮC
Đã thở
(Giọng tiếng bát vỡ)
Đã rợn người gọi
Trăng kiêu binh
Giữa ngóc ngách của biển đời mọc
Rực đồng xẫm
Mảnh gió môi, bình minh
Ướt áo tát
Mắt đẫm lấp lú
Sương khói lỏng
Cửa bước ngất
Hát hỏng, mùa chim ca
Tảng lờ
Im. Thật im. Rực rỡ
Tóc bật chiều run cắn
Vết thương xa
Ôi giấc mơ, và mơ
Hoa điềm nhiên, từ độ
Tro ngàn
Đằng hắng
Cho đỡ nhớ rừng mật xanh.
GIẢ TẢNG
Dẫm lên quá khứ
Dìu dịu nghe trái tim ngàn năm rong sương
Ở biên kia đường hầm đốm lửa xanh hắt hiu
Ở bên kia rừng đồi lũ chim chóc kháo nhau về
chiều nghìn trùng
Trên ngực biếc mênh mông, giấc mơ
Ai hát ca nhanh, phiếm du mãi lời hong phơi
Cuồng môi, tóc bay
Lăn lóc đời ngày, hỏi quê đâu
Man mác dòng sông
Đội cho khoảnh khắc vòng kẽm gai
Ngồi chờ nỗi đổ vỡ, im sững
Lẩn lút trong cõi bến, tang thương sao
Đốt cháy bao nhiêu cánh gió buốt
Mắt hoen, góc núi ngun ngút quên
Như xa, những hồn nước và đất
Đã qua phân tranh, mộng và kịch
Giả tảng
Là bão tố cuốn đi
Mật đắng của thời ngổn ngang trăm mối.
GIỚI THIỆU
TUYỂN TẬP THƠ KHẾ IÊM
________________________
Frederick Feirstein
Robert Frost có nói rằng đọc một bài thơ dịch giống như hôn một cô gái qua lớp vải của chiếc khăn tay. Điều khó khăn nhất, là không thể nghe được bài thơ bằng tiếng nước ngoài. Nhưng với bản dịch thì chúng ta có thể có được cấu trúc, hình tượng và vần luật của bài thơ, và tất cả những thứ này sẽ ban cho chúng ta một cảm nhận về điều mà nhà thơ đang nỗ lực để truyền đạt về mặt cảm xúc.
Đây chính là trường hợp của tác phẩm thơ của Khế Iêm. Thông qua Internet tôi đã nghe được vài bài thơ tiếng Việt của ông, khiến tôi cảm nhận được rằng thật đẹp làm sao những giai điệu gồm bảy âm của chúng. Điều thú vị là vần luật thơ ông gợi cho tôi nhớ lại những bài Kenneth Rexroth dịch thơ Trung quốc trong đó ông sử dụng những dòng thơ gồm bảy âm tiết với việc lặp lại của kĩ thuật gọi là trùng âm mà ông học hỏi được từ người Pháp. Tương tự vậy, Khế Iêm cũng sử dụng những dòng thơ gồm 5, 7, 8 âm tiết có lặp lại những từ khóa đồng thời còn sử dụng kĩ thuật láy phụ âm (alliteration) cũng để lặp lại, vốn là những phương thức rất hữu hiệu trong thơ tiếng Anh Cổ đại (cũng là loại ngôn ngữ một âm tiết như tiếng Việt).
Những dòng thơ được giới hạn trong khoảng 5 tới 8 từ đơn tiết, mỗi khổ thơ gồm bốn dòng, có hoặc không có vắt dòng, điều này đôi khi tạo ra một đối âm giữa những mô hình đối xứng và không đối xứng. Việc sử dụng kĩ thuật vắt dòng cũng cho phép Khế Iêm viết nên những bài thơ tự sự ngắn vốn phụ thuộc vào tính liên tục của tư duy và cảm nghĩ. Dòng chảy này được tuôn trào dễ dàng hơn nhờ cách diễn đạt thẳng thắn của ông, là cách diễn đạt mà Trường phái Tân Hình thức Mĩ coi là yếu tố quan trọng.
Khế Iêm thường đề cập tới tính khả tín và tính bất xác của người tường thuật, và tính khả tín của điều được tường thuật. Tỉ dụ ông kết thúc bài “Những Cái Hộp” theo cách này: “… Nhưng / tôi sắp nói những điều tôi đã / nói, mặc dù, thà có hơn không, đó / chẳng phải là những điều tôi muốn nói.”
Trong bài “Những Chiếc Ghế”, nhà thơ kể ra cho chúng ta biết rằng những chiếc ghế không là những gì, và là những gì, cho tới khi chúng ta làm mất đi cái từ “Những Chiếc Ghế” qua một nỗ lực nhằm tìm lại được cái thực tại cụ thể của từ đó. Khế Iêm đã thành tựu được điều này ở cuối bài thơ sau một cơn lốc những từ về những chiếc ghế: “… những / chiếc ghế không ở đâu xa, những / chiếc ghế ở ngoài mọi điều; những / chiếc ghế chỉ là chiếc ghế.”
Tôi là một nhà phân tâm học và cũng là một nhà thơ, và tôi hiện đang chữa trị cho một nhà thơ trẻ, anh ta cố gắng biểu đạt cho tôi biết điều mà anh ta không thể biểu đạt bằng lời lẽ. Anh ta muốn biết liệu tôi có hiểu được loại trải nghiệm không lời lẽ của anh ta là như thế nào. Tôi đọc bài thơ “Những Chiếc Ghế”của Khế Iêm cho anh ta nghe, và anh ta nói ngay, “Đó chính là điều mà tôi cảm nhận.” Sau đó chính anh ta bắt đầu mô phỏng bài thơ theo nhiều cách khác nhau.
Ba bài trong số những bài thơ hay nhất mà Khế Iêm sử dụng sự tương phản khả tín/vô khả tín (trong một tập thơ được chuẩn bị rất kĩ lưỡng) là “Bộ Bàn Ăn”, “Trang Sách”, và “Chuyện Đời Kể”. Dù ông thăm dò tính không xác thực của thực tại, nơi mà ranh giới của thời gian và không gian bị xóa nhòa, nhưng ông trả lại cho chúng ta cái thực tại theo một cung cách gần như là Thiền, ở phần cuối những bài thơ này.
Một trong những bài thơ cảm động nhất trong tuyển tập thơ này là bài tự sự “Cái Chết Trên Truyền Hình” trong đó “… Người đàn bà nhận ra cái chết của / con mình trên màn hình nhưng không tin / con mình đã chết, và dù rằng một / tin báo tiếp theo như cơn bão tiếp / theo về cái chết của đứa con, bà / vẫn không tin điều mình đã thấy.”
Điều này là một trải nghiệm rất thường thấy nơi những người sống sót sau những cơn tâm chấn (chấn thương về tâm lí, tinh thần). Leon Klinghoffer, một người bạn của gia đình tôi, là một trong những nạn nhân người phương Tây đầu tiên của phong trào khủng bố đương đại, được dư luận biết tới khá rộng khắp. Ông đã bị bắn bỏ khi đang ngồi trên xe lăn và xác bị ném qua mạn tàu, chiếc tàu du lịch Achille Lauro [*]. Khi người ta phỏng vấn vợ ông, bà Marilyn, về sự cố này, bà đã trả lời rằng bà có cảm giác đó là chuyện không có thực khi bà chứng kiến sự việc trên truyền hình, rằng trong một thoáng bà cảm thấy là mình vừa coi một sô diễn trên màn ảnh truyền hình.
Trải nghiệm này một phần do kết quả của sự xóa nhòa những ranh giới [giữa hư và thực] trong thời đại bị bão hòa về những phương tiện thông tin đại chúng của chúng ta. Đây là chủ đề trung tâm trong tác phẩm của Khế Iêm, được thể hiện nghiêm túc và đôi khi thậm chí còn là hài hước như trong bài thơ của ông về lon bia Budweiser sặc mùi thương mại, nhằm minh họa những nỗ lực của những nhà quảng cáo muốn bước hẳn vào cõi vô thức của chúng ta.
Khế Iêm là một trong những người lãnh đạo phong trào văn học của chính ông, trong phong trào đó có một số nhà thơ có tác phẩm được ông tuyển tập [**] đã đi theo phong cách của ông và tuân thủ những phương thức qua đó ông nhận thức về sự tương phản giữa thực tại và phi thực tại. Phong trào có tên là Thơ Tân Hình Thức Việt, tính tân kì một phần do việc sử dụng cách diễn đạt thông tục phối hợp với kĩ thuật vắt dòng hoặc dứt dòng của thơ không vần. Ông nêu dẫn nguồn gốc của thuật ngữ này từ một tên gọi được dùng để chỉ một khía cạnh của loại Thơ Chan Hòa (Expansive Poetry), là phong trào mà Frederick Turner và tôi khởi xướng nhằm mở lối thoát cho thơ Mĩ thuở đó bị hạn chế trong khuôn khổ thơ tự do trữ tình nặng tính chất tự thú. Như tôi đã chỉ ra trong bài tiểu luận của tôi, “After The Revisionists” (Sau Những Nhà Thơ Xét Lại), rằng Thơ Tân Hình Thức chẳng có gì là mới mẻ, rằng nó chỉ là sự trở về với một truyền thống đã bị chối bỏ bởi một số những nhà Hiện đại và Hậu hiện đại. Khế Iêm cũng đã nhìn rõ điểm này. Tôi đã không chỉ từ bỏ những gì mà những nhà mô phỏng của chúng ta đã thể hiện khá kì quặc về mặt hình thức, mà còn nhấn mạnh rằng Thơ Chan Hòa (Expansive Poetry) chỉ là một phong trào văn học có sử tính, như những phong trào Hiện đại và Hậu hiện đại. Tôi trông chờ ở Khế Iêm, như một nhà thơ đầy tính sáng tạo độc đáo, sẽ có thể tìm ra một phương thức biểu đạt mới, và có lẽ sẽ mở rộng những gì mà ông và những người đi theo ông đang thể hiện. Về phần tôi, tôi mong mỏi được thấy, nếu như điều tôi muốn thấy thì chưa từng hiện hữu, là sẽ có nhiều bài thơ tự sự rất dài mà thể loại này cho phép thể hiện. Xin đơn cử một tỉ dụ, là Turner đã hoàn tất ba bài thơ tự sự có độ dài của một cuốn sách.
Tôi rất quan tâm tới những gì mà phong trào của Khế Iêm thực hiện, không chỉ trong thơ ông, mà còn được minh thị trong văn xuôi. Trong bài tiểu luận của ông, “Giới Thiệu Thơ Tân Hình Thức Việt”, ông đã xác định rõ ràng những đặc tính chủ yếu của phong trào của ông. Ông cũng đã nhấn mạnh vào một trong những mục tiêu rộng lớn hơn của phong trào khi nói rằng “Mục đích của thơ Tân Hình Thức là muốn đưa thơ Việt bước ra ngoài thế giới, nên mới chú tâm vào dịch thuật, để tìm kiếm người đọc khác ngôn ngữ và văn hoá.”
Từ những gì tôi đọc được nơi Khế Iêm và nơi bản dịch những tác phẩm của những người liên kết với ông, thì với tôi, chừng như Khế Iêm đã thành tựu được điều vừa nói trên. Ông có tờ tạp chí Thơ của chính ông và ông có dịch một số tác phẩm của chúng tôi sang tiếng Việt. Ông đã trích dẫn câu sau đây trong một bức thư đăng trên trang web www.thotanhinhthuc.org : “Hãy đến với chúng tôi, nơi chốn nhỏ bé và ấm cúng này của thơ, để nâng ly rượu mừng trong ngày họp mặt.” Và thế là tôi đã nâng cao chiếc li của tôi, và tôi xin có lời chúc mừng tác phẩm tuyệt vời của ông, cùng những tuyển tập và những tiểu luận của ông.
Phạm Kiều Tùng chuyển dịch
CHÚ THÍCH
[*] Leon Klinghoffer [1916-1985] một thương gia Mĩ về hưu, phải ngồi xe lăn. Năm 1985 ông cùng bà vợ đi trên chiếc tàu du lịch Achille Lauro để kỉ niệm lễ kết hôn lần thứ 36 của hai vợ chồng. Không may cho họ, là chiếc tàu này bị nhóm khủng bố của Mặt trận Giải phóng Palestine PLF khống chế, đưa yêu sách đòi nhà nước Israel phải trả tự do cho 50 người Palestine đang bị nhà nước Israel cầm tù. Yêu sách không được đáp ứng, lập tức nhóm khủng bố lựa ra một người gốc Do Thái, là Leon Klinghoffer, bắn vào trán và vào ngực ông, khi ông đang ngồi trên xe lăn, rồi ném xác ông qua mạn tàu.
[**] “Thơ Không Vần”, Blank Verse, Tan Hinh Thuc Publishing club, 2006, gồm 64 tác giả. Và “Thơ Kể”, Poetry Narrates, Nxb Lao Động, Việt Nam và Tan Hinh Thuc Publishing club, 2010, gồm 21 tác giả.
3. Từ tập Thơ Khác
TÂN HÌNH THỨC
VÀ CÂU CHUYỆN KỂ
Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề
đường và kể lại câu chuyện đã được
kể lại, từ nhiều đời mà đời nào
cũng giống đời nào, mà lời nào cũng
giống lời nào, về người đàn bà và
đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được
gọi là chỗ chết, nơi góc phố được
gọi là chỗ sống), kẻ những đường kẻ
bằng than đen; gãy góc, xấu xí như
cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ
nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt, như
thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng
nhưng người đàn bà và đàn con nheo
nhóc, vẫn kể lại câu chuyện đã được
kể lại, như người khác đã từng kể
lại, dù chẳng để lại gì ngoài câu
chuyện đã kể, bởi câu chuyện đang tự
kể lại, và không ai, ngay cả người
đàn bà và đàn con nheo nhóc, bước
ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.
BẬC THANG
Những bậc thang nối với nhiều tầng
lầu, những bậc thang dẫn tới nhiều
đường tầu, những bậc thang và những
bước chân; những bước chân trong tôi
có ngón giao chỉ, từ phố phường
đi ra biển đông; những bước chân
trong tôi rướm đời du mục, dù
rằng tôi chưa bao giờ sống đời
du mục; điều này ám chỉ rằng
tôi là mảnh vỡ tí ti của
quá khứ, bị cánh bướm đập, văng
ra thành kẻ lưu cư nơi miền
đất lạ; không khác nào những bậc
thang và những bước chân, tái hiện
rồi tái hiện, rơi trong hỗn mang;
bởi chẳng phải là những bậc thang
vẫn nối với nhiều tầng lầu, những
bậc thang vẫn dẫn tới nhiều đường
tầu, và những bước chân trong tôi
vẫn còn đang vang lên thanh âm
quyến rũ dị kỳ; thật ra, tôi
không muốn nói hơn một ly những
gì tôi nói – những bước chân và
những bậc thang đến đây là hết.
CHIẾC GHẾ
Gửi các nhà phê bình & nghiên cứu Văn Giá, Đỗ Minh Tuấn, Bửu Ý, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Vy Khanh
Những chiếc ghế không cùng một màu,
những chiếc ghế không dùng để ngồi,
những chữ ghế, không phải là ghế;
những chiếc ghế có thể sờ được,
những chiếc ghế có thể gọi tên,
những chiếc ghế đúng ghế, không phải
là ghế; những chiếc ghế không bao
giờ vẽ được, những chiếc ghế không
bao giờ nói được, những chiếc ghế
không bao giờ có được, bởi những
chiếc ghế không bao giờ biến dạng,
những chiếc ghế không bao giờ mất
đi, những chiếc ghế không hiện diện;
những chiếc ghế, ôi chao, chỉ là
nó đó; những chiếc ghế, ôi chao,
không cùng một màu, những chiếc ghế,
ôi chao, không dùng để ngồi; những
chiếc ghế không ở đâu xa, những
chiếc ghế ở ngoài mọi điều; những
chiếc ghế chỉ là chiếc ghế.
BÀI THƠ KHÔNG VẦN
Để tưởng nhớ nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Anh đến với tôi mỗi ngày thứ sáu,
như mỗi ngày đều là ngày thứ sáu,
còn những ngày khác anh đến với các
bạn khác, như mỗi bạn khác mỗi ngày
là mỗi ngày khác, cho đến một ngày
bất ngờ tôi biến mất, như mỗi ngày
thứ sáu biến mất vào mỗi ngày khác,
như mỗi đời người biến mất vào chỗ
đời khác, tôi biến mất khỏi anh, anh
biến mất khỏi tôi, vì tôi bị cuốn
theo cuộc đời lưu lạc, còn anh mãi
mãi đơn độc, mãi mãi không nhà, mãi
mãi ở lại, và tôi không biết nơi
nào anh trú ngụ vào mỗi ngày thứ
sáu, cho đến hôm nay bất ngờ anh
biến mất, anh biến mất khỏi anh, anh
biến mất khỏi tôi như mỗi chúng ta
là một tình cờ, như mỗi con đường
là một ngõ qua, tạm thời là thế,
có gì hay ho, có gì đáng nói
nơi cái chỗ ở là trần gian này,
chỉ có điều đáng nói là những gì
anh còn để lại, “Cô bé treo mùng”,
“Hình như là tình yêu”, “Thư về đường
Sơn cúc”… giống như những bài thơ không
vần, vì ngay cuộc đời anh cũng là
cuộc đời không vần, không vần gì cả
với những cuộc đời chung quanh, nên anh
cứ mãi lãng du, cuộc lãng du bất
tận kéo dài về nơi gió cát, còn
tôi thì cũng cứ mãi lãng du, nhưng
là cuộc lãng du giữa cuộc đời bình
thường và rất đỗi tầm thường, chưa biết
đến bao giờ mới xong, chưa biết đến
bao giờ mới hết. Nhưng bây giờ chúng
ta có thể nói câu giã từ thứ
sáu, và giã từ nhau, vì từ lâu
lắm rồi chẳng còn ngày nào là ngày
thứ sáu, của anh và tôi, và từ
đó đến nay anh và tôi cũng chưa
một lần gặp lại. Thôi, chúc anh an
giấc.
_______________________
CHÚ THÍCH
Nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn sinh năm 1947 tại Thừa Thiên – Huế, mất lúc 2 giờ 50 ngày 9 tháng 7-2005 tại Sài Gòn, tác giả các tập truyện ngắn dành cho tuổi mới lớn: “Hình như là tình yêu”, “Cô bé treo mùng”, “Ở một nơi ai cũng quen nhau”, “Hôn lễ”, “Thư về đường Sơn cúc”.
CÂU NÓI
“Tôi bước ra cửa lúc năm giờ” nhưng
bước ra cửa là ra cửa nào và
lúc năm giờ là lúc nào cùng hàng
loạt những câu hỏi không bao giờ có
câu trả lời cho rốt ráo bởi câu
nói “Tôi bước ra cửa lúc năm giờ”
là câu nói rơi ra từ một câu
chuyện kể nào đó đã tan biến trong
mớ âm thanh hỗn độn ngoài đường phố
giữa cuộc đời thường và không ai lần
ra được dấu vết mặc dù ai cũng
có thể nhét nó vào bất cứ câu
chuyện nào khác và dĩ nhiên bất cứ
câu chuyện nào khác không hẳn là câu
chuyện đúng thực của câu nói “Tôi bước
ra cửa lúc năm giờ” vậy thì câu
chuyện đằng sau cái câu nói tầm thường
như bao nhiêu câu nói tầm thường khác
ấy mãi mãi là điều bí mật dù
rằng câu nói vẫn truyền từ người này
qua người khác trong đám đông vô danh
mang theo câu chuyện không bao giờ đúng
thực của câu nói “Tôi bước ra cửa
lúc năm giờ”. Thôi, tôi đi nhé! Chào.
ẢNH ẢO
Người đàn ông hai mươi năm sau nói
với người đàn ông hai mươi năm trước
rằng, trên băng ghế này, dưới bầu trời
này, đã hai mươi năm, mà vở tuồng
vẫn chưa được viết, và đêm kịch vẫn
chưa mở ra, những thùng rác vẫn chứa
rác và không chứa gì khác, những bước
chân lê trên lề đường, giấc ngủ trên
hè phố, những khớp xương đau, những khớp
xương đau, đã hai mươi năm; người đàn
ông hai mươi năm sau, kéo áo che
cái rét của đất ẩm, đo bằng gang
tay giữa đôi mắt cú vọ và lồng
ngực đồi trụy, vớ lấy mớ bản thảo
xé nát rồi ráp lại, để tìm nơi
kẽ rách, lũ ký ức ôn dịch; nhưng
người đàn ông hai mươi năm trước, không
nghe, không thấy được gì từ người đàn
ông hai mươi năm sau, cứ lầm lũi,
lầm lũi, lầm lũi, tựa bóng ma, và
chẳng hề hay biết, người đàn ông hai
mươi năm trước cũng là người đàn ông
hai mươi năm sau, đang đợi nhau đợi
nhau, đợi nhau, như cái sống đợi cái
chết, ròng rã, đã hai mươi năm, dù
vở tuồng vẫn chưa được viết, và đêm
kịch vẫn chưa mở ra, những thùng rác
vẫn chứa rác và không chứa gì khác.
CON MÈO ĐEN
Cho các cháu Brielle & Riley
Con mèo đen có linh hồn và chiếc
xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức
dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi
sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;
con mèo đen có đôi mắt bằng đất
sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ
mở ra và không bao giờ nhắm lại,
trong lúc lên thang xuống thang, mang theo
linh hồn và chiếc xương sườn của tôi,
mà quên rằng, tôi đã sống những ngày
hôn ám biết bao, tự thuở nào và
tại sao thì tôi đành chôn kín, trong
cái túi đựng đầy những đoạn chú thích,
được lượm lặt từ rất nhiều mẩu chuyện,
để cấu thành câu chuyện về con mèo
đen, mang linh hồn và chiếc xương sườn
của tôi; dĩ nhiên, đó là con mèo
đen có đôi mắt bằng đất sét, chứ
không phải bất cứ đôi mắt nào khác;
mù đặc, trong lúc lên thang xuống thang.
__________________
CHÚ THÍCH
“Con Mèo Đen” là một trong ba bài thơ hay nhất trong tháng 12-2007 của Diễn đàn thơ Mỹ Poetry.about (http://poetry.about.com)