Người Mỹ gốc Á vẫn bị mắc vào cái bẫy của khuôn mẫu “Thiểu số kiểu mẫu” (Model Minority). Và nó tạo ra sự bất bình đẳng đối với tất cả mọi người

Viet Thanh Nguyen – Time, 26/6/2020

Augustina dịch

clip_image002

Một nhạc sĩ và một bé gái trong Trại tập trung Topaz ở Utah, tháng 7 năm 1945. Apic/Getty Images

Gương mặt của Tou Thao ám ảnh tôi. Viên cảnh sát người Mỹ gốc Hmong đứng quay lưng về phía Derek Chauvin, cộng sự của ông, khi Chauvin đè gối trên cổ George Floyd trong 8 phút 46 giây và giết anh ta.

Trong video tôi xem, Tou Thao ở phía trước và Chauvin xuất hiện một phần ở phía sau, đầu của George Floyd bị ấn xuống đất. Những người ngoài cuộc cầu xin Tou Thao hãy làm gì đó vì George Floyd không cử động và chính anh ta nói rằng anh ta không thể thở được.

Khuôn mặt của Tou Thao vừa giống vừa không giống tôi, dù khuôn mặt của George Floyd cũng vừa giống vừa không giống tôi. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khiến chúng ta tập trung vào những khác biệt trên khuôn mặt hơn là những điểm tương đồng, và trong thí nghiệm giả kim thuật ở Hoa Kỳ, khác biệt về chủng tộc đã kết hợp với bóc lột lao động để tạo ra một hỗn hợp bùng nổ giữa lợi nhuận và tàn bạo. Để đối phó với nạn phân biệt chủng tộc đặc hữu ở Mỹ, những người trong chúng tôi, những người bị kỳ thị chủng tộc, đã đoàn kết xung quanh khác biệt chủng tộc của chúng tôi. Chúng tôi coi người da trắng ghét gì ở mình và biến những vết tích đó thành niềm tự hào, thành cộng đồng và quyền lực. Vì vậy, Tou Thao và tôi là “người Mỹ gốc Á”, bởi vì chúng tôi đều là “người châu Á”, đúng hơn là “người phương Đông” hay “bọn da vàng” [gook]. Nếu việc là một người phương Đông khiến chúng tôi bị chế giễu và trở thành một gã da vàng có thể khiến chúng tôi bị giết, thì việc trở thành một người Mỹ gốc Á có thể sẽ cứu chúng tôi. Sức mạnh của chúng tôi về số lượng, về sự đoàn kết vượt qua nhiều khác biệt về ngôn ngữ, sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, tổ tiên dân tộc và hơn thế nữa, là nền tảng của việc trở thành người Mỹ gốc Á.

Nhưng ở một thực tế khác, Tou Thao là người Hmong còn tôi là người Việt Nam. Ông ấy là cảnh sát còn tôi là giáo sư. Liệu việc chúng tôi là người châu Á có mang chúng tôi đến với nhau vượt qua những chia rẽ sắc tộc và giai cấp không? Phải chăng việc chúng tôi là người Đông Nam Á, cả hai cộng đồng của chúng tôi được đưa đến đây do chiến tranh Mỹ gây ra ở đất nước chúng tôi, có nghĩa là chúng tôi nhìn thế giới giống nhau? Tou Thao có trải qua nạn phân biệt chủng tộc bài người châu Á khiến cho tất cả chúng tôi đều là người châu Á, dù muốn hay không, không?

Hãy để tôi quay ngược thời gian về thời điểm ngày này năm xưa. Cho dù tôi không còn nhớ mình đã nhìn thấy những dòng chữ này năm bao nhiêu tuổi, nhưng tôi cũng không bao giờ quên chúng: Một người Mỹ nữa bị mất việc bởi người Việt Nam. Có lẽ lúc đó tôi 12 hoặc 13 tuổi. Đó là vào đầu những năm 1980, và ai đó đã viết chúng trên một tấm biển ở cửa kính cửa hàng cách cửa hàng của ba mẹ tôi không xa. Tấm biển này khiến tôi bối rối, vì dù sinh ra ở Việt Nam nhưng tôi đã lớn lên ở Pennsylvania và California, và đã hấp thụ đủ loại văn minh Mỹ: Hoa tháng năm và Người hành hương; cao bồi và thổ dân da đỏ; Audie Murphy và John Wayne; George Washington và Betsy Ross; Tuyên ngôn trung thành; Tuyên ngôn độc lập; sự bảo đảm cuộc sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc; tất cả những tưởng tượng và văn hóa dân gian của Giấc mơ Mỹ.

clip_image004

Hai nhân viên ở văn phòng nhập cư thẩm vấn những người nhập cư Trung Quốc bị nghi ngờ là Cộng sản hoặc các thủy thủ đào ngũ tại Đảo Ellis. Bettmann Archive/Getty Images

Một phần của giấc mơ đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, điều này hoàn toàn phù hợp với ba mẹ tôi. Họ sinh ra trong những gia đình nghèo ở nông thôn, không được học hành chính quy nhiều và chỉ dùng sự khéo léo và chăm chỉ của mình để trở thành những thương gia thành đạt. Họ trốn khỏi Việt Nam cộng sản năm 1975, sau khi mất toàn bộ nhà cửa và phần lớn tài sản. Với những gì mang theo bên mình – bao gồm cả vàng và tiền khâu vào gấu quần áo – họ mua một căn nhà cạnh xa lộ ở San Jose và mở cửa hàng tạp hóa Việt Nam thứ hai ở đó vào năm 1978. Trong niềm lạc quan dâng trào và hoài niệm, họ đặt tên cửa hàng của mình là New Saigon.

Bây giờ tôi đã già hơn ba mẹ tôi khi họ phải bắt đầu cuộc sống mới ở đất nước này, chỉ với một chút tiếng Anh. Những gì họ đã làm hiện lên trong ký ức tôi như một kỳ công khó tưởng tượng nổi. Trong thời đại vi rút corona, tôi không biết may khẩu trang như thế nào và lo lắng khi đi mua hàng tạp hóa. Là những người sống sót sau chiến tranh, ba mẹ tôi đã chiến đấu để sống lại như những người ngoài hành tinh ở một vùng đất xa lạ, học đọc những tài liệu thế chấp bằng ngôn ngữ khác, đăng ký cho tôi và anh trai tôi vào trường, thi lấy bằng lái xe. Nhưng không có hướng dẫn nào cho họ biết cách mua một cửa hàng không được quảng cáo khi nó đang được rao bán. Họ gọi điện cho những người lạ và tìm đến bộ máy quan liêu để tìm chủ sở hữu và thuyết phục họ bán, trong khi tất cả đang phải chịu đựng nỗi đau mất nước và bỏ lại gần như tất cả người thân của mình. Khi ba mẹ tôi mua lại cửa hàng thì bà ngoại tôi qua đời ở Việt Nam. Tin này gần như khiến mẹ suy sụp.

Không hiểu sao người viết tấm biển đó lại coi những người như ba mẹ tôi không phải là con người, mà là kẻ thù. Đây là lý do tại sao tôi không ngạc nhiên trước làn sóng phân biệt chủng tộc bài người gốc Á đang gia tăng ở đất nước này. Đúng vậy, thật kinh tởm khi nghe tin một người phụ nữ bị tạt axit ngay trước cửa nhà mình; một người đàn ông và con trai ông ấy bị một kẻ cầm dao tấn công tại Câu lạc bộ Sam; nhiều người bị gọi là “vi rút Trung Quốc” hay “chink[1] virus” hoặc bị nói là cút về Trung Quốc đi, ngay cả khi họ không phải là người gốc Hoa; người ta bị chỉ trích vì là người châu Á; người ta sợ ra khỏi nhà mình, không chỉ vì đại dịch mà còn vì sợ bị hành hung bằng lời nói hoặc thể xác, hoặc bị nhìn chằm chằm. Khi liệt kê những sự cố này, nhà thơ và nhà viết tiểu luận Cathy Park Hong đã viết: “Chúng tôi không mang vi rút corona. Chúng tôi là vi rút corona”.

Nhìn lại, tôi có thể nhớ là nạn phân biệt chủng tộc còn ở mức độ thấp thời tôi còn trẻ, những câu nói đùa ngốc nghếch của các bạn cùng lớp ở trường Công giáo, như “Có phải họ của mày là Nam không?” và “Mày có mang theo AK-47 trong chiến tranh không?” cũng như những chuyện tục tĩu hơn. Tôi tự hỏi: Tou Thao có nghe thấy những câu chuyện cười kiểu này ở Minnesota không? Ông ta nghĩ gì về Fong Lee, người Mỹ gốc Hmong, 19 tuổi, bị cảnh sát Minneapolis Jason Andersen bắn tám phát, bốn phát vào lưng năm 2006? Andersen được bồi thẩm đoàn toàn người da trắng cho trắng án.

clip_image006

Một lớp học gồm trẻ em Trung Quốc ở New York, 1900. Keystone-France/Gamma-Keystone/Getty Images

Đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc bài người châu Á của người da trắng, người Hmong đến Mỹ tị nạn vào những năm 1970 và 1980 thường được tái định cư ở các khu vực thành thị khác nhau, một số ở nơi các cộng đồng người da đen chiếm đa số, và họ cũng phải đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc. Mới đây, Yia Vue viết: “Có rất nhiều câu chuyện trong cộng đồng của chúng tôi về nạn hành hung, cướp bóc và đe dọa từ những người hàng xóm da đen của chúng tôi. Những người Hmong sống cạnh bên với những người hàng xóm Mỹ gốc Phi của họ ở những khu vực nghèo hơn trong thị trấn, với hiểu lầm và định kiến từ nhiều thế hệ vẫn còn cố hữu ở cả hai bên”. Tuy nhiên, khi Fong Lee bị giết, các nhà hoạt động người da đen đã tập hợp lại vì vụ án của anh ấy. Shoua, chị gái của Lee, nói: “Họ là những tiếng nói lớn nhất đối với chúng tôi. Họ không được yêu cầu xuất hiện. Họ tức thì xuất hiện”.

Không giống như các kỹ sư và bác sĩ hầu hết đến từ Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc và Ấn Độ – nhóm thiểu số kiểu mẫu trong trí tưởng tượng của người Mỹ – nhiều người tị nạn Hmong đến từ đời sống nông thôn ở Lào bị chiến tranh tàn phá. Bị tổn thương, họ được tái định cư giữa cảnh nghèo đói và một lịch sử phức tạp về áp bức chủng tộc mà họ ít nhận thức được. Ngay cả những người Hmong lên án Tou Thao và ủng hộ tình đoàn kết với phong trào Black Lives Matter cũng nhấn mạnh rằng không nên nhìn họ qua lăng kính trải nghiệm của thiểu số kiểu mẫu, không nên là chủ thể với mặc cảm tội lỗi của người Mỹ gốc Á tự do và chỉ trích đối với Tou Thao như một biểu tượng của sự đồng lõa. Mục sư Kitô giáo Ashley Gaozong Bauer, người gốc Hmong, viết: “Chúng ta đã phải chia sẻ nỗi xấu hổ tập thể của nhóm thiểu số kiểu mẫu, nhưng có khi nào người Mỹ gốc Á chia sẻ nỗi đau đớn và thống khổ của câu chuyện người tị nạn Hmong và những lời đe dọa trục xuất?”

Giống như người Hmong, những người Việt Nam như tôi đã phải chịu đựng chiến tranh và một số người hiện đang bị đe dọa trục xuất. Không giống như nhiều người Hmong, một số lượng lớn người tị nạn Việt Nam, vô tình hữu ý, đã trở thành một phần của thiểu số kiểu mẫu, trong đó có tôi. Sự phân biệt chủng tộc ở mức độ thấp mà tôi đã trải qua xảy ra trong những môi trường ưu tú. Vào thời điểm tôi bước vào trường trung học tư thục chủ yếu là người da trắng, dành riêng cho người da trắng, thông điệp đã rất rõ ràng đối với tôi và một số ít người gốc Á trong chúng tôi. Hầu hết chúng tôi tụ tập hàng ngày ở một góc của khuôn viên trường và tự gọi mình, với tiếng cười lớn, hoặc có thể nhăn mặt, là “cuộc xâm lược của người châu Á”. Nhưng nếu đó là một trò đùa mà chúng tôi tự mình thực hiện thì đó cũng là một lời tiên tri, vì khi tôi trở lại trường vài năm trước để giảng về chủng tộc cho tập thể sinh viên, khoảng 1.600 thanh niên, tôi nhận ra rằng chúng tôi không hoàn toàn chiếm giữ, nhưng đã có thêm rất nhiều người trong số chúng tôi, gần 30 năm sau. Không còn là mối đe dọa cuộc xâm lược của người châu Á, thay vào đó, chúng tôi là thiểu số kiểu mẫu: người bạn cùng lớp đáng mơ ước, người hàng xóm được quý mến, loại người da màu không phải là mối đe dọa.

Hay chúng tôi là như thế? Sau đó, một số sinh viên người Mỹ gốc Á đã nói chuyện với tôi và nói rằng họ vẫn còn cảm nhận được điều đó. Cảm xúc đó. Cảm giác xa lạ, đặc biệt nếu họ là hoặc được coi là người Hồi giáo, da nâu hoặc Trung Đông. Cảm xúc đó. Phân biệt chủng tộc không chỉ là hành hung về thể chất. Tôi chưa bao giờ bị hành hung về thể chất vì ngoại hình của mình. Nhưng tôi đã bị tấn công bởi sự phân biệt chủng tộc trên sóng phát thanh, những câu chuyện cười ching-chong[2] của những kẻ gây sốc trên đài phát thanh, những câu nói xấu xí hoặc hài hước và bọn Trung Quốc và lũ da vàng trong các bộ phim chiến tranh và hài kịch Mỹ. Giống như nhiều người Mỹ gốc Á, tôi học cách cảm thấy xấu hổ trước những thứ được cho là khiến chúng tôi trở nên xa lạ: thức ăn của chúng tôi, ngôn ngữ của chúng tôi, kiểu tóc của chúng tôi, thời trang của chúng tôi, mùi hương của chúng tôi, ba mẹ của chúng tôi.

Hong nói, điều khiến những cảm tính này trở nên tồi tệ hơn là do chúng tôi tự nhủ rằng đây chỉ là những “cảm xúc nhỏ nhặt”. Làm sao chúng tôi có thể có bất cứ điều gì có giá trị để cảm nhận hoặc nói về chủng tộc khi chúng tôi, với tư cách là một thiểu số kiểu mẫu, được cho là được xã hội Mỹ chấp nhận? Đồng thời, cảm tính chống người châu Á vẫn là nguồn cảm xúc lớn mà người Mỹ luôn có thể rút ra trong thời kỳ khủng hoảng. Người Mỹ gốc Á vẫn chưa nắm giữ đủ quyền lực chính trị, hoặc chưa có đủ sự hiện diện về văn hóa, để khiến nhiều đồng bào Mỹ của chúng tôi ngần ngại trong việc triển khai tư tưởng phân biệt chủng tộc. Chúng tôi không quan trọng và địa vị lịch sử của chúng tôi với tư cách là người nước ngoài vĩnh viễn ở Hoa Kỳ là một lý do khiến Tổng thống và nhiều người khác cảm thấy họ có thể gọi COVID-19 là “vi rút Trung Quốc” hay “kung flu”. [3]

clip_image008

Cư dân người Mỹ gốc Nhật ở Los Angeles vẫy tay chào tạm biệt người thân và bạn bè bị trục xuất về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1941. Hulton-Deutsch Collection/Corbis/Getty Images

Cơ sở của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài người châu Á là người châu Á thuộc về châu Á, bất kể chúng tôi đã sống bao nhiêu thế hệ ở các quốc gia ngoài châu Á, hay chúng tôi có thể làm gì để chứng minh mình thuộc về các quốc gia ngoài châu Á nếu chúng tôi không sinh ra ở đó. Chỉ tay vào người châu Á ở châu Á, hoặc người châu Á ở các quốc gia ngoài châu Á, là một phương pháp phân biệt chủng tộc đã được thử và sử dụng thực sự trong một thời gian dài; ở Mỹ, nó có từ thế kỷ 19.

Khi đó Mỹ đã nhập khẩu hàng nghìn công nhân Trung Quốc để xây dựng tuyến đường sắt xuyên lục địa. Khi họ không còn hữu dụng, các chính trị gia, nhà báo và lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ đã bôi xấu họ theo cách phân biệt chủng tộc để xoa dịu những người lao động da trắng cảm thấy bị đe dọa bởi sự cạnh tranh của người Trung Quốc. Kết quả là đám đông da trắng hành hình những di dân Trung Quốc, đuổi họ ra khỏi thị trấn và đốt phá các khu phố Tàu. Đỉnh điểm của cảm xúc bài Trung Quốc là việc thông qua Đạo luật Loại trừ người Trung Quốc (Chinese Exclusion Act) năm 1882, luật nhập cư mang tính phân biệt chủng tộc đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, biến người Trung Quốc vào Hoa Kỳ trở thành nhóm dân nhập cư bất hợp pháp đầu tiên của quốc gia. Cơ quan Nhập cư và Nhập tịch được thành lập để kiểm soát việc nhập cư của người Trung Quốc và xác định những người Trung Quốc đã đến Hoa Kỳ là “con trên giấy tờ” (paper sons), những người bị xem là có mối quan hệ không thật với những người Trung Quốc đã tìm cách vào được đất nước này. Như nhà khoa học chính trị Janelle Wong nói với tôi, trong khi “những người nhập cư châu Âu phải đối mặt với sự thù địch lan rộng, họ chưa bao giờ phải đối mặt với những hạn chế pháp lý về chủng tộc đối với việc nhập cư và nhập tịch mà người Mỹ gốc Á đã trải qua”.

Lịch sử Hoa Kỳ được đánh dấu bằng chu kỳ các doanh nghiệp lớn dựa vào lao động châu Á giá rẻ, đe dọa tầng lớp lao động da trắng, những người mang nỗi sợ bị khơi dậy từ các chính trị gia và phương tiện truyền thông săn mồi về chủng tộc, dẫn đến các sự kiện thảm khốc như Đạo luật Loại trừ người Trung Quốc và việc giam giữ người Mỹ gốc Nhật vào năm 1942. Người viết tấm biển mà tôi nhớ khi còn nhỏ đã thấy, đổ lỗi cho người Việt Nam phá hủy các doanh nghiệp Mỹ, chỉ đơn giản kể một câu chuyện về mối nguy hiểm da vàng luôn rình rập mà những người Mỹ đang sợ hãi.

Thực tế là trung tâm thành phố San Jose vào những năm 1970 và 1980 rất tồi tàn, một nơi tồi tàn mà hầu như không ai muốn mở cơ sở kinh doanh mới, ngoại trừ những người Việt tị nạn. Ngày nay, người Mỹ dựa vào Trung Quốc và các nước châu Á khác về hàng hóa giá rẻ giúp người Mỹ sống với Giấc mơ Mỹ, sau đó quay lại đổ lỗi cho người Trung Quốc về việc khiến người Mỹ mất việc làm hoặc khiến người Mỹ dễ bị tổn thương trước cạnh tranh kinh tế.

Dễ dàng đổ lỗi cho một quốc gia nước ngoài hoặc một nhóm thiểu số, hoặc thậm chí đổ lỗi cho các chính trị gia đàm phán các hiệp định thương mại, hơn là xác định quyền lực thực sự: các tập đoàn và giới tinh hoa kinh tế chuyển đổi công việc, tối đa hóa lợi nhuận bằng chi phí của người lao động và không quan tâm đến những người Mỹ đang làm việc. Thừa nhận thực tế này là điều quá đáng ngại đối với nhiều người Mỹ, những người dùng cách đổ lỗi cho người châu Á như một câu trả lời đơn giản hơn. Người Mỹ gốc Á vẫn chưa quên lịch sử bài người gốc Á này, tuy nhiên nhiều người vẫn hy vọng rằng nó đã ở đằng sau họ. Lời nói xấu về “vi rút Trung Quốc” đã cho thấy sự chấp nhận và hòa nhập của chúng tôi mong manh đến mức nào.

Trước những cuộc tấn công mới nhằm vào sự thuộc về nước Mỹ của chúng tôi, cựu ứng viên tổng thống Andrew Yang đã đưa ra giải pháp này: “Người Mỹ gốc Á chúng ta cần phải đón nhận và thể hiện tính chất Mỹ của mình theo những cách mà chúng ta chưa từng làm trước đây… Chúng ta nên thể hiện không chút nghi ngờ rằng chúng ta là những người Mỹ sẽ làm phần việc của mình cho đất nước trong thời điểm cần thiết này”. Nhiều người Mỹ gốc Á đã tỏ ra khó chịu trước lời kêu gọi của ông, như thể nhằm xin lỗi về sự tồn tại của người Mỹ gốc Á chúng tôi. Những người chỉ trích Yang chỉ ra rằng người Mỹ gốc Á thực sự đã quấn mình trong lá cờ Mỹ trong thời kỳ khủng hoảng chống người châu Á; đã quyên góp cho những người hàng xóm và đồng bào da trắng trong trường hợp khẩn cấp; và chết vì đất nước này khi chiến đấu trong các cuộc chiến tranh. Và có điều gì đậm chất Mỹ hơn việc gia nhập cảnh sát? Tou Thao có nghĩ rằng ông ấy đang chứng tỏ mình thuộc về nước Mỹ bằng cách trở thành cảnh sát?

Không có nỗ lực nào trong số này có thể ngăn chặn được sự dai dẳng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài người châu Á. Kêu gọi hy sinh nhiều hơn chỉ đơn giản nhắc lại ý nghĩa rằng người Mỹ gốc Á không phải là người Mỹ và phải liên tục chứng minh chất Mỹ mà lẽ ra không cần phải chứng minh. Người Mỹ gốc Nhật phải chứng minh chất Mỹ của mình trong Thế chiến II bằng cách chiến đấu chống lại người Đức và người Nhật trong khi gia đình họ bị giam giữ, nhưng người Mỹ gốc Đức và Ý chưa bao giờ phải chứng minh chất Mỹ của họ ở mức độ tương tự. Người Mỹ gốc Đức và Ý bị bỏ tù có chọn lọc vì bị nghi ngờ hoặc thực sự không trung thành, trong khi người Mỹ gốc Nhật bị bỏ tù hàng loạt, chủng tộc của họ đánh dấu họ không phải là người Mỹ.

Người Mỹ gốc Á bị mắc kẹt giữa nhận thức rằng chúng tôi chắc chắn là người nước ngoài và sự cám dỗ rằng chúng tôi có thể liên minh với người da trắng trong một đất nước được xây dựng dựa trên quyền lực tối cao của người da trắng. Kết quả là, nạn phân biệt chủng tộc chống người da đen (và chống người da nâu và người da đỏ bản địa) ăn sâu vào cộng đồng người Mỹ gốc Á. Những người nhập cư và tị nạn, kể cả người châu Á, biết rằng chúng tôi thường phải bắt đầu ở nấc thang thấp trên bậc thang thành công của nước Mỹ. Nhưng dù có thấp kém đến đâu, chúng tôi biết rằng nước Mỹ cho phép chúng tôi đứng trên vai người da đen, da nâu và người da đỏ bản địa. Trong suốt lịch sử Mỹ Á, người nhập cư châu Á và con cháu của họ đã được cả người da đen và người da trắng tạo cơ hội để chọn phe trong sự phân chia chủng tộc đen-trắng, và chúng tôi đã quá thường xuyên chọn phe trắng. Người Mỹ gốc Á, tuy tích cực chỉ trích chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài người gốc Á, nhưng không phải lúc nào cũng đứng lên chống lại nạn phân biệt chủng tộc bài người da đen. Thông thường, chúng tôi đã đi theo hiện trạng và liên kết với người da trắng.

clip_image010

Chủ cửa hàng tạp hóa người Nhật ở Oakland, California treo một tấm biển nhắc nhở khách qua đường về lòng trung thành của ông với nước Mỹ chứ không phải Nhật Bản, năm 1944. Library of Congress/Corbis/VCG/Getty Images

Tuy nhiên, vẫn có những người Mỹ gốc Á lên tiếng kêu gọi đoàn kết với người da đen và những người da màu khác, từ nhà hoạt động Yuri Kochiyama, người đã ôm Malcolm X đang hấp hối, đến nhà hoạt động Grace Lee Boggs, định cư ở Detroit và tham gia vào việc tổ chức và lý thuyết hoá một cách nghiêm túc, cấp tiến với người chồng da đen James Boggs của bà. Kochiyama và Lee Boggs không phải là những người Mỹ gốc Á duy nhất cho rằng người Mỹ gốc Á không nên đứng một mình hoặc chỉ đứng vì chính mình. Chính thuật ngữ người Mỹ gốc Á, do Yuji Ichioka và Emma Gee đặt ra vào những năm 1960 và được các nhà hoạt động sinh viên đại học áp dụng, đã được đưa vào ý thức cả nước bởi một phong trào không chỉ nhằm bảo vệ người Mỹ gốc Á chống lại nạn phân biệt chủng tộc và quảng bá căn tính Mỹ Á.

Các nhà hoạt động người Mỹ gốc Á coi phong trào của họ cũng là phản chiến, chống chủ nghĩa đế quốc và chống chủ nghĩa tư bản. Lấy cảm hứng từ Hội nghị Bandung năm 1955, một cuộc tụ họp của các quốc gia châu Phi và châu Á không liên kết, và từ Mao, họ xác định mình đang trong cuộc đấu tranh quốc tế chống lại chủ nghĩa thực dân cùng với các dân tộc thuộc địa khác. Mao cũng truyền cảm hứng cho những người Mỹ gốc Phi cấp tiến, và cuối những năm 1960 ở Mỹ là thời điểm mà các nhà hoạt động cấp tiến thuộc mọi thành phần tự coi mình là một phần của phong trào Thế giới thứ Ba liên kết các cuộc nổi dậy của các nhóm sắc tộc thiểu số với một cuộc nổi dậy toàn cầu chống lại chủ nghĩa tư bản, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân và chiến tranh.

Di sản của các phong trào ở Thế giới thứ Ba và phong trào Mỹ Á vẫn tiếp tục cho đến ngày nay nơi các nhà hoạt động và học giả Mỹ gốc Á, những người từ lâu đã cho rằng người Mỹ gốc Á, do lịch sử trải qua nạn phân biệt chủng tộc và bóc lột lao động, mang lại tiềm năng căn nguyên để phản đối những khía cạnh tồi tệ nhất của xã hội Mỹ. Nhưng hơn 22 triệu người Mỹ gốc Á, hơn 6% dân số Mỹ, có nhiều nguồn gốc dân tộc và sắc tộc và tổ tiên khác nhau cũng như thời gian nhập cư hoặc định cư khác nhau. Kết quả là chúng ta thường có quan điểm chính trị khác nhau. Người Mỹ gốc Á ngày nay được đưa cho hai con đường: tương lai cấp tiến do phong trào Mỹ Á tưởng tượng ra và mô hình tiêu dùng được tượng trưng bằng việc uống trà sữa trân châu và nghe nhạc K-pop. Trong khi những người Mỹ gốc Á ngày càng có xu hướng theo Đảng Dân chủ chúng tôi không phải là người cấp tiến.

Cái làm người Mỹ gốc Á đoàn kết với nhau và khiến chúng tôi phẫn nộ là nạn phân biệt chủng tộc và sát hại người gốc Á, bắt đầu bằng bạo lực và sự độc ác trong nạn bài Trung Quốc trong thế kỷ 19 và tiếp tục qua những vụ việc như một tay súng da trắng giết chết 5 trẻ em tị nạn Việt Nam và Campuchia ở trường học Stockton, California vào năm 1989, và một tay súng da trắng khác giết chết sáu thành viên ở nơi thờ tự gurdwara đạo Sikh tại Wisconsin năm 2012. Vụ sát hại Vincent Chin, bị giết năm 1982 bởi những người thợ ô tô da trắng ở Detroit vì nhầm anh ta với người Nhật, vẫn là một chấn động lớn. Cũng như các cuộc bạo loạn hay nổi dậy ở Los Angeles năm 1992, khi phần lớn Khu phố Hàn (Koreatown) bị những kẻ cướp bóc chủ yếu là người da đen và da nâu thiêu rụi trong khi LAPD (Sở cảnh sát Los Angeles) vẫn canh chừng. Các thương gia người Mỹ gốc Hàn phải chịu khoảng một nửa thiệt hại kinh tế. Hai người Mỹ gốc Á đã thiệt mạng trong vụ bạo lực.

Tất cả những điều này là nguyên nhân gây ra sự thương tiếc, tưởng nhớ và phẫn nộ, nhưng cũng như vậy với một mặt khác: 61 người khác đã chết không phải là người châu Á, và phần lớn trong số họ là người da đen hoặc da nâu. Hầu hết trong số hơn 12.000 người bị bắt đều là người da đen hoặc da nâu. Nói tóm lại, người Mỹ gốc Hàn phải gánh chịu những tổn thất về kinh tế cũng như những huỷ hoại về cảm xúc và tinh thần, và sẽ tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau đó. Nhưng họ có tài sản để mất, và họ đã không phải trả giá cho bản chất Mỹ mỏng manh của mình bằng sự mất mát về sinh mạng hoặc tự do như những khách hàng và hàng xóm da đen và da nâu của họ đã trải qua.

Nhiều người Mỹ gốc Hàn tức giận vì họ cảm thấy cơ quan thực thi pháp luật và lãnh đạo chính trị của thành phố đã hy sinh họ bằng cách ngăn chặn tình trạng bất ổn lan đến những khu vực của người da trắng trong thành phố, khiến người Mỹ gốc Hàn phải gánh chịu cơn thịnh nộ âm ỉ kéo dài của người Angeleno da đen và da nâu trên sự nghèo đói, phân biệt đối xử và bị cảnh sát cư xử ngược đãi. Sau đó, Koreatown được xây dựng lại, mặc dù không phải tất cả các chủ cửa hàng đều phục hồi được sinh kế. Trớ trêu thay, một số tiền để xây dựng lại khu phố Hàn lại đến từ Hàn Quốc, quốc gia đã trải qua quá trình chuyển đổi kéo dài hàng thập kỷ thành một cường quốc kinh tế. Thủ đô Hàn Quốc và cuối cùng là văn hóa đại chúng Hàn Quốc, đặc biệt là điện ảnh và K-pop, trở nên ngầu hơn và thời thượng hơn di dân Hàn Quốc đã rời Hàn Quốc để đến với Giấc mơ Mỹ. Ngay cả khi cuộc đấu tranh kinh tế vẫn quyết định phần lớn cuộc sống của người nhập cư Hàn Quốc, nó vẫn bị lu mờ bởi nhận thức chung của người Mỹ về sự thành công của người Mỹ gốc Á và bởi yếu tố mới về vốn và sự cạnh tranh của người châu Á.

Đây chính là ý nghĩa của việc trở thành một thiểu số kiểu mẫu: vô hình trong hầu hết các trường hợp bởi vì chúng tôi đang làm những gì chúng tôi phải làm, giống như ba mẹ tôi, cho đến khi chúng tôi trở nên cực kỳ hữu hình vì chúng tôi đang làm quá tốt, giống như những chủ cửa hàng người Hàn Quốc. Sau đó, thiểu số kiểu mẫu trở thành kẻ xâm lược châu Á, và thiểu số kiểu mẫu Mỹ gốc Á, từng chứng tỏ sự thành công của chủ nghĩa tư bản, lại phải chịu trách nhiệm khi chủ nghĩa tư bản thất bại.

clip_image012

Lực lượng Vệ binh Quốc gia tại Cuộc diễu hành Tự hào Hàn Quốc (Korean Pride Parade) ở Los Angeles vào ngày 29 tháng 4 năm 1992 sau cuộc bạo loạn quét qua thành phố, sau khi ba trong số bốn sĩ quan cảnh sát bị buộc tội đánh đập Rodney King năm 1991 đã được xóa bỏ mọi cáo buộc. Ted Soqui – Corbis/Getty Images

Không có nghĩa là chúng tôi phải gánh chịu gánh nặng của chủ nghĩa tư bản. Nằm giữa mối quan hệ chủng tộc đầy căng thẳng của nước Mỹ, nhìn chung, chúng tôi nhận được nhiều lợi ích từ chủ nghĩa tư bản Mỹ hơn người da đen, da nâu hoặc người da đỏ bản địa, ngay cả khi nhiều người trong chúng tôi cũng trải qua nghèo đói và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Mặc dù một số người trong chúng tôi chết vì sự ngược đãi của cảnh sát, nhưng nó không xảy ra ở quy mô tương tự như những gì nhắm vào người da đen, da nâu hoặc thổ dân bản địa. Mặc dù chúng tôi trải qua sự chia tách, phân biệt chủng tộc và thù địch, nhưng chúng tôi cũng có nhiều khả năng sống trong các khu dân cư hòa nhập hơn người da đen hoặc người bản địa. Ở mức độ mà chúng tôi có được lợi thế nhờ chủng tộc của mình, chúng tôi cũng đồng lõa trong việc duy trì một hệ thống gây bất lợi cho người da đen, da nâu và bản địa vì chủng tộc của họ.

Với vị trí mong manh của chúng tôi trong xã hội Mỹ, không có gì ngạc nhiên khi rất nhiều người Mỹ gốc Á có thể muốn chứng tỏ chất Mỹ của họ, hoặc mơ ước được một xã hội do người da trắng thống trị chấp nhận, hoặc lên án Tou Thao không phải là một trong “chúng tôi”. Nhưng khi người Mỹ gốc Á nói về tập thể rộng lớn của họ, có nguồn gốc từ Đông sang Tây Á và Nam đến Đông Nam Á, thì “chúng tôi” mà chúng tôi sử dụng là ai? Chủ nghĩa đa văn hóa ưu tú của những người da màu ở những vị trí cao là một nền chính trị đại diện nhẹ nhàng tập trung vào sự đồng hóa. Từ lâu đã bị loại khỏi cuộc sống của người Mỹ, bị coi là những người ngoài hành tinh không thể hòa nhập và là những người nước ngoài vĩnh viễn, chúng tôi được hỏi chúng tôi đến từ đâu và họ khen ngợi tiếng Anh của chúng tôi, những người nhập cư châu Á và con cháu họ đã nhiệt tình tìm cách biến đất nước này thành của riêng mình. Nhưng từ góc nhìn của nhiều người da đen, da nâu và da đỏ bản địa, đất nước này được xây dựng dựa trên sự nô lệ của họ, sự tước đoạt từ họ, sự xóa sổ họ, sự cưỡng bức di cư của họ, sự giam cầm họ, sự chia tách họ, lạm dụng họ, sức lao động bị bóc lột và sự thuộc địa hoá họ.

Đối với nhiều người, nếu không phải là với tất cả người da đen, da nâu và da đỏ bản địa, thì Giấc mơ Mỹ vừa là một trò hề vừa là một bi kịch. Chủ nghĩa đa văn hóa có thể khiến chúng ta cảm thấy thoải mái, nhưng nó sẽ không cứu được Giấc mơ Mỹ; các khoản bồi thường, tái phân phối kinh tế và cắt giảm ngân sách hoặc bãi bỏ quyền lực của cảnh sát.

Nếu trải nghiệm của người Hmong phù hợp hơn với sự thất bại của Giấc mơ Mỹ, thì việc một số người Mỹ gốc Á vẫn muốn có một phần trong đó có ý nghĩa gì? Nếu chúng ta thỉnh cầu nước Mỹ, thì chúng ta phải thỉnh cầu toàn bộ nước Mỹ, niềm hy vọng và sự đạo đức giả của nó, lợi ích và nỗi đau của nó, sự tự do và những mất mát của nó, sự thống nhất không hoàn hảo và sự chia tách đang diễn ra của nó.

Do đó, trở thành người Mỹ gốc Á là một điều nghịch lý, vì là người Mỹ gốc Á vừa cần thiết vừa không đủ. Là người Mỹ gốc Á là cần thiết, tên và căn tính cho chúng tôi thứ gì đó để sắp xếp, cho phép chúng tôi có nhiều hơn “những cảm xúc nhỏ nhặt”. Tôi nhớ rất rõ việc trở thành một người Mỹ gốc Á vào năm thứ hai đại học, khi tôi chuyển đến UC Berkeley, bước chân vào khuôn viên trường và ngay lập tức bị chấn động về trí tuệ và chính trị ở đó. Thông qua các khóa học nghiên cứu về Mỹ Á và các nhà hoạt động sinh viên bạn bè của tôi trong Liên minh Chính trị Mỹ Á, tôi không còn là một phần vô danh của “cuộc xâm lược của người châu Á”. Tôi là một người Mỹ gốc Á. Tôi có một khuôn mặt, một giọng nói, một cái tên, một phong trào, một lịch sử, một ý thức, một cơn thịnh nộ. Cơn thịnh nộ đó là một cảm giác lớn lao, buộc tôi phải từ chối lối chính trị phục tùng xin lỗi, điều mà sự chấp nhận Giấc mơ Mỹ một cách thiếu phê phán đòi hỏi.

Nhưng cơn thịnh nộ nằm ở trung tâm của phong trào Mỹ Á – một cơn thịnh nộ chính đáng, một cơn phẫn nộ vì công lý, sự thừa nhận, sự cứu chuộc – đã không thể khắc phục được sự biến đổi của phong trào thành một căn tính bị pha loãng nếu được trao quyền. Ở dạng loãng nhất, căn tính Mỹ Á cũng mở ra cơ hội cho sự phân biệt chủng tộc chống người da đen, chấp nhận quá trình thuộc địa hóa và thúc đẩy cỗ máy chiến tranh chuyển động không ngừng của Mỹ, mà người Mỹ từ khắp các đảng Dân chủ và Cộng hòa chấp nhận như một phần của Hoa Kỳ.

clip_image014

Người tị nạn từ Việt Nam xuống cầu thang máy bay ở Oakland, California, tháng 4 năm 1975. Ted Streshinsky – Corbis/Getty Images

Sự hiện diện của tôi ở đất nước này, của ba mẹ tôi, và phần lớn người Việt Nam và người Hmong, là do cái gọi là Chiến tranh Việt Nam ở Đông Nam Á mà Hoa Kỳ đã giúp gây ra. Cuộc chiến ở Lào được gọi là “Chiến tranh bí mật” (the Secret War) vì CIA tiến hành và giữ bí mật với người dân Mỹ. Ở Lào, người Hmong là một dân tộc thiểu số không quốc tịch, không có quốc gia riêng, và các cố vấn CIA đã hứa với người Hmong rằng nếu họ chiến đấu cùng, Hoa Kỳ sẽ chăm sóc người Hmong cả khi chiến thắng và thất bại, thậm chí có thể giúp họ lấy được quê hương của chính họ. Khoảng 58.000 người Hmong chiến đấu cùng người Mỹ đã thiệt mạng, chiến đấu với quân cộng sản và giải cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi đang thực hiện nhiệm vụ ném bom bí mật trên lãnh thổ Lào. Khi chiến tranh kết thúc, CIA đã bỏ rơi hầu hết đồng minh người Hmong của mình, chỉ đưa một số nhỏ rời khỏi đất nước đến Thái Lan. Những người ở lại phải chịu sự đàn áp của đối thủ phía cộng sản.

Đây chính là lý do khiến khuôn mặt của Tou Thao ám ảnh tôi. Không chỉ bởi vì chúng tôi có thể trông giống nhau ở một khía cạnh nào đó với tư cách là người Mỹ gốc Á, mà bởi vì ông ấy và tôi ở đây vì lịch sử chiến tranh của nước Mỹ. Chiến tranh là một bi kịch đối với chúng tôi, cũng như đối với những người Mỹ da đen được cử đến “đảm bảo các quyền tự do ở Đông Nam Á mà họ không tìm thấy ở tây nam Georgia và Đông Harlem,” như Martin Luther King Jr. đã lập luận sôi nổi trong bài phát biểu năm 1967 của mình – “Bên ngoài Việt Nam” (Beyond Vietnam). Trong bài phát biểu cấp tiến này, ông lên án không chỉ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc mà còn cả chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa đế quốc Mỹ và cỗ máy chiến tranh của Mỹ, “kẻ cung cấp bạo lực lớn nhất trên thế giới ngày nay”. Trong một bài phát biểu khác, ông yêu cầu chúng ta đặt câu hỏi cho “toàn bộ xã hội” của mình, nghĩa là “cuối cùng phải thấy rằng vấn đề phân biệt chủng tộc, vấn đề bóc lột kinh tế và vấn đề chiến tranh đều gắn liền với nhau”.

Không có thay đổi gì mấy. Hoa Kỳ vẫn là một quốc gia được xây dựng dựa trên chiến tranh và cho chiến tranh. Đây là lý do tại sao “Việt Nam”, có nghĩa là Chiến tranh Việt Nam, tiếp tục ám ảnh đất nước này, mắc kẹt trong một cuộc chiến tranh mãi mãi. Và đây chính là lý do khiến khuôn mặt của Tou Thao ám ảnh tôi. Đó là khuôn mặt của một người chia sẻ một phần lịch sử của tôi và đã làm điều mà tôi sợ phải làm khi đối mặt với sự bất công – là chẳng làm gì cả. Nói với Tou Thao, nhà thơ Mai Der Vang, cũng là người Hmong, đã viết trong bài thơ của bà “Năm hoán vị” (In the Year of Permutations): “Hãy sống với chính mình sau những gì bạn đã không làm”. Thao đã “đồng lõa khi thêm vào/ thực thi quyền lực trên cổ… Không bao giờ thực sự được chấp nhận/ luôn là một con tốt”. Trong khi cuộc sống của một sĩ quan cảnh sát người Mỹ gốc Hmong xuất thân từ những người tị nạn khác với cuộc sống của một kỹ sư người Mỹ gốc Hoa thuộc nhóm thiểu số kiểu mẫu hay một nhà văn người Mỹ gốc Việt như tôi, những lựa chọn đạo đức vẫn như nhau. Đoàn kết hay đồng lõa. Đứng lên chống lại quyền lực lạm dụng hay quay lưng lại với lạm dụng quyền lực. Nếu chúng tôi, những người Mỹ gốc Á chọn điều thứ hai, thì chúng tôi thực sự là thiểu số kiểu mẫu, và chúng tôi xứng đáng nhận được cả những đặc quyền cũng như những hiểm họa từ nó.

Thử thách của chúng tôi là vừa là người Mỹ gốc Á vừa tưởng tượng ra một thế giới vượt ra ngoài nó, một thế giới trong đó việc là người Mỹ gốc Á là không cần thiết. Đây không phải là vấn đề đồng hóa hay đa văn hóa. Đây là một mâu thuẫn, kế thừa từ mâu thuẫn cơ bản gắn kết cơ thể chính trị Hoa Kỳ với nhau, khát vọng hướng tới sự bình đẳng cho tất cả mọi người, gắn liền với nhu cầu khai thác đất đai và những con người bị phân biệt chủng tộc, bắt đầu từ chính nguồn gốc của xã hội Mỹ và sự chinh phạt của nó lên các quốc gia người da đỏ bản địa và việc nhập khẩu nô lệ châu Phi. Hoa Kỳ là một ví dụ về một dự án thuộc địa hóa thành công, chỉ có điều ở đây chúng ta không gọi quá trình thuộc địa hóa bằng cái tên đó. Thay vào đó, chúng ta gọi quá trình thuộc địa hóa thành công là “Giấc mơ Mỹ”. Đây là lý do tại sao, như Mai Der Vang nói, “Giấc mơ Mỹ sẽ không cứu được chúng ta”.

Cụm từ “người Mỹ gốc Á” không nên tồn tại ở một vùng đất mà mọi người đều bình đẳng, nhưng vì sự tồn tại dai dẳng của nạn phân biệt chủng tộc và nhu cầu lao động phân biệt chủng tộc, giá rẻ của chủ nghĩa tư bản, “người Mỹ gốc Á” thực sự tồn tại. Sự kết thúc của người Mỹ gốc Á chỉ xảy ra khi nạn phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa tư bản chấm dứt. Đối mặt với vấn đề này, người Mỹ gốc Á có thể là hình mẫu của lời xin lỗi, cố gắng chứng minh chất Mỹ mà vốn không thể chứng minh được. Hoặc chúng tôi có thể trở thành một hình mẫu của công lý và đòi hỏi sự bình đẳng hơn về kinh tế và xã hội cho chúng tôi và cho tất cả người Mỹ.

Nếu chúng ta không hài lòng với những thất bại và hạn chế của đất nước mình, được bộc lộ rõ ràng trong thời gian xảy ra đại dịch vi-rút corona, thì bây giờ là lúc chúng ta thay đổi đất nước mình theo hướng tốt đẹp hơn. Nếu bạn cho rằng nước Mỹ đang gặp khó khăn, hãy đổ lỗi cho các cổ đông chứ không phải người nhập cư; hãy nhìn vào các CEO chứ không phải người nước ngoài; hãy phẫn nộ với các tập đoàn, chứ không phải người thiểu số; la mắng các chính trị gia của cả hai đảng, chứ không phải những người yếu đuối, những người có rất ít quyền lực hoặc của cải để chia sẻ. Nhiều người Mỹ thuộc mọi tầng lớp hiểu rõ điều này hơn so với năm 1992. Rồi thì, những người biểu tình giận dữ đã đốt cháy khu phố Hàn. Bây giờ, họ đang bao vây một cách ôn hoà quanh Nhà Trắng.

Yêu cầu những người có quyền lực và giàu có chia sẻ quyền lực và sự giàu có của họ là điều sẽ làm cho nước Mỹ vĩ đại. Cho đến lúc đó, chủng tộc sẽ tiếp tục chia rẽ chúng ta. Đặt Tou Thao ở giữa sự chia tách của người Hmong và người da đen, hay sự chia tách của người da đen và người gốc Á, như thể chủng tộc là vấn đề duy nhất và là câu trả lời duy nhất, đã che khuất một thống kê tai hại: tỷ lệ nghèo toàn quốc là 15,1% vào năm 2015, trong khi tỷ lệ nghèo đối với người Mỹ gốc Phi là khoảng 24,1% và đối với người Mỹ gốc Hmong là 28,3%.

image

Youa Vang Lee phát biểu trước hàng nghìn người tham dự buổi biểu tình tưởng niệm George Floyd tại Tòa nhà Quốc hội Bang Minnesota vào ngày 31 tháng 5 năm 2020. Brooklynn Kascel – Polaris

Vấn đề là chủng tộc, giai cấp và chiến tranh – một quốc gia hầu như luôn có chiến tranh ở nước ngoài, sau đó khiến người nghèo thuộc mọi chủng tộc và các nhóm thiểu số bị bóc lột chống lại nhau trong một cuộc chiến trong nước vì nguồn tài nguyên khan hiếm. Chừng nào hệ thống lai giữa quyền lực tối cao của người da trắng và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại, thì sẽ luôn có người viết tấm biển đó: MỘT NGƯỜI MỸ NỮA BỊ MẤT VIỆC BỞI [điền vào chỗ trống], bởi vì phân biệt chủng tộc luôn tạo ra cám dỗ đổ lỗi cho người yếu hơn là kẻ mạnh. Những người viết những tấm biển này đang tham gia vào một loại chính trị bản sắc nguy hiểm nhất, loại dân tộc chủ nghĩa Hoa Kỳ xác định ngay thuở ban đầu đất nước này đã là của người da trắng và giàu có. Cảnh sát được thành lập để bảo vệ người da trắng, người có tài sản và đồng minh của họ, và sẽ tiếp tục làm như vậy. Người da đen biết rất rõ điều này, nhiều người xuất thân từ những người vốn là tài sản [của người da trắng].

Ba mẹ tôi, những người mới đến Mỹ, đã học được bài học này một cách sâu sắc nhất. Khi mở New Saigon, họ bảo tôi đừng gọi cảnh sát nếu có rắc rối. Ở Việt Nam, cảnh sát không đáng tin cậy. Cảnh sát tham nhũng. Nhưng vài năm sau, khi một tay súng có vũ trang (da trắng) xông vào nhà chúng tôi và chĩa súng vào mặt tất cả chúng tôi, và sau khi mẹ tôi lao tới hắn và lao ra đường và cứu mạng chúng tôi, tôi đã gọi cảnh sát. Các sĩ quan cảnh sát đến là người da trắng và người Latinh. Họ nhẹ nhàng và tôn trọng chúng tôi. Chúng tôi sở hữu tài sản. Chúng tôi là nạn nhân. Tuy nhiên, địa vị của chúng tôi với tư cách là những người có tài sản, là những người tị nạn thực hiện Giấc mơ Mỹ, là những người hàng xóm tốt của người da trắng, luôn mong manh, khi mà tấm biển đó luôn có thể được treo lên.

Nhưng những người treo tấm biển đó đã hiểu sai một thực tế cơ bản của đời sống Mỹ: Nước Mỹ được xây dựng dựa trên việc đẩy các doanh nghiệp khác ra khỏi hoạt động kinh doanh. Đây là vòng đời của chủ nghĩa tư bản, trong đó Giấc mơ Mỹ (Á) đa văn hóa, xuyên Thái Bình Dương và liên kết là hoàn toàn phù hợp. Ba mẹ tôi, những nhà tư bản bẩm sinh, đã thành công trong vòng đời này cho đến khi đến lượt họ bị đẩy ra khỏi công việc kinh doanh. Thành phố San Jose, trung tâm thành phố bị bỏ bê khi bố mẹ tôi đến, đã thay đổi cách tiếp cận của nó với sự trỗi dậy của Thung lũng Silicon. Nhận thấy rằng trung tâm thành phố phải phản ánh hình ảnh của một đô thị công nghệ hiện đại, thành phố đã sử dụng lãnh địa nổi tiếng để buộc bố mẹ tôi phải bán cửa hàng của họ. Đối diện với nơi mà New Saigon từng tọa lạc giờ đây hiện ra lờ mờ tòa thị chính mới toanh, nơi được cho là đối diện với một nhà hát giao hưởng hoàn toàn mới.

Tôi thích ý tưởng rằng một bản giao hưởng có thể phát ra từ cội nguồn tị nạn của New Saigon, nơi ba mẹ tôi không chỉ đổ mồ hôi mà còn đổ máu, từng bị bắn ở đó vào đêm Giáng sinh. Nhưng trong nhiều năm, tất cả những gì thuộc sở hữu của bố mẹ tôi chỉ là một bãi đậu xe tồi tàn. Cuối cùng, thành phố đã bán được bất động sản đó với giá hàng triệu đô la, và giờ đây một tòa tháp chung cư đắt tiền đang được xây dựng trên địa điểm ba mẹ tôi đấu tranh cho Giấc mơ Mỹ. Bản giao hưởng chưa bao giờ được nghe. Đó cũng là nước Mỹ.

Chuyện này cũng vậy: mẹ của Fong Lee, Youa Vang Lee, tuần hành cùng nhóm 4 người thuộc phong trào Black Lives của người Hmong tại thủ phủ bang Minnesota sau vụ giết George Floyd. “Tôi phải ở đó”, bà nói. Bà nói bằng tiếng Hmong nhưng không cần dịch ra cũng có thể hiểu được cảm xúc của bà.

“Điều tương tự cũng đã xảy ra với con trai tôi”.


[1] Chink: từ cực kỳ xúc phạm khi gọi một người Trung Quốc hoặc một người bị cho là người Trung Quốc. (Các chú thích trong bài này là của người dịch)

[2] Ching-chong: từ mang tính miệt thị nhắm vào người Trung Quốc hoặc bị cho là người Trung Quốc.

[3] Kung flu: flu là bệnh cúm; kung flu là chơi chữ từ chữ kungfu, vốn chỉ môn quyền cước của Trung Quốc.

Comments are closed.